Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021

Viếng Vương cung Thánh đường Sant’Apollinare và ảnh Đức Mẹ được tái khám phá

Viếng Vương cung Thánh đường Sant’Apollinare và ảnh Đức Mẹ được tái khám phá

Viếng Vương cung Thánh đường Sant’Apollinare và ảnh Đức Mẹ được tái khám phá

© Ufficio Comunicazione Pontificia Università della Santa Croce

Marinella Bandini

25/03/21


Nhà thờ Chặng Đàng Ngày 36: Lời cầu nguyện từ năm 1657 khẩn xin Mẹ Maria cầu bầu giải thoát khỏi bệnh dịch.



Aleteia mời bạn thực hiện một chuyến hành hương Mùa Chay trên internet đi qua 42 nhà thờ chặng đàng của Roma: mỗi ngày một nhà thờ, từ 17 tháng Hai đến 11 tháng Tư.


Ngày 36

Chặng đàng Thánh giá Mùa Chay hôm nay đưa chúng ta đến quảng trường Piazza Navona, đến vương cung thánh đường cung hiến cho Thánh Apollinaris, vị giám mục đầu tiên của Ravenna. Theo truyền thống ngài là môn đệ của Thánh Phêrô và được chính Thánh Phêrô tấn phong.

Nhà thờ được xây dựng trên nhà tắm cổ đại của Nero và lần đầu tiên được nói đến vào cuối thế kỷ thứ 8. Sau nhiều lần tu sửa, nhà thờ được Đức Benedict XIV xây dựng lại và thánh hiến năm 1748, với hình dáng chúng ta nhìn thấy ngày nay. Từ năm 1990, vương cung thánh đường trở thành nhà nguyện của Đại học Giáo hoàng Thánh giá, được giao cho Opus Dei.

Trong sân trong của vương cung thánh đường — được chuyển đổi thành một nhà nguyện — có lưu giữ bức ảnh “Sacra Effige” của Đức Trinh nữ, cung còn được gọi là “Đức Mẹ Apollinare.” Vào tháng Mười Hai năm 1494 tấm ảnh được phát hiện với một lớp thạch cao đắp lên trên để bảo vệ nó thoát khỏi quân lính của vua Charles VIII. Sau đó bức ảnh bị lãng quên và được tái khám phá còn nguyên vẹn năm 1647 khi lớp thạch cao được tháo ra.

Biến cố được xem là diệu kỳ và bức ảnh ngay lập tức trở thành trung tâm điểm của lòng sùng mộ bình dân. Trong dòng chữ khắc bên dưới ảnh có một lời cầu nguyện mà người La Mã dâng lên Mẹ cầu xin sự trợ giúp trong cơn dịch bệnh truyền nhiễm năm 1657: “Lạy Mẹ Maria Rất Thánh, Đấng sửa chữa hòa bình giữa các tín hữu Kitô giáo, xin chuyển cầu lên Thiên Chúa cho chúng con để chúng con có thể được giải thoát khỏi dịch bệnh và thoát khỏi sự dữ trong hiện tại và tương lai.”

Một lời cầu nguyện thậm chí chúng ta vẫn lặp lại ngày nay, trong thời gian đại dịch, — một sự trùng hợp thật hạnh phúc — Đại lễ Truyền tin.

Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói. (Lc 1:38)

* Phối hợp với Văn phòng Truyền thông Xã hội của Khu Tông tòa Roma.

Viếng Vương cung Thánh đường Sant’Apollinare và ảnh Đức Mẹ được tái khám phá

Vương cung thánh đường Sant’Apollinare ở Campo Marzio (bên ngoài). Nhà thờ được xây dựng trên phòng tắm cổ đại của Nero. Những ghi chép sớm nhất về sự tồn tại của nhà thờ có niên đại từ cuối thế kỷ thứ 8. © Ufficio Comunicazione Pontificia Università della Santa Croce

Viếng Vương cung Thánh đường Sant’Apollinare và ảnh Đức Mẹ được tái khám phá

Vương cung thánh đường Sant’Apollinare ở Campo Marzio (bên trong). Sau nhiều lần tu sửa, nhà thờ được Đức Benedict XIV xây dựng lại và thánh hiến vào năm 1748, với hình dáng như chúng ta thấy ngày nay. © Ufficio Comunicazione Pontificia Università della Santa Croce

Viếng Vương cung Thánh đường Sant’Apollinare và ảnh Đức Mẹ được tái khám phá

Vương cung thánh đường Sant’Apollinare ở Campo Marzio (Đức Mẹ Apollinare). Bức ảnh được bao phủ bởi một lớp thạch cao vào năm 1494 để bảo vệ ảnh thoát khỏi quân lính của vua Charles VIII. Sau đó tấm ảnh bị lãng quên, và được phát hiện lại hoàn toàn nguyên vẹn vào năm 1647 khi lớp thạch cao bị gỡ bỏ. Sự kiện được coi là kỳ diệu, và hình ảnh đã trở thành tâm điểm của lòng sùng kính bình dân. © Ufficio Comunicazione Pontificia Università della Santa Croce

Viếng Vương cung Thánh đường Sant’Apollinare và ảnh Đức Mẹ được tái khám phá

Vương cung thánh đường Sant’Apollinare ở Campo Marzio (cung thánh). Từ năm 1990, vương cung thánh đường trở thành nhà nguyện của Đại học Giáo hoàng Thánh Giá, được giao cho Opus Dei. © Ufficio Comunicazione Pontificia Università della Santa Croce

Viếng Vương cung Thánh đường Sant’Apollinare và ảnh Đức Mẹ được tái khám phá

Vương cung thánh đường Sant’Apollinare ở Campo Marzio. Bàn thờ chính miêu tả Thánh Apollinaris được thánh Phêrô tấn phong giám mục. ©Ufficio Comunicazione Pontificia Università della Santa Croce

Viếng Vương cung Thánh đường Sant’Apollinare và ảnh Đức Mẹ được tái khám phá

Vương cung thánh đường Sant’Apollinare ở Campo Marzio. Bức bích họa trên mái vòm miêu tả “Vinh quang của Thánh Apollinaris.””©Ufficio Comunicazione Pontificia Università della Santa Croce


Quý vị đọc về truyền thống của các nhà thờ chặng đàng ở đây. Và xem các nhà thờ trước đây trong cuộc hành hương ở đây.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/4/2021]


Gặp gỡ đội bóng polo nước Pro Recco 1913, 22.04.2021

Gặp gỡ đội bóng polo nước Pro Recco 1913, 22.04.2021

Gặp gỡ đội bóng polo nước Pro Recco 1913, 22.04.2021


Sáng nay Đức Thánh Cha tiếp Đội Bóng Nước Pro Recco 1913, và ngài có đôi lời chào ứng khẩu dưới đây:

 

*****

Lời chào của Đức Thánh Cha

Cha chào các con và cảm ơn các con đến thăm. Cảm ơn các con rất nhiều!

Môn thể thao bóng nước của các con không hề dễ dàng, nhưng nó thú vị, nó cần kỷ luật để chơi. Cha luôn lặp lại khi cha nói với mọi người về thể thao. Cha nói hai điều:

Làm việc đồng đội là điều thứ nhất. Trong thể thao điều thất bại lớn nhất của một người chơi là làm việc và chơi một mình; như người Argentina của cha nói: “morfarse la pelota”, giữ bóng cho riêng mình. Nó có nghĩa là “ăn bóng”. Điều này không tốt. Nó phá hủy. Phải luôn luôn chơi như một đội.

Và điều thứ hai: đừng bao giờ đánh mất chiều kích nghiệp dư nó là “thuật thần bí” của thể thao. Phải luôn có ở đó một chút tinh thần nghiệp dư. Đừng đánh mất nó, vì nó chính là điểm xuất phát của thuật thần bí. Đây là hai điều cha luôn luôn nói: làm việc đồng đội và chiều kích nghiệp dư.

Và hãy tiến tới, tiếp tục tiến bước! Cảm ơn các con đến thăm. Cha thích được gặp gỡ các con. Cha sẽ ban phép lành cho tất cả các con, xin Chúa đồng hành với các con, chúc phúc cho các con và dẫn đưa các con tiến bước trong cuộc sống.

[Phép lành]

Và cảm ơn các con! Cảm ơn các con rất nhiều.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 23/4/2021]


Thứ Năm, 29 tháng 4, 2021

Tiếp Kiến Chung của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 29 tháng Tư, 2021

Tiếp Kiến Chung của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 29 tháng Tư, 2021

Tiếp Kiến Chung của Đức Thánh Cha Phanxicô

Thư viện Điện Tông tòa

Thứ Tư, 28 Tháng Tư, 2021



Giáo lý về cầu nguyện: 31. Suy gẫm

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay chúng ta sẽ nói về hình thức cầu nguyện được gọi là suy gẫm. Đối với một người Kitô hữu, “suy gẫm” là tìm kiếm ý nghĩa: nó hàm ý đặt mình trước trang sách Mạc khải mênh mông để cố gắng biến nó thành của riêng mình, nắm lấy nó một cách trọn vẹn. Và người Kitô hữu, sau khi đã đón nhận Lời Chúa, không giấu kín Lời Chúa cho riêng mình, vì Lời ấy phải được gặp “một quyển sách khác”, mà Sách Giáo lý gọi là “cuốn sách cuộc đời” (xem Giáo lý Công giáo, 2706). Đây là điều chúng ta cố gắng làm mỗi khi suy gẫm Lời Chúa.

Việc thực hành suy gẫm đã nhận được rất nhiều sự quan tâm trong những năm gần đây. Không riêng người Kitô giáo mới nói về nó: việc thực hành thiền định tồn tại trong hầu hết các tôn giáo trên thế giới. Nhưng nó cũng là một hoạt động phổ biến giữa những người không có quan điểm tôn giáo về cuộc sống. Tất cả chúng ta cần suy gẫm, suy tư, khám phá bản thân, nó là một động lực của con người. Đặc biệt là trong thế giới phương Tây khao khát tìm hiểu, người ta tìm đến việc suy gẫm vì nó đại diện cho một ranh giới bậc cao chống lại sự căng thẳng hàng ngày và sự trống rỗng có ở khắp mọi nơi. Và đây là hình ảnh của những người trẻ và người trưởng thành đang ngồi suy gẫm, trong thinh lặng, mắt nhắm một nửa ... Chúng ta có thể đặt câu hỏi, những người này đang làm gì vậy? Họ suy gẫm. Đó là một hiện tượng cần được nhìn nhận một cách thiện chí: thật vậy, chúng ta không được tạo dựng để chạy suốt mọi lúc, chúng ta có một đời sống nội tâm không thể bị sao lãng. Vì vậy suy gẫm là nhu cầu của tất cả mọi người. Có thể nói, suy gẫm cũng giống như việc dừng lại và hít thở trong cuộc sống. Dừng lại và tĩnh lặng.

Nhưng chúng ta nhận ra rằng, khi được đón nhận trong bối cảnh của Kitô giáo, từ ngữ này mang một tính riêng biệt không thể tẩy xóa. Suy gẫm là một chiều kích cần thiết của con người, nhưng suy gẫm trong bối cảnh Kitô giáo - là người Kitô giáo chúng ta - còn đi xa hơn: đó là một chiều kích không thể bị tẩy xóa. Chúng ta hãy tự nhắc nhở mình một lần nữa rằng cánh cửa lớn mà qua đó lời cầu nguyện của một người được rửa tội đi qua là Chúa Giêsu Kitô. Với người Kitô giáo, suy gẫm đi vào qua cánh cửa của Chúa Giêsu Kitô. Việc thực hành suy gẫm cũng đi theo con đường này. Và người Kitô hữu, khi cầu nguyện không khao khát tự mình hiểu thấu đáo, không tìm kiếm trung tâm sâu thẳm nhất của bản ngã. Điều này là chính đáng, nhưng người Kitô hữu lại tìm kiếm một thứ khác. Lời cầu nguyện của người Kitô hữu trước hết là cuộc gặp gỡ với Đấng khác, chữ “Đ” viết hoa: cuộc gặp gỡ siêu việt với Thiên Chúa. Nếu kinh nghiệm cầu nguyện mang lại cho chúng ta sự bình an trong tâm hồn, hoặc khả năng làm chủ bản thân, hoặc sự rõ ràng về con đường phải đi, thì người ta có thể nói, những hoa trái này là kết quả của ân sủng cầu nguyện của người Kitô hữu, đó là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Tức là, suy gẫm có nghĩa là bước tới cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu trong chúng ta - được hướng dẫn bởi một câu trong Kinh Thánh.

Trong suốt lịch sử, thuật ngữ “suy gẫm” có nhiều ý nghĩa khác nhau. Ngay cả trong Kitô giáo, nó đề cập đến những kinh nghiệm thiêng liêng khác nhau. Tuy nhiên, có thể truy nguyên theo một số điểm chung, và về điều này, chúng ta một lần nữa được trợ giúp bởi Sách Giáo lý, Sách Giáo lý nói: “Có bao nhiêu bậc thầy linh đạo thì có bấy nhiêu phương pháp suy gẫm [...] Nhưng phương pháp chỉ là người hướng dẫn, điều quan trọng là chúng ta phải để Chúa Thánh Thần hướng dẫn mà tiến bước, theo Đức Kitô trên con đường cầu nguyện.” (số 2707). Và ở đây nó chỉ đến một người đồng hành, một người hướng dẫn: đó là Chúa Thánh Thần. Việc suy gẫm của người Kitô giáo không thể thực hiện được nếu không có Chúa Thánh Thần. Chính Người hướng dẫn chúng ta đến cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Và trong việc suy gẫm cũng vậy, Ngài là người hướng dẫn để chúng ta tiến đến cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô.

Vì vậy, có nhiều phương pháp suy gẫm của Kitô giáo: một số phương pháp thì rất đơn giản, một số thì chi tiết hơn; một số làm nổi bật chiều kích trí năng của người đó, những phương pháp khác mang chiều kích tình cảm và cảm xúc. Chúng là các phương pháp. Tất cả chúng đều quan trọng và tất cả chúng đều đáng để thực hành, cũng như rất hữu ích. Những phương pháp đó giúp được gì? Kinh nghiệm của đức tin để trở thành một hành động toàn diện của con người: một người không chỉ cầu nguyện bằng tâm trí; toàn thể người đó cầu nguyện, trọn vẹn người đó cầu nguyện, cũng như người ta không cầu nguyện chỉ bằng những cảm xúc của một mình. Không, bằng tất cả. Người xưa thường nói rằng phần thân thể cầu nguyện là trái tim, và do đó họ giải thích rằng toàn bộ con người, bắt đầu từ trung tâm - trái tim - đi vào mối tương quan với Thiên Chúa, không chỉ một vài khía cạnh. Đây là cách người xưa giải thích. Đây là lý do tại sao phải luôn nhớ rằng phương pháp là một lối đi, không phải là mục tiêu: bất kỳ phương pháp cầu nguyện nào, nếu nó là của Kitô giáo, đều là một phần của sequela Christi tức là bản chất đức tin của chúng ta. Các phương pháp suy gẫm là những con đường đi để đến nơi gặp gỡ Chúa Giêsu, nhưng nếu anh chị em dừng lại trên đường, và chỉ nhìn vào con đường, anh chị em sẽ không bao giờ tìm thấy Chúa Giêsu. Anh chị em sẽ tạo ra một “vị thần” trên con đường. “Thần” đó không đợi anh chị em ở đó, chính Chúa Giêsu là Đấng đang chờ anh chị em. Và con đường ở đó để đưa anh chị em đến với Chúa Giêsu. Sách Giáo lý chỉ rõ: “Muốn suy gẫm chúng ta phải vận dụng khả năng suy tư, trí tưởng tượng, cảm xúc và ước muốn, để đào sâu xác tín, khơi dậy lòng hoán cải và củng cố quyết tâm theo Đức Kitô. Kinh nguyện Kitô giáo trên hết phải suy gẫm về “các mầu nhiệm của Đức Kitô” (số 2708).

Vậy, ở đây ân sủng của kinh nguyện Kitô giáo là: Đức Kitô không ở đâu xa, nhưng luôn ở trong mối tương quan với chúng ta. Không có khía cạnh nào về ngôi vị nhân thần của Ngài mà không thể trở thành nơi của ơn cứu độ và niềm hạnh phúc cho chúng ta. Mọi giây phút trong cuộc sống nơi trần thế của Chúa Giêsu, nhờ ân sủng của kinh nguyện, có thể trở nên ở trước mắt chúng ta, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn.

Nhưng như anh chị em biết, con người không thể cầu nguyện nếu không có sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chính Người là Đấng hướng dẫn chúng ta! Và nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta cũng có mặt tại sông Giođan khi Chúa Giêsu dìm mình xuống để lãnh phép rửa. Chúng ta cũng là những khách dự tiệc cưới ở Cana, khi Chúa Giêsu tặng ban loại rượu ngon nhất cho hạnh phúc của đôi uyên ương, tức là chính Chúa Thánh Thần nối kết chúng ta với những mầu nhiệm này của cuộc đời Chúa Kitô, vì khi chiêm ngắm Chúa Giêsu, chúng ta cảm nghiệm được kinh nguyện, để kết hiệp chúng ta gần hơn với Ngài. Chúng ta cũng là những người kinh ngạc chứng kiến hàng ngàn ca chữa lành được thực hiện bởi Thầy. Chúng ta cầm lấy Tin Mừng, và suy gẫm về những mầu nhiệm đó trong Tin Mừng, và Thần Khí hướng dẫn chúng ta hiện diện ở đó. Và trong kinh nguyện - khi chúng ta cầu nguyện - tất cả chúng ta đều giống như người bệnh phong đã được sạch, như người mù Batimê đã lấy lại được thị lực của mình, như Lazarô bước ra khỏi mồ ... Chúng ta cũng được chữa lành nhờ kinh nguyện giống như người mù Batimê, như người kia, người bệnh phong … Chúng ta cũng sống lại, như Lazarô đã sống lại, bởi vì kinh nguyện suy gẫm được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần dẫn chúng ta sống lại những mầu nhiệm này về cuộc đời của Chúa Kitô và gặp gỡ Chúa Kitô, và cùng với người mù thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con! Xin thương xót con!” - “Và con muốn gì?” - “Được nhìn thấy, để đi vào cuộc đối thoại đó”.

Và suy gẫm Kitô giáo, được dẫn dắt bởi Thần Khí, đưa chúng ta đi vào cuộc đối thoại này với Chúa Giêsu. Không có trang nào của Tin Mừng mà không có chỗ cho chúng ta. Đối với người Kitô hữu chúng ta, suy gẫm là một cách để tiến đến sự gặp gỡ với Chúa Giêsu. Và bằng cách này, chỉ bằng cách này, chúng ta mới khám phá được bản thân mình. Và đây không phải là cách thu mình lại, không, không: nó có nghĩa là đi đến với Chúa Giêsu, và từ Chúa Giêsu, khám phá bản thân mình, được chữa lành, được sống lại, mạnh mẽ nhờ ân sủng của Chúa Giêsu. Và gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng Cứu độ của của tất cả mọi người, bao gồm cả tôi. Và có được điều này là nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Cảm ơn anh chị em.

_________________________________________________


Lời chào đặc biệt

Cha thân ái chào các tín hữu nói tiếng Anh. Trong niềm vui của Chúa Kitô Phục Sinh, cha khẩn xin tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta đổ xuống trên anh chị em và gia đình. Xin Chúa chúc phúc cho tất cả anh chị em!



[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 28/4/2021]


Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Kirk Fisher | Shutterstock

Marinella Bandini

24/03/21


Nhà thờ Chặng Đàng Ngày 35: Đó là vật duy nhất còn tồn tại sau trận hỏa hoạn ngày 22 tháng 5 năm 1519.



Aleteia mời bạn thực hiện một chuyến hành hương Mùa Chay trên internet đi qua 42 nhà thờ chặng đàng của Roma: mỗi ngày một nhà thờ, từ 17 tháng Hai đến 11 tháng Tư.


Ngày 35

Chúng ta đang ở Vương cung thánh đường San Marcello al Corso. Tại đây một năm trước, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cầu xin chấm dứt đại dịch. Được lưu giữ tại đây là một thập giá làm phép lạ, vào năm 1522, đã giải thoát Roma khỏi bệnh dịch.

Vương cung thánh đường nằm gần địa điểm tử đạo của Đức Giáo hoàng Marcellus (thế kỷ thứ 4), người đã bị kết án lao động khổ sai trong chuồng ngựa của hoàng gia cho đến khi qua đời. Vương cung thánh đường được xây dựng lại vào thế kỷ thứ 7, và sau đó được xây lại một lần nữa vào thế kỷ 16 sau khi một trận hỏa hoạn đã thiêu rụi hoàn toàn nhà thờ.

Vật duy nhất còn tồn tại sau trận hỏa hoạn đêm 22 tháng 5 năm 1519 là cây thánh giá bằng gỗ có từ thế kỷ 15, kể từ đó được tôn kính như phép lạ. Ba năm sau, bệnh dịch hoành hành ở Roma. Một cuộc rước sám hối trọng thể đi qua các đường phố của thành phố trong 16 ngày, với thánh giá dẫn đầu. Khi đám rước đi qua, bệnh dịch thuyên giảm, cho đến khi nó chấm dứt hoàn toàn vào ngày 4 tháng 8 năm 1522, khi đoàn rước đến Đền Thánh Phêrô.

Thánh giá được đoàn rước rước đến Đền Thánh Phêrô trong các Năm Thánh và trong những dịp đặc biệt, chẳng hạn như khai mạc Công đồng Vatican II.

Trong Năm Thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II đã cầu nguyện trước thánh giá này trong “Ngày Tha thứ”. Vào ngày 27 tháng Ba năm 2020, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chọn đặt thánh giá này hiện diện tại Quảng trường Thánh Phêrô cho buổi canh thức cầu nguyện xin chấm dứt đại dịch.

Kể từ năm 1369, Vương cung thánh đường đã được giao cho Dòng Tôi tớ Đức Maria, Dòng có bảy vị thánh sáng lập được tôn vinh trong nhà nguyện đầu tiên ở bên trái.

Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông. (Ga 8:31-32)

* Phối hợp với Văn phòng Truyền thông Xã hội của Khu Tông tòa Roma.

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Vương cung thánh đường San Marcello al Corso (bên ngoài). Vương cung thánh đường được xây dựng lại vào thế kỷ 16 sau một trận hỏa hoạn đã thiêu rụi hoàn toàn nhà thờ. Vương cung thánh đường San Marcello al Corso thuộc về “Patrimonio del Fondo Edifici di Culto - Ministero dell’Interno.”

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Vương cung thánh đường San Marcello al Corso (bên trong). Vương cung thánh đường San Marcello al Corso thuộc về “Patrimonio del Fondo Edifici di Culto - Ministero dell’Interno.”

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Vương cung thánh đường San Marcello al Corso (cung thánh). Vương cung thánh đường San Marcello al Corso thuộc về “Patrimonio del Fondo Edifici di Culto - Ministero dell’Interno.”

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Vương cung thánh đường San Marcello al Corso. Bức bích họa trên cung thánh miêu tả Vinh quang của Thánh Marcellus. Vương cung thánh đường nằm gần nơi tử đạo của Đức Giáo hoàng Marcellus (thế kỷ thứ 4), người đã bị kết án lao động khổ sai trong chuồng ngựa của hoàng gia cho đến khi qua đời. Vương cung thánh đường San Marcello al Corso thuộc về “Patrimonio del Fondo Edifici di Culto - Ministero dell’Interno.”

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Vương cung thánh đường San Marcello al Corso. Trong trận hỏa hoạn vào đêm 22 tháng 5 năm 1519, vật duy nhất được cứu là thánh giá bằng gỗ có từ thế kỷ 15, từ đó đến nay vẫn được tôn kính là phép lạ. Vương cung thánh đường San Marcello al Corso thuộc về “Patrimonio del Fondo Edifici di Culto - Ministero dell’Interno.”

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Vương cung thánh đường San Marcello al Corso. Năm 1522, thánh giá phép lạ đã giải thoát thành Roma khỏi bệnh dịch. Thánh giá được rước qua thành phố trong 16 ngày liên tục; khi đám rước đi qua, bệnh dịch giảm dần, cho đến khi chấm dứt hoàn toàn khi đoàn rước tiến đến Đền thờ Thánh Phêrô. Vương cung thánh đường San Marcello al Corso thuộc về “Patrimonio del Fondo Edifici di Culto - Ministero dell’Interno.”

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Vương cung thánh đường San Marcello al Corso. Thánh giá phép lạ (chi tiết). Thánh giá được kiệu trong một đoàn rước đến Đền Thánh Phêrô trong các Năm Thánh và trong những dịp đặc biệt. Vào ngày 27 tháng 3 năm 2020, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chọn đặt thánh giá trong Quảng trường Thánh Phêrô cho buổi cầu xin chấm dứt đại dịch. Vương cung thánh đường San Marcello al Corso thuộc về “Patrimonio del Fondo Edifici di Culto - Ministero dell’Interno.”

Viếng Vương cung thánh đường San Marcello al Corso và thập giá phép lạ

Vương cung thánh đường San Marcello al Corso. Nhà nguyện của bảy vị thánh sáng lập Dòng Các Tôi tớ Đức Mẹ. Từ năm 1369, Vương cung thánh đường được giao cho Dòng tu này. Vương cung thánh đường San Marcello al Corso thuộc về “Patrimonio del Fondo Edifici di Culto - Ministero dell’Interno.”



[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/4/2021]


Thứ Ba, 27 tháng 4, 2021

Nhà của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Nhà của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Antoine Mekary | ALETEIA

Marinella Bandini

23/03/21


Nhà thờ Chặng Đàng Ngày 34: Những gì các bức tường này đã chứng kiến!



Aleteia mời bạn thực hiện một chuyến hành hương Mùa Chay trên internet đi qua 42 nhà thờ chặng đàng của Roma: mỗi ngày một nhà thờ, từ 17 tháng Hai đến 11 tháng Tư.


Ngày 34

Vương cung thánh đường Santa Maria in via Lata được cho là nằm trên vị trí Thánh Luca đã viết sách Công vụ Tông đồ và vẽ bức ảnh chân dung đầu tiên trong số bảy bức chân dung Đức Trinh Nữ. Bức chân dung của thế kỷ 12 trên bàn thờ chính được cho là bản sao của bức ảnh này.

Một lòng sùng kính xa xưa cho rằng nơi này là ngôi nhà nơi Thánh Phaolô đã sống hai năm trong thời gian bị giám sát, được thể hiện bởi một dòng chữ khắc tại lối vào tầng hầm — một truyền thống bị tranh cãi bởi nhà thờ San Paolo alla Regola. Dòng chữ cũng đề cập đến một vị tử đạo nào đó tên là Martialis (có lẽ là người cai ngục của Thánh Phaolô, sau này trở lại đạo?). Thánh Phêrô cũng được cho là đã đi qua đây.

Trong tầng hầm có một cột Côrinhtô mà truyền thống nói rằng Thánh Phaolô đã bị xiềng xích trói vào đó. Trên đầu cột có một câu của Thánh Phaolô viết cho Timôthê: “Verbum Dei non est alligatum” (Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích). Những cuộc khai quật gần đây đã giúp người ta có thể tìm thấy nhiều đồ vật khác nhau, bao gồm cả một sợi dây xích sắt dài khoảng hai thước Anh (hơn 1,8 m), phù hợp với các dấu vết để lại trên cột.

Vào thế kỷ thứ 3, tòa nhà có thể được sử dụng làm nhà kho. Vào cuối thế kỷ thứ 6, nó trở thành Diaconia của Đức Giáo hoàng Sergius I, có lẽ do các tu sĩ Đông phương điều hành. Năm 1049, nhà thờ thượng được xây dựng đối diện với với hướng hầm mộ. Vương cung thánh đường ngày nay được xây dựng vào thế kỷ 15 và được trùng tu nhiều lần.

Vì Chúa đưa mắt từ toà cao thánh điện, từ trời xanh đã nhìn xuống cõi trần, để nghe kẻ tù đày rên siết thở than và phóng thích những người mang án tử. (Tv 102:20-21)

* Phối hợp với Văn phòng Truyền thông Xã hội của Khu Tông tòa Roma.

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso (bên ngoài). Vương cung thánh đường hiện tại được xây dựng vào thế kỷ 15.

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso (bên trong).

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso (cung thánh). Theo truyền thống, vương cung thánh đường được xây dựng trên vị trí Thánh Luca đã vẽ bức ảnh chân dung đầu tiên trong số bảy bức chân dung Đức Trinh Nữ Maria, trong đó bức ảnh của thế kỷ 12 trên bàn thờ chính được cho là một bản sao.

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso. Ở giữa gian cung thánh là hình ảnh cổ xưa của Đức Mẹ, Đấng bênh vực, với dòng chữ “Fons Lucis Stella Maris,” tác phẩm của “Petrus pictor,” có niên đại vào thế kỷ 12.

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso. Lối vào các khu khai quật. Dòng chữ đề cập đến nhà nguyện của Thánh Phaolô Tông đồ, Thánh sử Luca, và Martialis, một vị tử vì đạo.

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso (khu khai quật). Khu vực này được xác định là phòng của Thánh Luca và nhà tù của Thánh Phaolô, một tuyên bố bị tranh cãi bởi nhà thờ San Paolo alla Regola.

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso (khu khai quật). Cột trụ nơi Thánh Phaolô được cho là đã bị xiềng xích trói vào.

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso khu (khu khai quật). Một câu trích trong thư thứ hai của Thánh Phaolô gửi cho Timôthê được khắc vào cột: “Verbum Dei non est alligatum” (“Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích”).

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso (khu khai quật). Các cuộc khai quật gần đây giúp người ta có thể phát hiện ra nhiều đồ vật khác nhau, trong số đó có một sợi xích sắt dài khoảng 2 thước Anh (hơn 1,8 m), phù hợp với các dấu vết để lại trên cột.

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso (khu khai quật). Bức tường màu sáng hơn có từ thế kỷ 1.

Nhà  của Thánh Luca, ngục tù của Thánh Phaolô: viếng Vương cung Thánh đường Santa Maria ở via Lata

Vương cung thánh đường Santa Maria ở Via Lata al Corso (khu khai quật). Từ cuối thế kỷ thứ 6 đã có những ghi chép về một diaconia (một trung tâm bác ái) do các tu sĩ Đông phương quản lý. Khu vực này có lẽ đã được sử dụng như một nhà nguyện.

Quý vị đọc về truyền thống của các nhà thờ chặng đàng ở đây. Và xem các nhà thờ trước đây trong cuộc hành hương ở đây.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/4/2021]


Phát biểu của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin trong sự kiện trực tuyến cấp cao về: Tình huynh đệ, Chủ nghĩa đa phương và Hòa bình: trình bày Tông huấn “Fratelli tutti” của Đức Thánh Cha Phanxicô, 15.04.2021

Phát biểu của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin trong sự kiện trực tuyến cấp cao về: Tình huynh đệ, Chủ nghĩa đa phương và Hòa bình: trình bày Tông huấn “Fratelli tutti” của Đức Thánh Cha Phanxicô, 15.04.2021

Phát biểu của Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin trong sự kiện trực tuyến cấp cao về: Tình huynh đệ, Chủ nghĩa đa phương và Hòa bình: trình bày Tông huấn “Fratelli tutti” của Đức Thánh Cha Phanxicô, 15.04.2021

Sau đây là bài phát biểu của Đức Hồng y Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin chiều nay tại sự kiện trực tuyến cấp cao về: Tình huynh đệ, Chủ nghĩa đa phương và Hòa bình: trình bày Tông huấn “Fratelli tutti” (Geneva, ngày 15 tháng 4 năm 2021):


Phát biểu của Đức Hồng y Pietro Parolin

FRATELLI TUTTI, CHỦ NGHĨA ĐA PHƯƠNG VÀ HÒA BÌNH

Kính thưa quý ngài,

Kính thưa các nhà chức trách tôn quý,

Thưa quý ông quý bà,

Thưa các bạn.

Tôi đặc biệt cảm ơn lời mời phát biểu tại cuộc họp suy tư về Thông điệp “Fratelli tutti” (Tất cả là anh em), với sự tham gia của một số tổng giám đốc lỗi lạc có mặt trong Hội nghị Quốc tế Geneva. Cam kết của quý vị đối với chủ nghĩa đa phương, giống như cam kết của các vị đại sứ ưu tú nhất hiện diện tại đây, là một cách thức đặc biệt để thúc đẩy ích chung của gia đình nhân loại và phát triển các ý tưởng ban đầu và chiến lược đổi mới, “để có thể tìm ra những giải pháp mới và bền vững với sự táo bạo và sự sáng tạo cao hơn”. [1]

Để hiểu rõ khái niệm tình anh em và việc áp dụng nó trong hoạt động ngoại giao đa phương của Tòa thánh, có thể hữu ích khi quay trở lại lúc bắt đầu triều đại Giáo hoàng của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Quý vị sẽ nhớ lại rằng, hơn tám năm trước, tình anh em là chủ đề đầu tiên mà Đức Giáo Hoàng đề cập đến trong ngày bầu chọn ngài khi ngài bày tỏ ước muốn này: “Chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho nhau. Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thế giới, để có thể có được một tinh thần huynh đệ cao thượng”. [2] Tất cả các hành động và hoạt động tiếp theo của triều đại giáo hoàng của ngài là kết quả tự nhiên và nhất quán của một hành trình hướng về điều này.

Nhìn lại một năm kể từ khi bắt đầu đại dịch, chúng ta thấy tiêu chí chương trình này có ý nghĩa quyết định như thế nào nếu chúng ta muốn vượt qua sự lưỡng phân hiện tại giữa “nguyên tắc hiệu quả” và “nguyên tắc đoàn kết”. [3] Trên thực tế, tình anh em dẫn đưa chúng ta bước tới một “nguyên tắc” thậm chí còn đòi hỏi nhiều hơn và bao gồm hơn: “Thật vậy, trong khi đoàn kết là nguyên tắc hoạch định xã hội cho phép người bất bình đẳng trở nên bình đẳng; tình huynh đệ là điều cho phép những con người khác nhau trở nên bình đẳng. Tình huynh đệ cho phép con người bình đẳng về bản chất, phẩm giá, sự tự do và các quyền căn bản của họ để tham gia theo nhiều cách khác nhau vào ích chung tùy theo khả năng, chương trình cuộc sống, ơn gọi, công việc hoặc đặc sủng phục vụ của họ”.[4]

Trong hành động đa phương, tình huynh đệ chuyển thành lòng can đảm và lòng quảng đại một cách tự do để thiết lập các mục tiêu chung đã xác định và sự tuân thủ các chuẩn mực thiết yếu nhất định trên toàn thế giới, theo cách nói của tiếng Latinh là pacta sunt servanda, theo đó người ta tìm cách giữ lòng tin với ý chí được thể hiện một cách hợp pháp, để giải quyết các tranh cãi thông qua những cơ cấu ngoại giao, đàm phán, đa phương và mong muốn rộng lớn hơn để đạt được “ích chung phổ quát thực sự và bảo vệ các quốc gia yếu hơn” [5]

Trên cơ sở tiền đề ngắn gọn về tình huynh đệ này, tôi muốn nhân cơ hội này chia sẻ một số suy tư về các chủ đề chính trong khả năng của các Tổ chức mà quý vị đại diện, và những ưu tiên của Tòa thánh trong lĩnh vực này: tiếp cận sức khỏe, người tị nạn, lao động, luật nhân đạo quốc tế và giải trừ quân bị.

Trong lĩnh vực y tế, năm qua, gia đình nhân loại đã có kinh nghiệm về một mối ràng buộc không thể chia cắt “ngay lập tức đã làm sống lại ý thức rằng chúng ta là một cộng đồng toàn cầu, tất cả cùng chung trên một con thuyền, trong đó vấn đề của một người là vấn đề của tất cả mọi người”.[6] Cảm giác của con người khi đối mặt với điều chưa biết đã ngay lập tức nhường chỗ cho một cuộc chạy đua về vaccine và cách điều trị ở cấp quốc gia, điều này làm lộ rõ khoảng cách trong việc tiếp cận với sự chăm sóc căn bản giữa các nước phát triển và những nước còn lại của thế giới.[7] Đứng trước với một vấn đề mang tính hệ thống như những rào cản trong việc tiếp cận với sự chăm sóc, đã trở nên trầm trọng hơn do tình trạng khẩn cấp hiện tại, Tòa Thánh đã đưa ra một bộ hướng dẫn để giải quyết vấn đề này, lấy cảm hứng từ niềm tin vào tầm quan trọng của tình anh em. Tại mọi thời điểm, chúng ta phải tập trung vào nguyên tắc nền tảng là phục vụ lợi ích chung. Cách tiếp cận này được Thánh Gioan Phaolô II nêu gương mạnh mẽ và ngài nhấn mạnh đến “sự thế chấp xã hội” là điều khẳng định nguyên tắc về đích điểm của của cải”. [8] Ghi nhớ điều này, cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ bảo đảm rằng mọi loại vaccine và phương pháp điều trị COVID-19 đều phải an toàn, luôn có sẵn, phù hợp về giá và có thể tiếp cận được đối với tất cả những người cần nó.

Sự quan tâm đến những người khó khăn nhất và những người trong hoàn cảnh dễ bị tổn thương, đặc biệt là những người tị nạn, người di cư và người di tản trong nước, không chỉ là bằng chứng cho tình anh em, nhưng còn là sự thừa nhận về nhu cầu thực sự của chị em chúng ta. Những lời kêu gọi liên tục của Đức Giáo hoàng gửi tới các nhà lãnh đạo và các cơ quan quốc tế về một sự toàn cầu hóa mới của tình liên đới có khả năng thay thế cho tính thờ ơ là điều ngài thường xuyên nói, và được lặp lại một cách có hệ thống trong Tông huấn. Người tị nạn luôn là một phần của lịch sử. Thật không may, ngay cả ngày nay con số và sự đau khổ của họ vẫn tiếp tục là một vết thương trong kết cấu xã hội của cộng đồng quốc tế. Trong năm đánh dấu 70 năm thành lập Cao ủy Liên hợp quốc về Người tị nạn (UNHCR), chúng ta đau đớn ghi nhận rằng số lượng người tìm kiếm sự bảo vệ tiếp tục tăng lên không ngừng. Điều này bao hàm những vấn đề xã hội và nhân đạo sâu sắc.[9] Về mặt này, Tòa Thánh hoan nghênh tầm nhìn ưu tiên của Hiệp ước Toàn cầu về Người tị nạn, nhằm mục đích tăng cường sự hợp tác quốc tế thông qua việc chia sẻ trách nhiệm một cách công bằng hơn và có thể dự đoán, đồng thời nhắc lại rằng giải pháp lâu dài lý tưởng và toàn diện nhất là bảo đảm quyền của tất cả mọi người được sống và phát triển trong phẩm giá, hòa bình và an ninh tại quốc gia quê hương của họ.

Trong những tháng gần đây, các chiến lược ngăn chặn đại dịch toàn cầu đã có tác động đáng kể đến người lao động, bao gồm cả lao động phi chính thức, doanh nghiệp nhỏ và thương nhân, những người nhìn thấy khoản tiết kiệm của họ bị hao mòn và thường phải đối mặt với những rào cản theo hệ thống khi tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản. Trong thế giới ngày nay, vì ích lợi của các tiến trình xây dựng hòa bình, hình thức đối thoại xã hội truyền thống phải được mở rộng hơn và trở nên bao quát hơn. Sự tham gia của các tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động là rất quan trọng, nhưng cần được bổ sung bởi các bên đại diện cho nền kinh tế phi chính thức và các mối quan tâm về môi trường. Như Tông huấn Fratelli tutti nhắc nhở chúng ta, “Điều cần ở đây là một mô hình tham gia xã hội, chính trị, và kinh tế “có thể bao gồm các phong trào đại chúng và những cơ cấu quản trị quốc tế, quốc nội, và địa phương đầy năng động, với nguồn năng lực đạo đức phát xuất từ việc bao gồm những người bị loại bỏ trong công cuộc kiến tạo một định mệnh chung”.[10]

Có lẽ nhiều người không biết rằng ông Henry Dunant (1828-1910), người sáng lập Hội Hồng Thập Tự, người bị tác động rất mạnh bởi bạo lực và sự thiếu tổ chức trong việc cung cấp viện trợ cho những người bị thương, cũng đã sử dụng câu “Tất cả chúng ta anh em!” để thuyết phục người dân địa phương và các tình nguyện viên thực hiện việc giúp đỡ bất kể nạn nhân thuộc phe nào.[11] Chính nhờ kết quả của những kinh nghiệm đặc biệt này mà ông Dunant đã thành lập Hội Hồng Thập tự. Thật đáng tiếc, ngày nay nhu cầu đẩy mạnh việc truyền bá và thúc đẩy sự tôn trọng luật nhân đạo là vô cùng cấp thiết. Mục đích của luật nhân đạo là bảo vệ những nguyên tắc nền tảng của nhân loại trong một bối cảnh, như chiến tranh tự bản thân nó đã là vô nhân đạo và phi nhân tính, bằng cách bảo vệ dân thường và cấm các loại vũ khí gây ra những đau khổ vừa tàn khốc vừa vô nghĩa. Cũng có thể nói rằng tính phổ quát của Công ước Geneva năm 1949 thể hiện sự ngầm thừa nhận về mối ràng buộc của tình anh em liên kết các dân tộc, và tối thiểu đó là sự cần thiết phải đặt ra các giới hạn cho những cuộc xung đột. Hơn nữa, ý thức về những thiếu sót và thiếu quyết đoán, Tòa Thánh hy vọng rằng các chính phủ có thể đạt được sự phát triển hơn nữa về luật nhân đạo quốc tế, để có sự cân nhắc phù hợp về đặc điểm của các cuộc xung đột vũ trang hiện tại và những đau khổ về thể chất, đạo đức và tinh thần đi kèm với họ,[12] với mục đích chấm dứt các cuộc xung đột. Quả thật, khao khát về hòa bình, an ninh và ổn định là một trong những khao khát sâu xa nhất của tâm hồn con người, vì nó bắt nguồn từ Đấng Tạo Hóa, Đấng làm cho mọi dân tộc trở thành thành viên trong gia đình nhân loại. Khát vọng này không bao giờ có thể được thỏa mãn bằng riêng các phương tiện quân sự, và thậm chí còn ít hơn nữa đối với việc sở hữu vũ khí nguyên tử và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác.[13] Xung đột luôn gây ra đau khổ cho những người gánh chịu chúng là đương nhiên, nhưng cả những người chống lại chúng. Không hề cường điệu khi nói rằng chiến tranh là hoàn toàn đối lập với tình anh em. Với suy nghĩ này, Tòa thánh mạnh mẽ khuyến khích các Chính phủ cam kết trong lĩnh vực giải trừ quân bị và kiểm soát vũ khí hướng tới các thỏa thuận bền lâu trên con đường tiến tới hòa bình, và đặc biệt là trên mặt trận giải trừ vũ khí nguyên tử. Nếu tuyên bố rằng tất cả chúng ta là anh chị em là có giá trị, thì làm sao chiến lược răn đe bằng vũ khí nguyên tử có thể là nền tảng của đạo đức về tình huynh đệ và sự chung sống hòa bình giữa các dân tộc? Có một số dấu hiệu đáng khích lệ, chẳng hạn như Hiệp ước Cấm vũ khí Nguyên tử có hiệu lực gần đây. Tuy nhiên, số tiền khổng lồ và nguồn nhân lực được phân bổ cho các loại vũ khí trang bị khiến người ta phải dừng lại để suy nghĩ. Liên kết an ninh quốc gia với việc tích lũy vũ khí là một luận lý phản tác dụng. Sự bất cân xứng giữa các nguồn tài nguyên vật chất và nhân tài dành cho việc phụng sự cái chết và nguồn lực dành cho việc phục vụ sự sống là một điều đáng hổ thẹn. Cộng đồng quốc tế đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau, và đây phải là những điều ưu tiên của các quốc gia.[14]

Thưa quý ngài, thưa quý ông quý bà,

Những gì tôi vừa nêu ra chỉ là một vài dấu hiệu về phương pháp và những thách thức mà gia đình nhân loại đang phải đối mặt. Những dấu hiệu và mục tiêu mà Tòa thánh, theo quan điểm của Đức Giáo hoàng Phanxicô trong Tông huấn “Fratelli tutti”, coi là cần thiết cho một hành động nhằm mục đích trở nên thích đáng và đi đầu liên quan đến các tiến trình đang diễn ra trong cộng đồng thế giới. Chúng tôi nhận thức rằng để đối mặt với viễn cảnh nêu trên, việc tuyên bố cam kết hoặc giới hạn mình trong những nỗ lực đáng khích lệ, nhắc lại những nhiệm vụ hoặc góp sức cho hành động để trả lời cụ thể cho những thách thức lớn là chưa đủ.[15]

Do đó, điều cần thiết không phải là đối phó, nhưng là chuẩn bị một kế hoạch có thể ứng phó với những gì xảy ra tiếp theo.[16] Từ góc độ này, hệ thống pháp luật không chỉ dừng lại ở các quy tắc thông thường, nhưng còn phải có hiệu lực và hiệu quả đối với các hoàn cảnh hiện tại. Yếu tố cần thêm vào là trách nhiệm cá nhân và khả năng cảm nhận rằng chúng ta là anh em, nghĩa là, lấy nhu cầu của người khác là nhu cầu của chính mình thông qua sự tương hỗ của các mối tương quan gạt bỏ tính cô lập và bao gồm các quốc gia, các cá nhân và các tổ chức quốc tế. Đức Giáo hoàng Phanxicô đòi hỏi sự hiện diện và sự chỉ đạo phù hợp với tình trạng hiện tại của những mối tương quan giữa các quốc gia và giữa các dân tộc, đặc biệt khi thái độ loại bỏ tầm nhìn về ích chung dường như đang thắng thế.

Tôi hy vọng rằng sự kiện này sẽ là một bước tiến cho tất cả chúng ta trong việc dấn bước trên con đường phong phú và đầy gian khó của tình anh em.

Chân thành cảm ơn quý vị.

___________________________________________


[1] Francis, Address to Members of the Diplomatic Corps accredited to the Holy See, 11 January 2016.

[2] Francis, First greeting, 13 March 2013, at w2.vatican.va.

[3] Francis, Message to Professor Margaret Archer, President of the Pontifical Academy of Social Sciences, on the occasion of the Plenary, 24 April 2017.

[4] Ivi.

[5] Francis, Encyclical Letter Fratelli tutti, 174.

[6] Ivi, 32.

[7] As Dr. Ghebreyesus, Director General of the World Health Organisation, recalled at the Executive Committee last January, and also since then, “the world is on the brink of a catastrophic moral failure - and the price of this failure will be paid with lives and livelihoods in the world’s poorest countries”. Dr. Tedros Adhanom Ghebreyesus, Address to the 148th Meeting of the WHO Executive Board, 18 January 2021.

[8] “The goods of this world are originally meant for all. The right to private property is valid and necessary, but it does not nullify the value of this principle. Private property, in fact, us under a “social mortgage”, which means that it has an intrinsically social function, based upon and justified precisely by the principle of the universal destination of goods”, Saint John Paul II, Sollicitudo rei socialis, 42.

[9] The Holy See, Member State of the UNHCR Executive Committee, was among the first 26 countries to participate in the Conference of Plenipotentiaries in July 1951, which gave rise to one of the most important Conventions for the international community: the Convention regarding the status of refugees. This Convention, which will celebrate its seventieth anniversary this year, has contributed to protecting and giving hope to many people, victims of conflicts or persecutions. In a certain sense, the recognition and granting of international protection presupposes an implicit recognition that we are brothers and sisters, members of the same human family.

[10] Francis, Encyclical Letter Fratelli tutti, 169.

[11] See H. Dunant, Un souvenir de Solferino (1859).

[12] See Francis, Address to participants in the Conference on International Humanitarian Law, 28 October 2017.

[13] See Francis, Message to the Vienna Conference on the Humanitarian impact of nuclear weapons, 7 December 2014.

[14] In this regard, as Pope Francis has affirmed, “The current state of our planet requires a serious reflection on how its resources can be employed in light of the complex and difficult implementation of the 2030 Agenda for Sustainable Development, in order to achieve the goal of an integrated human development”, Address on nuclear arms, Nagasaki, 24 November 2019.

[15] To this end, we have a sign from the Pope that may be of solid guidance: “We need, then, to reject the culture of waste and to care for individuals and peoples labouring under painful disparities through patient efforts to favour processes of solidarity over selfish and contingent interests”, Address to participants in the International Symposium on Disarmament promoted by the Dicastery for Promoting Integral Human Development, 10 November 2017.

[16] “The crisis of politics and of democratic values is reflected also on the international level, with repercussions on the entire multilateral system and the obvious consequence that Organisations designed to foster peace and development – on the basis of law and not on the “law of the strongest” – see their effectiveness compromised. To be sure, we cannot ignore that the multilateral system has also, in recent years, shown some limitations. The pandemic is a precious opportunity to devise and implement structural reforms so that international Organisations can rediscover their essential vocation to serve the human family by protecting individual lives and peace”. Address to Members of the Diplomatic Corps accredited to the Holy See, 8 February 2021.

___________________________________________


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 17/4/2021]


Thứ Hai, 26 tháng 4, 2021

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 25 tháng 4, 2021

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 25 tháng 4, 2021

Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng của Đức Thánh Cha Phanxicô

Quảng trường Thánh Phêrô

Chúa nhật, 25 tháng Tư, 2021



Anh chị em thân mến, buongiorno!

Vào Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Tin Mừng (Ga 10,11-18) trình bày Chúa Giêsu là người mục tử đích thực, người bảo vệ, biết rõ yêu thương đoàn chiên của mình.

“Người làm thuê” thì trái ngược với Người Chăn Chiên Nhân Lành, anh ta không quan tâm đến đoàn chiên vì chúng không phải của anh ta. Anh ta làm công việc chỉ để được trả công và không quan tâm đến việc bảo vệ chúng: khi sói đến, anh ta bỏ chạy và bỏ rơi đàn chiên (xem các câu 12-13). Nhưng ngược lại, Chúa Giêsu, người chăn chiên đích thực, luôn luôn bảo vệ chúng ta và cứu chúng ta khỏi biết bao hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm nhờ ánh sáng của Lời Ngài và sức mạnh của sự hiện diện của Ngài mà chúng ta luôn luôn được nếm trải nếu chúng ta muốn lắng nghe mỗi ngày.

Khía cạnh thứ hai là Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, biết rõ – khía cạnh thứ nhất: bảo vệ; thứ hai: Ngài biết chiên của Ngài và chiên biết Ngài (câu 14). Thật đẹp và an ủi biết bao khi biết rằng Chúa Giêsu biết chúng ta từng người một, rằng chúng ta không hề vô danh đối với Ngài, rằng tên của chúng ta được Ngài biết rõ! Chúng ta không phải là một “tập thể”, một “đám đông” đối với Ngài, không. Chúng ta là những cá nhân duy nhất, mỗi người với câu chuyện riêng của mình, Ngài biết chúng ta với câu chuyện riêng của chúng ta, mỗi người đều có giá trị riêng của người đó, bởi vì họ đã được tạo dựng và đã được cứu chuộc bởi Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta có thể nói rằng: Chúa Giêsu biết tôi! Biết từng người chúng ta: Chúa Giêsu biết tôi! Đó là sự thật, là thế này: Ngài biết chúng ta không giống bất kỳ người nào khác. Chỉ một mình Ngài mới biết những gì ẩn chứa trong tâm hồn chúng ta, những ý định của chúng ta, những cảm xúc thầm kín nhất của chúng ta. Chúa Giêsu biết rõ ưu điểm và nhược điểm của chúng ta, và luôn sẵn sàng chăm sóc chúng ta, chữa lành những vết thương do lỗi lầm của chúng ta bằng lòng thương xót vô biên của Ngài. Nơi Ngài, hình ảnh mà các tiên tri đã cung cấp về người mục tử của dân Thiên Chúa được ứng nghiệm hoàn toàn: Chúa Giêsu chăm lo đoàn chiên của Ngài, Ngài tập họp chúng, Ngài băng bó các vết thương của chúng, Ngài chữa lành các bệnh tật của chúng. Chúng ta có thể đọc được điều này trong Sách Tiên tri Êdêkien (xem Ed 34: 11-16).

Vì vậy, Chúa Giêsu vị Mục Tử Nhân Lành bảo vệ, biết rõ, và trên hết là yêu thương đoàn chiên của mình. Và đây là lý do tại sao Ngài đã hiến mạng sống của Ngài cho chúng (xem Ga 10:15). Tình yêu dành cho đoàn chiên của Ngài, nghĩa là với mỗi người trong chúng ta, đã đưa Ngài đến cái chết trên thập giá. Vì đây là thánh ý của Chúa Cha – để không ai bị hư mất. Tình yêu của Đức Kitô không có tính chọn lọc; tình yêu đó ôm lấy tất cả mọi người. Chính Ngài nhắc cho chúng ta về điều này trong Tin Mừng hôm nay khi Ngài nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc đoàn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16). Những lời này chứng thực cho mối quan tâm phổ quát của Ngài: Ngài là người mục tử của mọi người. Chúa Giêsu muốn tất cả mọi người có thể đón nhận được tình yêu của Chúa Cha và gặp gỡ Thiên Chúa.

Và Giáo Hội được kêu gọi để thực hiện sứ mệnh này của Chúa Kitô. Ngoài những người tham dự trong các cộng đoàn của chúng ta, còn có rất nhiều, rất nhiều người, chỉ thực hiện điều đó vào những thời điểm ngoại lệ nào đó hoặc không bao giờ. Nhưng điều này không có nghĩa là họ không phải là con cái của Thiên Chúa: Chúa Cha đã trao phó mọi người cho Chúa Giêsu là vị Mục Tử Nhân Lành, và Ngài đã hiến mạng sống mình cho mọi người.

Thưa anh chị em, Chúa Giêsu bảo vệ, biết rõyêu thương chúng ta, tất cả mọi người. Xin Mẹ Maria Chí Thánh giúp chúng ta trở thành những người đầu tiên chào đón và bước theo Vị Mục Tử Nhân Lành, để cộng tác trong niềm vui sứ vụ của Ngài.

_________________________________________________


Sau Kinh Lạy Nữ Vương, Đức Thánh Cha tiếp tục:

Anh chị em thân mến,

Thứ Sáu vừa qua, tại Santa Cruz de Quiché ở Guatemala, José Maria Gran Cirera và chín bạn tử đạo đã được phong chân phước: ba linh mục và bảy giáo dân thuộc Dòng Thừa sai Thánh Tâm Chúa Giêsu, cam kết bảo vệ người nghèo, là những người đã bị giết từ năm 1980 đến năm 1991, thời gian mà Giáo hội Công giáo đang bị đàn áp. Với lòng tin sống động vào Đức Kitô, họ là chứng nhân anh dũng cho công lý và tình yêu. Xin tấm gương của các ngài làm cho chúng ta trở nên quảng đại và can đảm hơn trong việc sống theo Tin Mừng. Chúng ta hãy dành một tràng pháo tay cho các vị tân Chân phước. [Vỗ tay]

Cha xin bày tỏ sự gần gũi với những người sống trên Quần đảo St Vincent và Grenadines, nơi xảy ra vụ phun trào núi lửa gây ra những tổn hại và khó khăn. Cha cầu nguyện cho anh chị em. Cha ban phép lành cho tất cả những ai đang tham gia vào các nỗ lực cứu trợ và trợ giúp.

Cha cũng gần gũi các nạn nhân của vụ hỏa hoạn trong bệnh viện dành cho bệnh nhân Covid ở Baghdad. Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 82 người thiệt mạng. Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả họ.

Tôi thú thực rằng tôi vô cùng đau buồn trước thảm kịch một lần nữa xảy ra trên Địa Trung Hải. Một trăm ba mươi người di cư đã chết trên biển. Họ là con người. Họ là những con người van xin sự giúp đỡ trong vô vọng suốt hai ngày – sự giúp đỡ không bao giờ đến. Thưa anh chị em, tất cả chúng ta hãy tự chất vấn bản thân về thảm kịch xảy ra không biết lần thứ bao nhiêu này. Đó là một thời khắc đáng xấu hổ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những anh chị em này, và cho tất cả những ai tiếp tục phải chết trong những cuộc vượt biển thảm kịch này. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho những người có khả năng giúp đỡ nhưng muốn ngoảnh mặt nhìn theo hướng khác. Chúng ta hãy thầm thĩ cầu nguyện cho họ…

Hôm nay, toàn thể Giáo hội kỷ niệm Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn Thiên triệu với chủ đề là Thánh Giuse: Giấc mơ Ơn gọi. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa để Người tiếp tục khơi dậy trong Giáo Hội những người dâng mình cho việc loan báo Tin Mừng và phục vụ anh chị em, vì lòng yêu mến Người. Và đặc biệt hôm nay, chúng ta hãy dâng lời tạ ơn cho chín linh mục mà cha vừa truyền chức tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô – cha không biết họ có mặt ở đây không – và chúng ta hãy xin Chúa sai những người thợ giỏi đến làm việc trong vườn nho của Người và Người nhân rộng các ơn gọi sống đời thánh hiến.

Và bây giờ cha thân ái chào tất cả anh chị em, người Roma và anh chị em hành hương. Đặc biệt, cha gửi lời chào đến gia đình và bạn bè của các tân linh mục vừa được tấn phong, cũng như cộng đoàn của Đại học Giáo hoàng Đức-Hungary, những người thực hiện chuyến hành hương truyền thống qua bảy Nhà thờ hôm nay.

Cha chúc tất cả anh chị em Chúa nhật hạnh phúc. Và xin đừng quên cầu nguyện cho cha. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng. Arrivederci!

_________________________________________________


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/4/2021]