Thứ Ba, 16 tháng 1, 2024

Sứ điệp Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ 32 của Đức Thánh Cha (11/02/2024), 13.01.2024

Sứ điệp Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ 32 của Đức Thánh Cha (11/02/2024), 13.01.2024

Sứ điệp Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ 32 của Đức Thánh Cha (11/02/2024), 13.01.2024


Sau đây là Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ 32, diễn ra vào ngày 11 tháng Hai năm 2024, phụng vụ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria Lộ Đức, với chủ đề: “Con người ở một mình thì không tốt”: Chữa lành bệnh nhân bằng cách chữa lành các mối tương quan:

______________________________

Sứ điệp của Đức Thánh Cha

“Con người ở một mình thì không tốt”.

Chữa lành bệnh nhân bằng cách chữa lành các mối tương quan

“Con người ở một mình thì không tốt” (x. St 2:18). Ngay từ đầu, Thiên Chúa là tình yêu đã tạo dựng nên chúng ta để hiệp thông và ban cho chúng ta khả năng sẵn có để đi vào mối tương quan với người khác. Đời sống của chúng ta, phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, tiến tới đạt được sự viên mãn thông qua mạng lưới các mối tương quan, tình bạn và tình yêu, cho đi và đón nhận. Chúng ta được tạo dựng để ở bên nhau chứ không phải cô độc. Chính vì dự án hiệp thông này đã ăn sâu vào tâm hồn con người nên chúng ta xem kinh nghiệm bị bỏ rơi và cô đơn là một điều gì đó đáng sợ, đau đớn và thậm chí vô nhân. Tình trạng này trở nên càng mạnh mẽ hơn vào những thời điểm dễ bị tổn thương, bấp bênh và bất an, thường do sự khởi phát của một căn bệnh hiểm nghèo.

Về vấn đề này, tôi nghĩ đến tất cả những người đã thấy mình quá cô đơn trong đại dịch Covid-19: những bệnh nhân không thể tiếp khách, và kể cả nhiều y tá, bác sĩ và nhân viên hỗ trợ bị quá tải bởi công việc và bị giam trong các phòng cách ly. Đương nhiên, chúng ta không thể không nhớ đến tất cả những người phải đối mặt với giờ chết một mình, được các nhân viên y tế hỗ trợ, nhưng phải xa gia đình của họ.

Tôi cũng chia sẻ nỗi đau đớn, sự đau khổ và cô lập của những người bị bỏ rơi, vì chiến tranh và những hậu quả bi thảm của nó, mà không được hỗ trợ và giúp đỡ. Chiến tranh là căn bệnh xã hội khủng khiếp nhất và nó gây thiệt hại nặng nề nhất cho những người dễ bị tổn thương nhất.

Đồng thời, cần phải nói rằng ngay cả ở những quốc gia được hưởng nền hòa bình và các nguồn lực dồi dào hơn, tuổi già và bệnh tật cũng thường xuyên phải trải qua trong cô đơn và đôi khi thậm chí bị bỏ rơi. Thực tế tàn nhẫn này chủ yếu đến từ kết quả của văn hóa cá nhân chủ nghĩa đề cao năng suất bằng mọi giá, nuôi dưỡng câu chuyện thần thoại về tính hiệu quả và cho thấy sự thờ ơ, thậm chí nhẫn tâm khi các cá nhân không còn đủ sức mạnh cần thiết để bắt kịp nhịp độ. Từ đó, nó biến thành văn hóa vứt bỏ, trong đó “con người không còn được coi là giá trị tột bực phải được chăm sóc và tôn trọng, đặc biệt khi họ nghèo hoặc khuyết tật, ‘chưa hữu dụng’ – như thai nhi, hoặc ‘không còn cần thiết’ – như người già” (Tông huấn Fratelli Tutti, 18). Thật đáng buồn, lối suy nghĩ này cũng hướng dẫn một số quyết định chính trị không tập trung vào phẩm giá và nhu cầu của nhân vị, và thường không thúc đẩy các chiến lược và nguồn lực cần thiết để đảm bảo rằng mọi người đều được hưởng quyền cơ bản về sức khỏe và tiếp cận sự chăm sóc sức khỏe. Việc bỏ rơi những người dễ bị tổn thương và sự cô lập của họ cũng được trợ lực qua cách biến việc chăm sóc sức khỏe thành điều khoản của các các dịch vụ mà không được kèm với “giao ước trị liệu” giữa các bác sĩ, bệnh nhân và thành viên gia đình.

Một lần nữa chúng ta cần lắng nghe những lời trong Kinh thánh: “Con người ở một mình thì không tốt!” Thiên Chúa đã nói những lời đó vào lúc bắt đầu công trình tạo dựng và từ đó mạc khải cho chúng ta ý nghĩa sâu sắc dự án của Ngài dành cho nhân loại, nhưng đồng thời, vết thương phải chết của tội lỗi, len lỏi vào bằng cách gây ra những nghi ngờ, rạn nứt, chia rẽ và hậu quả là sự cô lập. Tội lỗi tấn công con người và mọi mối tương quan của họ: với Thiên Chúa, với chính họ, với người khác, với thụ tạo. Sự cô lập như vậy khiến chúng ta đánh mất ý nghĩa của cuộc đời mình; nó lấy đi niềm vui của tình yêu và khiến chúng ta trải qua cảm giác ngột ngạt khi phải cô đơn trong tất cả những giai đoạn quan trọng của cuộc đời.

Thưa anh chị em, hình thức chăm sóc đầu tiên cần có đối với bất kỳ căn bệnh nào là sự gần gũi đầy lòng trắc ẩn và yêu thương. Do đó, chăm sóc người bệnh trước hết có nghĩa là quan tâm đến các mối tương quan của họ, tất cả các mối tương quan: với Thiên Chúa, với người khác – các thành viên gia đình, bạn bè, nhân viên y tế –, với tạo vật và với chính họ. Việc này có thể thực hiện được không? Có, điều đó có thể thực hiện được và tất cả chúng ta đều được mời gọi để bảo đảm rằng nó sẽ xảy ra. Chúng ta hãy nhìn vào hình ảnh Người Samari nhân hậu (x. Lc 10:25-37), nhìn đến khả năng ông có thể dừng lại và đến gần người khác, nhìn đến tình yêu dịu dàng mà ông chăm sóc cho những vết thương của một người anh em đang đau khổ.

Chúng ta hãy ghi nhớ sự thật trung tâm này trong cuộc sống: chúng ta đi vào thế giới vì có người chào đón chúng ta; chúng ta được tạo dựng để yêu thương; và chúng ta được kêu gọi đến với sự hiệp thông và tình huynh đệ. Khía cạnh này trong cuộc sống là điều nâng đỡ chúng ta, đặc biệt là vào những lúc bệnh tật và dễ bị tổn thương. Đó cũng là liệu pháp đầu tiên mà tất cả chúng ta phải áp dụng để chữa lành các căn bệnh của xã hội nơi chúng ta đang sống.

Đối với những anh chị em đang trải qua bệnh tật, dù là tạm thời hay mãn tính, tôi muốn nói điều này: đừng xấu hổ vì anh chị em khao khát sự gần gũi và dịu dàng! Đừng che giấu điều đó và đừng bao giờ nghĩ rằng anh chị em là gánh nặng cho người khác. Tình trạng của người bệnh thúc giục tất cả chúng ta hãy đi ngược lại nhịp độ quay cuồng của cuộc sống để khám phá lại chính mình.

Tại thời điểm thay đổi quan trọng này, chúng ta, đặc biệt là các Kitô hữu, được mời gọi đón nhận cái nhìn đầy lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy quan tâm đến những người đau khổ và cô đơn, có lẽ bị đẩy ra bên lề xã hội và bị gạt sang một bên. Với tình yêu thương dành cho nhau mà Chúa Kitô ban cho chúng ta qua lời cầu nguyện, đặc biệt là trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta hãy chăm sóc các vết thương cô đơn và cô lập. Bằng cách này, chúng ta sẽ hợp tác để chống lại văn hóa cá nhân chủ nghĩa, văn hóa thờ ơ và lãng phí, đồng thời tạo điều kiện cho sự phát triển của một văn hóa dịu dàng và nhân ái.

Người bệnh, người dễ bị tổn thương và người nghèo là trung tâm của Giáo hội; họ cũng phải là trung tâm của sự quan tâm con người và sự quan tâm mục vụ của chúng ta. Mong sao chúng ta không bao giờ quên điều này! Và chúng ta hãy dâng mình cho Đức Maria rất Thánh, Sức khỏe của Bệnh nhân, để Mẹ cầu bầu cho chúng ta và giúp chúng ta trở thành những nghệ nhân của sự gần gũi và các mối tương quan huynh đệ.

Rome, Đền Thánh Gioan Lateran, 10 tháng Một, 2024

PHANXICÔ


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 14/1/2024]


Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp đoàn Ngoại giao nhân dịp Chúc mừng Năm mới

Đức Thánh Cha Phanxicô: Hòa bình đang bị đe dọa

Tiếp đoàn Ngoại giao nhân dịp Chúc mừng Năm mới

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp đoàn Ngoại giao nhân dịp Chúc mừng Năm mới

Vatican Media


*******

Có 184 quốc gia hiện đang duy trì quan hệ ngoại giao toàn diện với Tòa Thánh. Trong đó chúng ta cộng thêm Liên minh Châu Âu và Dòng Hiệp sĩ Malta. Có 91 cơ quan đại diện ngoại giao được Tòa Thánh chính thức có trụ sở tại Rome, kể cả các cơ quan của Liên minh Châu Âu và Dòng Hiệp sĩ Malta. Các Văn phòng chính thức tại Tòa thánh của Liên đoàn các Quốc gia Ả Rập, Tổ chức Di trú Quốc tế và Cao ủy Liên Hợp quốc về Người tị nạn cũng có trụ sở tại Rome.

Ngày 23 tháng Hai, Tòa Thánh đã thiết lập quan hệ ngoại giao toàn diện với Vương quốc Oman. Vào ngày 19 tháng Bảy, “Thỏa thuận bổ sung cho Thỏa thuận giữa Tòa thánh và Cộng hòa Kazakhstan về Quan hệ hỗ tương ngày 24 tháng Chín năm 1998” đã được phê chuẩn, liên quan đến việc cấp thị thực và giấy phép cư trú cho các nhân viên giáo hội và tôn giáo từ nước ngoài, được ký vào ngày 14 tháng Chín năm 2022. Ngày 27 tháng Bảy, “Thỏa thuận về Quy chế của Đại diện Giáo hoàng thường trú và Văn phòng Đại diện thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam” đã được ký kết với Việt Nam, qua việc bổ nhiệm một Đại diện Giáo hoàng thường trú vào ngày 23.

Sáng nay, tại Phòng Blessing, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp các Thành viên của Ngoại giao đoàn chính thức tại Tòa thánh nhân dịp chúc mừng Năm mới.

Sau lời giới thiệu của ông Trưởng đoàn Ngoại giao, ông Georges Poulides, Đại sứ Cộng hòa Síp tại Tòa thánh, Đức Thánh Cha đã có bài diễn từ dưới đây:

___________________________________________

Diễn từ của Đức Thánh Cha

Thưa quý ngài, thưa quý ông quý bà,

Tôi vui mừng được chào đón quý vị sáng nay và tôi xin gửi những lời chào cùng những lời chúc tốt đẹp cho Năm Mới. Một cách đặc biệt, tôi cảm ơn Ngài Đại sứ George Poulides, Trưởng đoàn Ngoại giao, vì những lời tốt đẹp, thể hiện mối quan tâm mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế vào đầu một năm mà chúng ta hy vọng là một năm hòa bình, nhưng thay vào đó đã xuất hiện những xung đột và chia rẽ.

Cuộc gặp gỡ của chúng ta là một dịp thích hợp để tôi cảm ơn quý vị vì những nỗ lực nhằm thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp giữa Tòa Thánh và các quốc gia của quý vị. Năm ngoái, “gia đình ngoại giao” của chúng ta đã trở nên rộng lớn hơn nhờ việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Vương quốc Oman và việc bổ nhiệm Đại sứ đầu tiên của nước này có mặt tại đây.

Ở đây tôi xin lưu ý rằng Tòa Thánh hiện đã bổ nhiệm một Đại diện Giáo hoàng thường trú tại Hà Nội, theo sau khi ký kết thỏa thuận về quy chế của Đại diện Giáo hoàng vào tháng Bảy năm ngoái. Đây là dấu hiệu cho thấy ý định theo đuổi tiến trình đã được khởi xướng trên tinh thần tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, cũng nhờ vào những liên hệ thường xuyên ở cấp độ tổ chức và sự hợp tác với Giáo hội địa phương.

Năm 2023 cũng chứng kiến việc phê chuẩn Thỏa thuận Bổ sung cho Thỏa thuận ngày 24 tháng Chín năm 1998 giữa Tòa Thánh và Kazakhstan về quan hệ hỗ tương, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hiện diện và hoạt động của các cơ quan mục vụ ở quốc gia đó. Năm vừa qua cũng đánh dấu việc mừng những ngày kỷ niệm quan trọng: kỷ niệm 100 năm quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Panama, kỷ niệm 70 năm quan hệ với Cộng hòa Hồi giáo Iran, 60 năm quan hệ với Hàn Quốc, và 50 năm với Úc.

Thưa các vị Đại sứ,

Một từ ngữ vang lên cách đặc biệt trong hai ngày lễ chính của Kitô giáo. Chúng ta nghe thấy lời đó trong bài ca của các thiên thần loan báo trong đêm Đấng Cứu Thế Giáng sinh, và chúng ta nghe thấy lời đó một lần nữa trong lời chào của Chúa Giêsu phục sinh. Từ đó là “bình an”. Bình an trước hết là một món quà của Thiên Chúa, vì chính Ngài đã để lại cho chúng ta sự bình an của Ngài (x. Ga 14:27). Tuy nhiên, đó cũng là một trách nhiệm mà tất cả chúng ta phải gánh vác: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình” (Mt 5:9). Phấn đấu cho hòa bình. Một từ rất đơn giản nhưng lại đòi hỏi rất nhiều và giàu ý nghĩa. Hôm nay tôi muốn tập trung suy tư của chúng ta về hòa bình, tại một thời điểm trong lịch sử khi nó ngày càng bị đe dọa, suy yếu và một phần bị mất đi. Về vấn đề này, trách nhiệm của Tòa Thánh trong cộng đồng quốc tế là trở thành tiếng nói tiên tri và kêu gọi lương tâm.

Vào đêm vọng Giáng sinh năm 1944, Đức Giáo hoàng Piô XII đã gửi một Thông điệp Radio đáng nhớ đến các dân tộc trên thế giới. Đệ nhị Thế chiến sắp kết thúc sau hơn 5 năm xung đột và nhân loại cảm nhận được – theo cách nói của Đức Giáo hoàng – “một ý chí rõ ràng và vững chắc hơn bao giờ hết: biến cuộc chiến tranh thế giới này, cuộc biến động toàn cầu này thành điểm khởi đầu cho một kỷ nguyên mới ghi đậm dấu ấn của sự đổi mới sâu sắc”. [1] Khoảng tám mươi năm sau, động lực cho sự “đổi mới sâu sắc” đó dường như đã bị lùi dần và thế giới của chúng ta đang chứng kiến ngày càng nhiều những cuộc xung đột từng bước biến điều mà tôi thường gọi là “một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba diễn ra từng phần” thành một cuộc xung đột toàn cầu thực sự.

Ở đây, trước sự hiện diện của quý vị, tôi không thể không nhắc lại mối quan tâm sâu sắc của tôi đối với các biến cố đang diễn ra ở Palestine và Israel. Tất cả chúng ta vẫn còn bị choáng váng trước cuộc tấn công vào người dân Israel ngày 7 tháng Mười, trong đó rất nhiều người vô tội bị thương, bị tra tấn và sát hại cách khủng khiếp, và nhiều người bị bắt làm con tin. Tôi lặp lại lời lên án của tôi đối với hành động này và mọi hoạt động khủng bố và cực đoan. Đây không phải là cách giải quyết tranh chấp giữa các dân tộc; những tranh chấp đó thậm chí càng trở nên trầm trọng hơn, gây đau khổ cho mọi người. Quả thật, cuộc tấn công đã dẫn đến sự phản ứng quân sự mạnh mẽ của Israel ở Gaza, dẫn đến cái chết của hàng chục ngàn người Palestine, chủ yếu là dân thường, trong đó có nhiều thanh thiếu niên và trẻ em, đồng thời gây ra sự khủng hoảng nhân đạo đặc biệt nghiêm trọng và những đau khổ không thể tưởng tượng được.

Với tất cả các bên liên quan, tôi lặp lại lời kêu gọi ngừng bắn trên mọi mặt trận, bao gồm cả Li Băng và ngay lập tức phóng thích tất cả các con tin bị giam giữ ở Gaza. Tôi yêu cầu cho người dân Palestine được nhận viện trợ nhân đạo, đồng thời các bệnh viện, trường học và nơi thờ phượng phải có được sự bảo vệ cần thiết.

Tôi hy vọng rằng cộng đồng quốc tế sẽ quyết tâm theo đuổi giải pháp hai nhà nước, một của Israel và một của Palestine, cũng như một quy chế đặc biệt được quốc tế bảo đảm cho Thành Giêrusalem, để người Israel và Palestine cuối cùng có thể sống trong hòa bình và an ninh.

Cuộc xung đột hiện nay ở Gaza càng làm mất ổn định thêm khu vực mong manh và đầy căng thẳng. Đặc biệt, chúng ta không thể quên người dân Syria, đang sống trong tình trạng bất ổn về kinh tế và chính trị càng trở nên trầm trọng hơn sau trận động đất vào tháng Hai năm ngoái. Mong rằng cộng đồng quốc tế thúc đẩy các bên liên quan thực hiện một cuộc đối thoại nghiêm túc mang tính xây dựng cũng như tìm kiếm các giải pháp mới, để người dân Syria không còn phải chịu đau khổ do các lệnh trừng phạt quốc tế nữa. Ngoài ra, tôi vô cùng đau buồn trước tình cảnh hàng triệu người tị nạn Syria vẫn còn hiện diện ở các nước láng giềng như Jordan và Li Băng.

Tôi đặc biệt nghĩ đến người dân Li Băng thân yêu và bày tỏ mối quan ngại của tôi đối với tình hình kinh tế và xã hội mà họ đang trải qua. Tôi hy vọng rằng tình trạng bế tắc về thể chế vốn đã chồng chất trên vai họ những gánh nặng sẽ được giải quyết và Vùng đất của cây Tuyết tùng sẽ sớm có một Tổng thống.

Vẫn trên lục địa Châu Á, tôi cũng kêu gọi sự chú ý của cộng đồng quốc tế đến Myanmar và tha thiết kêu gọi mọi nỗ lực sẽ được thực hiện để mang lại niềm hy vọng cho vùng đất này và một tương lai đúng phẩm giá cho những người trẻ của đất nước, đồng thời không quên tình trạng khẩn cấp nhân đạo mà người Rohingya đang tiếp tục trải qua.

Bên cạnh những tình hình phức tạp đó, vẫn có những tín hiệu hy vọng, như tôi đã được trải nghiệm được trong chuyến tông du đến Mông Cổ, và một lần nữa tôi xin bày tỏ lòng biết ơn các nhà chức trách vì sự đón tiếp của họ. Tôi cũng xin cảm ơn chính quyền Hungary vì sự hiếu khách mà tôi đã nhận được trong chuyến thăm đất nước vào tháng Tư năm ngoái. Đó là một cuộc hành trình đi vào trung tâm Châu Âu, giàu lịch sử và văn hóa, nơi tôi cảm nhận được tình cảm của nhiều người, nhưng cũng cảm nhận được sự cận kề của một cuộc xung đột mà chúng ta có thể coi là không thể tưởng tượng được ở Châu Âu của thế kỷ XXI.

Thật đáng buồn, sau gần hai năm chiến tranh trên quy mô lớn do Liên bang Nga tiến hành chống lại Ukraine, nền hòa bình được khao khát vẫn chưa thể bén rễ trong trí óc và tâm hồn, bất kể con số nạn nhân là rất lớn và sự tàn phá nặng nề. Người ta không thể cho phép sự tồn tại dai dẳng của một cuộc xung đột đang tiếp tục lan rộng, gây tổn hại cho hàng triệu người; cần phải chấm dứt thảm kịch hiện nay thông qua những cuộc đàm phán, tôn trọng luật pháp quốc tế.

Tôi cũng bày tỏ mối quan ngại trước tình hình căng thẳng ở Nam Caucasus giữa Armenia và Azerbaijan, đồng thời kêu gọi các bên tiến tới ký kết một hiệp ước hòa bình. Điều cấp bách là phải tìm ra giải pháp cho tình hình nhân đạo bi thảm của những người sống trong khu vực đó, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho những người tị nạn trở về quê hương của họ một cách hợp pháp và an ninh cũng như tôn trọng những nơi thờ phượng của các tôn giáo hiện diện ở đó. Những bước đi này sẽ góp phần xây dựng bầu khí tin tưởng giữa hai nước, hướng tới nền hòa bình được mong đợi.

Hướng cái nhìn của chúng ta về Châu Phi, chúng ta đang chứng kiến sự đau khổ của hàng triệu người do rất nhiều cuộc khủng hoảng nhân đạo mà nhiều quốc gia vùng cận Sahara phải trải qua do tình trạng khủng bố quốc tế, các vấn đề chính trị xã hội phức tạp và những tác động tàn phá do biến đổi khí hậu gây ra. Thêm vào đó là những ảnh hưởng của các cuộc đảo chính quân sự xảy ra ở một số quốc gia và những tiến trình bầu cử mang đậm dấu tham nhũng, đe dọa và bạo lực.

Đồng thời, tôi lặp lại lời kêu gọi các nỗ lực nghiêm túc từ phía tất cả những người tham gia vào việc áp dụng Thỏa thuận Pretoria tháng 11 năm 2022 nhằm chấm dứt tình trạng thù địch ở Tigray. Cũng vậy, để theo đuổi các giải pháp cụ thể cho những căng thẳng và tình trạng bạo lực đang tấn công Ethiopia, cũng như cho cuộc đối thoại, hòa bình và ổn định giữa các quốc gia vùng Sừng Châu Phi.

Tôi cũng muốn đề cập đến những biến cố bi thảm ở Sudan, thật đáng buồn sau nhiều tháng nội chiến đã không có lối thoát, cũng như hoàn cảnh của những người tị nạn ở Cameroon, Mozambique, Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan. Tôi đã có được niềm vui đến thăm hai quốc gia Congo và Nam Sudan hồi đầu năm ngoái, như một dấu hiệu thể hiện sự gần gũi của tôi với những người dân đang đau khổ của hai đất nước, dù nằm trong những bối cảnh và tình hình khác nhau. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các cấp chính quyền của cả hai nước vì nỗ lực của họ trong việc tổ chức các chuyến thăm này và vì lòng hiếu khách của họ. Chuyến Tông du của tôi đến Nam Sudan cũng mang hương vị đại kết, vì tôi được Đức Tổng Giám mục Canterbury và Vị điều hành Đại hội đồng Giáo hội Scotland cùng đồng hành, như một dấu chỉ cam kết chung của các cộng đồng giáo hội đối với hòa bình và hòa giải.

Mặc dù không có chiến tranh mở ở Châu Mỹ, nhưng những căng thẳng nghiêm trọng vẫn tồn tại giữa một số quốc gia, chẳng hạn như Venezuela và Guyana, trong khi tại các quốc gia khác, chẳng hạn như Peru, chúng ta thấy các dấu hiệu phân cực làm tổn hại đến sự hài hòa xã hội và làm suy yếu các thể chế dân chủ.

Tình hình ở Nicaragua vẫn còn rắc rối: một cuộc khủng hoảng kéo dài với những hậu quả đau đớn đối với toàn thể xã hội Nicaragua và đặc biệt đối với Giáo hội Công giáo. Tòa Thánh tiếp tục khuyến khích một cuộc đối thoại ngoại giao tôn trọng vì lợi ích của người Công giáo và toàn thể người dân.

Thưa quý ngài, thưa quý ông quý bà,

Trong bối cảnh mà tôi đã phác họa không hoàn chỉnh, chúng ta thấy một thế giới ngày càng bị xé nát, và thậm chí còn hơn thế, hàng triệu người – đàn ông, phụ nữ, những người cha, những người mẹ, trẻ em – mà phần lớn chúng ta không biết đến khuôn mặt của họ, và thường xuyên không chú ý đến.

Hơn nữa, các cuộc chiến tranh hiện đại không chỉ diễn ra trên những chiến trường được xác định rõ ràng, cũng không chỉ liên quan đến các chiến binh. Trong bối cảnh khi sự phân biệt giữa các mục tiêu quân sự và dân sự dường như không còn được tôn trọng, thì cuối cùng không có cuộc xung đột nào lại không tấn công dân thường cách bừa bãi bằng cách này cách khác. Các biến cố ở Ukraine và Gaza là bằng chứng rõ ràng cho vấn đề này. Chúng ta không được quên rằng những vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế là tội ác chiến tranh, và việc điểm mặt chúng là chưa đủ mà còn cần phải ngăn chặn chúng. Do đó, cần có nỗ lực lớn hơn từ phía cộng đồng quốc tế để bảo vệ và thực thi luật nhân đạo, nó dường như là cách duy nhất để bảo đảm cho việc bảo vệ nhân phẩm trong các hoàn cảnh chiến tranh.

Vào đầu năm nay, lời thúc giục của Công đồng Vatican II trong Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes vô cùng phù hợp: “Về vấn đề chiến tranh, có nhiều công ước quốc tế khác nhau, được nhiều quốc gia ký kết, nhằm mục đích làm cho hành động quân sự và những hậu quả của nó bớt vô nhân hơn… Những thỏa thuận này phải được tôn trọng; thật vậy các cơ quan công quyền và chuyên gia về những vấn đề này phải làm hết sức trong khả năng của họ để cải thiện những công ước này và từ đó mang đến sự kiềm chế tốt hơn và hiệu quả hơn đối với sự khốc liệt của chiến tranh”. [2] Ngay cả khi thực hiện quyền phòng vệ chính đáng, điều cần thiết là phải tuân thủ việc sử dụng vũ lực cách phù hợp.

Có lẽ chúng ta cần nhận thức rõ hơn rằng các nạn nhân dân sự không phải là sự “thiệt hại bổ sung” mà là những con người có họ tên, bị mất mạng sống. Đó là những đứa trẻ mồ côi và bị tước đoạt tương lai. Họ là những cá nhân phải chịu đói, khát và lạnh, hoặc bị mất một phần cơ thể do sức mạnh của các loại chất nổ hiện đại. Nếu chúng ta có thể nhìn thẳng vào mắt từng người, gọi tên họ và tìm hiểu điều gì đó về lịch sử cá nhân của họ, chúng ta sẽ thấy chiến tranh thực chất là gì: không gì khác hơn là một thảm kịch khổng lồ, một “cuộc tàn sát vô ích”, [3] một điều xúc phạm phẩm giá của mỗi con người trên trái đất này.

Tuy nhiên, các cuộc chiến vẫn có thể tiếp tục nhờ vào kho vũ khí khổng lồ sẵn có. Cần phải theo đuổi chính sách giải trừ vũ khí, vì thật là viển vông khi nghĩ rằng vũ khí có giá trị răn đe. Sự thật thì ngược lại: sự sẵn có của vũ khí sẽ khuyến khích việc sử dụng chúng và tăng cường sản xuất chúng. Vũ khí tạo ra sự ngờ vực và chuyển hướng nguồn lực. Bao nhiêu sinh mạng đã có thể được cứu sống với những nguồn tài nguyên mà ngày nay đang bị sử dụng sai mục đích cho vũ khí? Có phải sẽ tốt hơn nếu đầu tư những nguồn tài nguyên đó để theo đuổi an ninh toàn cầu đích thực? Những thách thức của thời đại chúng ta vượt mọi biên giới, như chúng ta thấy từ hàng loạt các cuộc khủng hoảng khác nhau – về lương thực, môi trường, nền kinh tế và chăm sóc sức khỏe – đã đánh dấu bước khởi đầu của thế kỷ này. Ở đây tôi nhắc lại đề xuất của tôi là thành lập một quỹ toàn cầu để chấm dứt nạn đói [4] và thúc đẩy sự phát triển bền vững của toàn hành tinh.

Trong số các mối đe dọa do các công cụ giết người này gây ra, tôi không thể không nhắc đến những mối đe dọa bởi kho vũ khí hạt nhân và sự phát triển các loại vũ khí hủy diệt và ngày càng tinh vi hơn. Ở đây, tôi một lần nữa khẳng định tính vô đạo đức của việc sản xuất và sở hữu vũ khí hạt nhân. Về vấn đề này, tôi bày tỏ hy vọng rằng các cuộc đàm phán sẽ được nối lại trong thời gian sớm nhất có thể để khởi động lại Kế hoạch Hành động Toàn diện Chung, hay còn được gọi là “Thỏa thuận hạt nhân Iran”, để đảm bảo một tương lai an toàn hơn cho tất cả mọi người.

Tuy nhiên, để theo đuổi hòa bình, việc loại bỏ các phương tiện chiến tranh thôi là chưa đủ; phải nhổ sạch những nguyên nhân gốc rễ của nó. Nguyên nhân đầu tiên là nạn đói, một tai họa tiếp tục gây đau khổ cho các khu vực trên thế giới trong khi những khu vực khác lại được đánh dấu bởi sự lãng phí lương thực rất lớn. Tiếp đến là sự bóc lột tài nguyên thiên nhiên, làm giàu cho một số ít người trong khi khiến người dân, những người được hưởng lợi tự nhiên từ các tài nguyên này, rơi vào tình trạng cơ cực và nghèo đói. Gắn liền với vấn đề này là tình trạng bóc lột những người bị buộc phải làm việc với mức lương rất thấp và thiếu triển vọng phát triển nghề nghiệp.

Nguyên nhân của xung đột cũng bao gồm các thiên tai và thảm họa môi trường. Chắc chắn có những thảm họa mà con người không thể kiểm soát được. Tôi nghĩ đến các trận động đất gần đây ở Maroc và Trung Quốc đã gây ra hàng trăm nạn nhân, cũng như trận động đất nghiêm trọng xảy ra ở Türkiye và một phần Syria, cướp đi sinh mạng không biết bao người và tàn phá khủng khiếp. Tôi cũng nghĩ đến trận lụt xảy ra ở Derna ở Libya, đã phá hủy toàn thành phố này, nhất là do hai con đập bị vỡ cùng lúc.

Tuy nhiên, cũng có những thảm họa do hoạt động của con người hoặc do sự thờ ơ của con người và góp phần cách nghiêm trọng vào sự khủng hoảng khí hậu hiện nay, chẳng hạn như nạn phá rừng Amazon, “lá phổi xanh” của trái đất.

Khủng hoảng khí hậu và môi trường là chủ đề của Hội nghị Lần thứ 28 các bên Tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP28) được tổ chức vào tháng trước tại Dubai. Tôi rất tiếc vì không thể trực tiếp tham gia. Hội nghị khai mạc cùng lúc với thông báo của Tổ chức Khí tượng Thế giới cho biết rằng năm 2023 là năm ấm nhất được ghi nhận so với 174 năm trước đó. Cuộc khủng hoảng khí hậu đòi hỏi sự phản ứng ngày càng cấp bách và sự tham gia đầy đủ của tất cả mọi người, bao gồm cả cộng đồng quốc tế nói chung. [5]

Việc thông qua tài liệu cuối cùng tại COP28 thể hiện một bước tiến đáng khích lệ; nó cho thấy rằng, đứng trước nhiều cuộc khủng hoảng ngày nay, chủ nghĩa đa phương có thể được đổi mới thông qua việc quản lý vấn đề khí hậu toàn cầu trong một thế giới nơi các vấn đề môi trường, xã hội và chính trị có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tại COP28, vấn đề cho thấy rõ rằng thập niên hiện tại là thập niên vô cùng quan trọng để giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Việc chăm sóc thụ tạo và nền hòa bình “là những vấn đề cấp bách nhất và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau”. [6] Vì lý do này, tôi hy vọng rằng những gì được thông qua ở Dubai sẽ dẫn đến “sự tăng tốc mang tính quyết định cho tiến trình hoán cải về sinh thái, thông qua các phương tiện… [cần] đạt được trong bốn lĩnh vực: hiệu quả về năng lượng; các nguồn tái tạo; loại bỏ nhiên liệu hóa thạch; và giáo dục về lối sống ít phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch”. [7]

Chiến tranh, nghèo đói, sự ngược đãi ngôi nhà chung của chúng ta và việc tiếp tục bóc lột tài nguyên của ngôi nhà chung, dẫn đến các thiên tai, cũng khiến hàng ngàn người phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm một tương lai hòa bình và an ninh. Trong hành trình, họ liều mạng sống trên những tuyến đường nguy hiểm, như băng qua sa mạc Sahara, trong rừng Darién nằm trên biên giới giữa Colombia và Panama ở Trung Mỹ, ở miền bắc Mexico tại biên giới tiếp giáp với Hoa Kỳ, và nhất là trên biển Địa Trung Hải. Thật đáng buồn, trong mười năm qua, Địa Trung Hải đã trở thành một nghĩa trang khổng lồ, khi những thảm kịch tiếp tục xảy ra do những kẻ buôn người vô lương tâm. Chúng ta đừng quên rằng số lớn các nạn nhân là các trẻ vị thành niên không có người đi cùng.

Thay vì vậy, đáng lẽ Địa Trung Hải phải là một phòng thí nghiệm hòa bình, “nơi các quốc gia và thực tại khác nhau có thể gặp gỡ trên cơ sở nhân đạo mà tất cả chúng ta đều có chung”. [8] Tôi muốn nhấn mạnh điều này ở Marseille, trong chuyến Tông du của tôi đến sự kiện Rencontres Méditerranéennes, và tôi cảm ơn các nhà tổ chức và chính quyền Pháp đã giúp chuyến Tông du đó thành hiện thực. Đứng trước một thảm kịch to lớn như vậy, cuối cùng chúng ta có thể dễ dàng đóng cửa lòng mình, tự bảo vệ trong nỗi sợ hãi về một “cuộc xâm lăng”. Chúng ta nhanh chóng quên rằng chúng ta đang đối xử với những con người có khuôn mặt và tên gọi, và chúng ta bỏ qua ơn gọi đặc biệt của vùng này, “biển của chúng ta” (mare nostrum), không phải là một ngôi mộ mà là nơi gặp gỡ và làm phong phú lẫn nhau giữa các cá nhân, các dân tộc và các nền văn hóa. Điều này không làm mất đi thực tế rằng việc di cư cần được kiểm soát để tiếp nhận, thăng tiến, đồng hành và hội nhập những người di cư, đồng thời tôn trọng văn hóa, sự nhạy cảm và an ninh của những dân tộc nhận trách nhiệm đối với việc tiếp nhận và hội nhập đó. Tương tự, chúng ta cần nhấn mạnh đến quyền của con người được ở lại trên quê hương của họ và sự cần thiết phải tạo điều kiện để thực thi quyền này một cách hiệu quả.

Khi đối mặt với thách thức này, không nên để một quốc gia nào đơn độc, cũng không quốc gia nào có thể nghĩ đến việc giải quyết vấn đề một cách cô lập, có khi thông qua luật pháp hạn chế và đàn áp hơn dưới áp lực của nỗi sợ hãi hoặc để theo đuổi sự đồng thuận trong bầu cử. Về vấn đề này, tôi hoan nghênh cam kết của Liên minh Châu Âu trong việc tìm kiếm một giải pháp chung thông qua Hiệp ước mới về Di cư và Tị nạn, đồng thời lưu ý một số hạn chế của nó, đặc biệt liên quan đến việc công nhận quyền tị nạn và nguy cơ bị giam giữ cách tùy tiện.

Thưa các vị Đại sứ,

Con đường dẫn đến hòa bình đòi hỏi việc tôn trọng sự sống, sự sống của mỗi con người, bắt đầu từ sự sống của bào thai trong bụng mẹ, sự sống đó không thể bị cắt đứt hoặc biến thành đối tượng để buôn bán. Về vấn đề này, tôi thấy thật đáng trách về cách thực hành được gọi là mang thai hộ, một việc vi phạm nghiêm trọng phẩm giá của người phụ nữ và trẻ em, dựa trên việc khai thác những hoàn cảnh về sự thiếu thốn vật chất của người mẹ. Một đứa trẻ luôn là một món quà và không bao giờ là cơ sở của một hợp đồng thương mại. Do đó, tôi hy vọng cộng đồng quốc tế sẽ nỗ lực ngăn cấm hành vi này trên toàn cầu. Trong mọi thời điểm của cuộc sống, sự sống con người phải được bảo toàn và bảo vệ; tuy nhiên tôi rất tiếc khi nhận thấy sự lan rộng ngày càng nhiều một văn hóa sự chết, đặc biệt là ở phương Tây, một văn hóa nhân danh lòng trắc ẩn sai lạc loại bỏ đứa trẻ, người già và người bệnh.

Con đường dẫn tới hòa bình đòi hỏi việc tôn trọng nhân quyền, phù hợp với nguyên tắc đơn giản nhưng rõ ràng trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền mà chúng ta vừa kỷ niệm 75 năm. Những nguyên tắc này hiển nhiên rất rõ ràng và được chấp nhận rộng rãi. Đáng tiếc là trong những thập niên gần đây đã có nhiều nỗ lực nhằm đưa ra các quyền mới nhưng không hoàn toàn phù hợp với các quyền được định rõ ban đầu và cũng không luôn được chấp nhận. Chúng đã dẫn đến các trường hợp thuộc địa hóa ý thức hệ, trong đó lý thuyết giới tính đóng vai trò trung tâm; thuyết thứ hai vô cùng nguy hiểm vì nó tuyên bố hủy bỏ những khác biệt để làm cho mọi người giống nhau. Những trường hợp thực dân hóa ý thức hệ này cho thấy rất có hại và tạo ra sự chia rẽ giữa các quốc gia, thay vì thúc đẩy hòa bình.

Mặt khác, đối thoại phải trở thành linh hồn của cộng đồng quốc tế. Tình hình hiện nay cũng là kết quả của sự suy yếu những cơ cấu ngoại giao đa phương trỗi dậy sau Thế chiến thứ hai. Các tổ chức được thành lập để thúc đẩy an ninh, hòa bình và hợp tác không còn khả năng đoàn kết tất cả các thành viên quanh một bàn. Có nguy cơ xảy ra “đơn nguyên” và chia rẽ thành các “câu lạc bộ” chỉ thừa nhận các quốc gia được coi là tương thích về mặt ý thức hệ. Ngay cả những cơ quan đóng góp vì ích chung và các vấn đề kỹ thuật, vốn đã tỏ ra hiệu quả cho đến nay, cũng có nguy cơ bị tê liệt do sự phân cực về ý thức hệ và sự khai thác của các quốc gia riêng lẻ.

Để khởi động lại cam kết chung phục vụ hòa bình, cần phải phục hồi lại những cội nguồn, tinh thần và các giá trị đã hình thành nên các tổ chức đó, đồng thời xét đến bối cảnh đã thay đổi và thể hiện sự quan tâm đối với những tổ chức không được đại diện đầy đủ trong cơ cấu của các tổ chức quốc tế.

Chắc chắn rằng, đối thoại đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên trì và khả năng lắng nghe, tuy nhiên khi thể hiện các nỗ lực chân thành nhằm chấm dứt các bất đồng thì có thể đạt được những kết quả quan trọng. Một ví dụ hiện lên trong đầu tôi là Thỏa thuận Belfast, còn được gọi là Thỏa thuận Good Friday, được chính phủ Anh và Ireland ký, đã kỷ niệm 25 năm vào năm ngoái. Chấm dứt ba mươi năm xung đột bạo lực, nó trở thành một mẫu gương thúc đẩy và khuyến khích các nhà hữu trách tin tưởng vào các tiến trình hòa bình, bất chấp những khó khăn và hy sinh mà họ phải chịu.

Con đường dẫn đến hòa bình là thông qua đối thoại chính trị và xã hội, vì đó là nền tảng cho sự chung sống của người dân trong một cộng đồng chính trị hiện đại. Năm 2024 sẽ chứng kiến các cuộc bầu cử được tổ chức ở nhiều quốc gia. Bầu cử là một thời điểm quan trọng trong đời sống của bất kỳ quốc gia nào, vì chúng cho phép mọi công dân có trách nhiệm lựa chọn người lãnh đạo của mình. Những lời của Đức Giáo hoàng Piô XII vẫn hợp thời hơn bao giờ hết: “Bày tỏ quan điểm riêng của một người về những nghĩa vụ và hy sinh mà người đó phải chịu trách nhiệm; không bị buộc phải tuân thủ trước khi được lắng nghe – đây là hai quyền công dân được thể hiện trong nền dân chủ, như chính tên gọi của nó. Từ sự ổn định, hài hòa và những thành quả tốt đẹp được tạo ra bởi sự tiếp xúc này giữa công dân và chính quyền nhà nước, người ta có thể nhận biết một nền dân chủ có thực sự lành mạnh và ổn định hay không, cũng như cảm nhận được sức sống và sự phát triển của nó”. [9]

Do đó, điều quan trọng là các công dân, đặc biệt là những người trẻ sẽ bỏ phiếu lần đầu tiên, coi việc đóng góp vào việc thăng tiến ích chung thông qua việc tham gia bầu cử cách tự do và có hiểu biết là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của họ. Về chính trị, phải hiểu rằng nó không phải là sự chiếm giữ quyền lực mà là “hình thức bác ái cao nhất”, [10] tức là phục vụ người lân cận trong cộng đồng địa phương hoặc quốc gia.

Con đường đến hòa bình cũng phải thông qua sự đối thoại liên tôn, trước hết đòi phải có sự bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tôn trọng các nhóm thiểu số. Chẳng hạn, thật đau lòng khi thấy rằng ngày càng có nhiều quốc gia đang áp dụng các mô hình kiểm soát tập trung đối với tự do tôn giáo, nhất là bằng cách sử dụng công nghệ phủ rộng khắp. Ở những nơi khác, các cộng đồng tôn giáo thiểu số thường rơi vào hoàn cảnh ngày càng bấp bênh. Trong một số trường hợp, họ có nguy cơ bị tuyệt chủng vì sự kết hợp của chủ nghĩa khủng bố, các cuộc tấn công vào di sản văn hóa của họ và các biện pháp tinh vi hơn như phổ biến luật chống cải đạo, thao túng các nguyên tắc bầu cử và hạn chế tài chính.

Đặc biệt đáng quan tâm là sự gia tăng các hành động bài Do Thái trong những tháng gần đây. Một lần nữa, tôi xin nhắc lại rằng tai họa này phải được loại bỏ khỏi xã hội, đặc biệt qua việc giáo dục tình huynh đệ và sự chấp nhận người khác.

Điều đáng lo ngại không kém là sự gia tăng đàn áp và phân biệt đối xử chống lại các Kitô hữu, đặc biệt trong mười năm qua. Đôi khi, việc này bao hàm trong những vụ việc phi bạo lực nhưng lại rất quan trọng về mặt xã hội như từng bước bị gạt ra ngoài lề và bị loại trừ khỏi đời sống chính trị và xã hội cũng như loại trừ khỏi cơ hội thực thi một số nghề nghiệp nhất định, ngay cả ở những vùng đất có truyền thống Kitô giáo. Tổng cộng, hơn 360 triệu Kitô hữu trên khắp thế giới đang phải chịu sự phân biệt đối xử và đàn áp ở mức độ cao vì đức tin của họ, trong đó ngày càng nhiều người bị buộc phải rời bỏ quê hương.

Cuối cùng, con đường dẫn đến hòa bình phải thông qua giáo dục, đó là phương cách chính để đầu tư vào tương lai và giới trẻ. Tôi có những kỷ niệm sống động về Ngày Giới trẻ Thế giới ở Bồ Đào Nha vào tháng Tám năm ngoái. Tôi xin được nhắc lại lời cảm ơn đối với các nhà hữu trách Bồ Đào Nha, dân sự và tôn giáo, vì công việc vất vả của họ khi tổ chức sự kiện này, tôi trân quý cuộc gặp gỡ với hơn một triệu bạn trẻ từ khắp nơi trên thế giới, tràn đầy nhiệt huyết và niềm say mê cuộc sống. Sự hiện diện của họ là một bài thánh ca tuyệt vời cho hòa bình và là một bằng chứng cho sự thật rằng “hiệp nhất thì vĩ đại hơn xung đột” [11] và rằng “có thể xây dựng sự hiệp thông giữa những bất đồng”. [12]

Trong thời gian gần đây, những thách thức mà các nhà giáo dục phải đối mặt bao gồm việc sử dụng các công nghệ mới phù hợp đạo đức. Công nghệ có thể dễ dàng trở thành một phương tiện truyền bá sự chia rẽ hoặc dối trá, “những tin giả”, nhưng chúng cũng đóng vai trò là nguồn gặp gỡ và trao đổi với nhau, và là phương tiện quan trọng cho hòa bình. “Những tiến bộ đáng chú ý trong công nghệ thông tin mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kỹ thuật số, mang đến các cơ hội thú vị nhưng cũng có những rủi ro nghiêm trọng, với những ảnh hưởng nghiêm trọng cho việc theo đuổi công lý và sự hòa hợp giữa các dân tộc”. [13] Vì lý do này, tôi nhận thấy thật quan trọng phải dành riêng Thông điệp Ngày Hòa bình Thế giới năm nay cho chủ đề trí tuệ nhân tạo, một trong những thách thức quan trọng nhất trong các năm tới.

Điều cốt lõi là sự phát triển công nghệ phải diễn ra trên con đường đạo đức và có trách nhiệm, tôn trọng vị trí trung tâm của nhân vị, và vị trí đó không bao giờ được thay thế bởi một thuật toán hay cỗ máy. “Phẩm giá vốn có của mỗi con người và tình huynh đệ gắn kết chúng ta trong tư cách là thành viên của một gia đình nhân loại phải ủng hộ sự phát triển của các công nghệ mới và đóng vai trò là tiêu chí hiển nhiên để đánh giá chúng trước khi chúng được sử dụng, để tiến bộ kỹ thuật số có thể diễn ra với sự tôn trọng công lý và góp phần vào sự nghiệp hòa bình”. [14]

Do đó, cần phải thận trọng suy tư ở mọi cấp độ, quốc gia và quốc tế, chính trị và xã hội, để đảm bảo rằng sự phát triển của trí tuệ nhân tạo vẫn là phục vụ con người, thúc đẩy và không cản trở các mối quan hệ giữa các cá nhân – đặc biệt là đối với giới trẻ – một tinh thần huynh đệ lành mạnh, tư duy phê phán và khả năng phân định.

Về vấn đề này, hai Hội nghị Ngoại giao của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới, sẽ diễn ra vào năm 2024 với sự tham gia của Tòa Thánh trong tư cách là một Quốc gia Thành viên, sẽ trở nên quan trọng cách đặc biệt. Theo quan điểm của Tòa Thánh, sở hữu trí tuệ phải hướng đến việc thúc đẩy ích chung và không thể tách rời khỏi các yêu cầu đạo đức, bằng không sẽ xảy ra những tình huống bất công và bóc lột quá mức. Cần phải đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ di sản gien của con người, bằng cách cấm những cách thực hành trái với phẩm giá con người, [...]

Thưa quý vị, thưa quý ông quý bà,

Năm nay Giáo Hội đang chuẩn bị cho Năm Thánh sẽ khai mạc vào lễ Giáng Sinh năm tới. Cách đặc biệt, tôi bày tỏ lòng tri ân chính quyền Ý, cấp quốc gia và địa phương, vì những nỗ lực của họ trong việc chuẩn bị cho Thành phố Rome chào đón số lượng lớn người hành hương và giúp họ kín múc được hoa trái thiêng liêng từ trải nghiệm Năm Thánh của họ.

Có lẽ hơn bao giờ hết, ngày nay chúng ta cần một Năm Thánh. Giữa nhiều nguyên nhân đau khổ dẫn đến cảm giác tuyệt vọng không chỉ nơi những người bị ảnh hưởng trực tiếp mà còn trong toàn xã hội chúng ta; giữa những khó khăn mà giới trẻ của chúng ta phải trải qua, thay vì ước mơ về một tương lai tốt đẹp hơn lại thường cảm thấy bất lực và thất vọng; và giữa bóng tối của thế giới này dường như đang lan rộng hơn là lùi xa, Năm Thánh là một lời công bố rằng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Ngài và luôn mở cửa Vương quốc của Ngài. Theo truyền thống Do Thái-Kitô giáo, Năm Thánh là mùa ân sủng giúp chúng ta cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa và ơn bình an của Ngài. Đó cũng là mùa của sự chính trực, trong đó tội được tha thứ, hòa giải chiến thắng bất công, và đất đai được nghỉ ngơi. Với tất cả mọi người – Kitô giáo cũng như ngoài Kitô giáo – Năm Thánh có thể là thời điểm mà gươm đao biến thành lưỡi cày, thời điểm mà một dân tộc sẽ không còn giơ gươm lên chống lại dân tộc khác, cũng như không còn học nghề chiến tranh nữa (x. Is 2:4).

Anh chị em thân mến, đây là lời cầu chúc chân thành của tôi gửi đến từng người trong anh chị em là các Đại sứ, gửi đến gia đình và đồng nghiệp của anh chị em cũng như cho các dân tộc mà anh chị em đại diện.

Cảm ơn anh chị em và Chúc tất cả anh chị em Năm Mới Hạnh Phúc!

________________________________________



[2] Pastoral Constitution Gaudium et Spes on the Church in the Modern World (7 December 1965), 79.

[3] Cf. BENEDICT XV, Letter to the Leaders of the Belligerent Peoples (1 August 1917).

[4] Cf. Encyclical Letter Fratelli Tutti on Fraternity and Social Friendship (3 October 2020), 262.

[5] Cf. Apostolic Exhortation Laudate Deum to All People of Good Will on the Climate Crisis (4 October 2023).





[10] PIUS XI, Audience to the Leaders of the Catholic University Federation, 18 December 1927.

[11] Apostolic Exhortation Evangelii Gaudium on the Proclamation of the Gospel in today’s World (24 November 2013), 228.






[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 12/1/2024]