Thứ Tư, 31 tháng 8, 2016

Các nhà lãnh đạo Công giáo và Hồi giáo Shia đoàn kết tố cáo WMDs, chủ nghĩa khủng bố

Các nhà lãnh đạo Công giáo và Hồi giáo Shia đoàn kết tố cáo WMDs, chủ nghĩa khủng bố

A nuclear bomb explosion at the Nevada Test Site, April 18, 1953. Photo courtesy of National Nuclear Security Administration/Nevada Site Office.
Một vụ nổ bom nguyên tử tại địa điểm thử nghiệm ngày 18 tháng 4 năm 1953. Ảnh của National Nuclear Security Administration/Nevada Site Office.

Roma, Ý, 30 tháng 8, 2016 / 12:02 sáng (CNA/EWTN News). - Các nhà lãnh đạo Hồi giáo Shia từ Iran và các Giám mục Công giáo Hoa kỳ nói rằng họ có một cuộc chiến chung chống lại vũ khí hủy diệt hàng loạt, chủ nghĩa khủng bố, và chủ nghĩa cực đoan tôn giáo bạo lực.
“Ki-tô giáo và Hồi giáo chia sẻ cam kết yêu thương và tôn trọng sự sống, nhân phẩm, và ích lợi của mọi thành viên của cộng đồng nhân loại,” họ nói trong một tuyên ngôn chung ngày 18 tháng 8. “Việc cùng chung sống hòa bình được xây dựng trên nền tảng công bằng và pháp lý. Chúng tôi kêu gọi tất cả cùng làm việc hướng đến phát triển một văn hóa gặp gỡ, khoan dung, đối thoại, và hòa bình để tôn trọng truyền thống tôn giáo của nhau.”
Hai phái đoàn cùng đồng thuận rằng niềm tin vào một Thiên Chúa hợp nhất Do thái giáo, Ki-tô giáo, và Hồi giáo.
“Các nhà lãnh đạo tôn giáo phải đưa ra những hướng dẫn đạo đức và lên tiếng nói chống lại sự bất công và bất kỳ điều gì gây nguy hại cho nhân loại,” bản tuyên ngôn nói, với tiêu đề “Tập họp nhân danh Thiên Chúa.”
Đức Hồng y Theodore McCarrick, Đức Tổng giám mục Emeritus giáo phận Washington, ký văn kiện, đồng ký có Đức Giám mục Oscar Cantú giáo phận Las Cruces, ngài là chủ tịch Ủy ban Quốc tế Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ.
Tuyên ngôn chung được đưa ra sau các phiên họp 5-10 tháng 6 tại Roma. Đối thoại được xây dựng trên nền tảng cuộc họp ở Qom, bắc Iran, tháng 3 năm 2014 tập trung vào việc loại trừ vũ khí nguyên tử.
Đức Giám mục Cantú nói rằng bản tuyên ngôn chung là kết quả của “sự đối thoại chân tình giữa hai tôn giáo hiệp nhất trong những quan tâm về sự sống và nhân phẩm của con người.”
“Cùng nhau, chúng tôi cam kết tiếp tục đối thoại về những vấn đề căng thẳng nhất đang đối mặt với gia đình nhân loại, chẳng hạn tình trạng đói nghèo, bất công, phi nhân đạo, chủ nghĩa khủng bố, và chiến tranh,” ngài nói thêm, theo Hội đồng Giám mục Hoa kỳ.
Phía Iran ký văn kiện có Ayatollah Ali-Reza A'arafi, chủ tịch Đại học Quốc tế Al-Mustafa, và tiến sĩ Abdul-Majid Hakim-Elahi, giám đốc văn phòng quan hệ Quốc tế của Hiệp hội Các học giả của Qom Seminary.
Tuyên ngôn chung loại bỏ mọi hình thức phát triển và sử dụng những loại vũ khí hủy diệt hàng loạt cũng như “mọi hành động của chủ nghĩa khủng bố.”
“Chúng tôi cùng nhau xây dựng một thế giới không có vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chúng tôi kêu gọi mọi dân tộc từ bỏ việc sở hữu những loại vũ khí như vậy, và kêu gọi những quốc gia đang sở hữu chúng nên bỏ những vũ khí hủy diệt này, bao gồm vũ khí hóa học, sinh học và nguyên tử,” bản tuyên ngôn nói.
Cũng như vậy, các nhà lãnh đạo tôn giáo chống lại “những biện pháp trừng phạt hủy diệt” và những chính sách khác làm nguy hại đến những công dân vô tội, chẳng hạn việc ép buộc đuổi người dân ra khỏi quê hương của họ.
Họ cũng đoạn tuyệt với chủ nghĩa cực đoan.
“Chúng tôi thực sự vô cùng lo lắng vì sự lan tràn của những hệ tư tưởng cực đoan, thường được kích động bởi những bài diễn giải văn bản tôn giáo hời hợt và sai lệch, phủ nhận giá trị vốn có và phẩm giá của mỗi con người, bất kể niềm tin tôn giáo,” bản tuyên ngôn viết. “Chúng tôi kêu gọi các nhà lãnh đạo tôn giáo vào cộng đồng phải ngăn chặn sự lan rộng những ý thức hệ như vậy đang tạo ra những chủ nghĩa bè phái và bạo lực.”
Họ miêu tả chủ nghĩa cực đoan bạo lực và chủ nghĩa khủng bố là “những xuyên tạc niềm tin tôn giáo chính trực.”
“Tội lỗi của những hành động khủng bố không được gán cho mọi thành viên của toàn thể một tôn giáo, một dân tộc, một nền văn hóa, hay nhóm sắc tộc,” họ nói thêm. “Chống lại chủ nghĩa cực đoan bạo lực đòi hỏi phải có sự xác định chắc chắn và sự hợp tác để giải quyết những nguyên nhân gốc rễ của nó.”
“Chúng tôi kêu gọi tất cả cùng làm việc hướng đến phát triển một văn hóa gặp gỡ, khoan dung, đối thoại, và hòa bình để tôn trọng truyền thống tôn giáo của nhau,” họ nói.
“Phục vụ Thiên Chúa đòi hỏi phải làm việc vì lợi ích cho những tạo vật của Người và những lợi ích chung của toàn nhân loại. Các nhà lãnh đạo tôn giáo phải đưa ra những hướng dẫn đạo đức và lên tiếng nói chống lại sự bất công và bất kỳ điều gì gây nguy hại cho nhân loại,” bản tuyên ngôn viết.
Những Giám mục khác trong phái đoàn Công giáo gồm Đức Giám mục Richard Pates giáo phận Des Moines và Đức Giám mục phó Denis Madden giáo phận Baltimore. Năm thành viên của phái đoàn Iran được dẫn đầu bởi Ayatollah Mahdi Hadavi Moghaddam Tehrani và Ayatollah Abolghasem Alidoost.

[Nguồn:  catholicnewsagency]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 31/08/2016]



Lá thư của Mẹ Teresa gửi một cô dâu trẻ

Lá thư của Mẹ Teresa gửi một cô dâu trẻ


Khi tác giả và vợ của anh mời thánh nhân đến dự tiệc cưới của họ, họ không ngờ nhận được món quà tuyệt vời này

WEB-Mother_Teresa_letter
Mẹ Teresa không thể đến đám cưới của chúng tôi, vì vậy Mẹ viết nhanh vài dòng chia sẻ những điều Mẹ sẽ nói nếu Mẹ đến dự đám cưới.
Thực ra, chính vợ tôi, April, mời Mẹ. Cô ta cũng mời Tổng thống và Đức Giáo hoàng. Ông và bà Tổng thống George và Barbara Bush gửi tới một tấm thiệp in sẵn. Vatican gửi một lời chúc lành. Nhưng Mẹ Teresa gửi cho chúng tôi một thư hồi âm riêng, một trang đánh máy có ít nhất một lỗi (chữ “s” bị đánh lộn thành “a”) và Mẹ ký ở cuối thư.
Trong những ngày này đang hướng đến ngày lễ phong thánh của Mẹ, rất nhiều những chú ý tập trung vào những giây phút vĩ đại của cuộc đời Mẹ Teresa (ngày tôi đến làm việc, Đại học Bê-nê-đi-tô đang chuẩn bị rất nhiều hướng về Mẹ). Nhưng đối với chúng tôi, sự liên lạc thân thương này với Mẹ là điều ý nghĩa nhất.
Những điều Mẹ viết cho chúng tôi lấy trực tiếp trong hồi ký của riêng Mẹ.
“Hãy chào đón những đứa trẻ vào trong cuộc đời hôn nhân của hai con và giúp chúng lớn lên là ánh dương của tình yêu Thiên Chúa trong gia đình và trong khu xóm,” Mẹ nói.
Đây đúng là những gì thân phụ của Mẹ đã làm cho Mẹ. “Thân phụ của Mẹ thật là một người mẫu mực. Người có ảnh hưởng rất lớn đối với Mẹ,” một nhà ngoại giao Albania biết Mẹ và cũng là bạn của Mẹ kể (told) với Washington Post.
“Con gái bé nhỏ của cha,” thân phụ của Mẹ nói với Mẹ khi còn bé, “phải luôn biết chia sẻ phần ăn nhỏ nhất của con với những người khác, đặc biệt với người nghèo. Tính ích kỷ là một căn bệnh tâm hồn biến chúng ta thành những nô lệ của sự giàu có.”
Nhưng lời nói của ông không phải là bài học lớn nhất. Nhà của Mẹ là địa điểm của nhiều sự kiện chính trị, và thân phụ của Mẹ bắt đầu khai mạc bằng cách giới thiệu giọng của con gái của ông. Agnes có giọng “soprano tuyệt vời” có thể trình diễn hoàn hảo bài hát Albania “Tại hồ nước” cho các vị khách.
Mẹ không bao giờ rời khỏi con con đường thân phụ Mẹ đã vạch ra cho Mẹ. Mẹ dành suốt cuộc đời nhổ tận gốc rễ tính ích kỷ, như phụ thân của Mẹ đã nói với Mẹ, và đứng thẳng trước những con người quyền lực, cũng như thân phụ Mẹ đã bảo Mẹ.
“Trong ngày cưới của các con, các con sẽ nhận được nhiều quà – một số sẽ rất đắt tiền. Nhưng món quà quý giá nhất các con sẽ nhận trong ngày đó là món quà của  nhau,” Mẹ nói. “Hãy giữ lấy niềm vui yêu thương nhau và hãy chia sẻ niềm vui này.”
Mẹ Teresa biết chính xác món quà tình yêu có thể làm được những gì cho con người.
Năm 1946, Mẹ Teresa viết về việc Đức Ki-tô gọi Mẹ sang Ấn độ. Quan điểm lãng mạn cho rằng Mẹ Teresa yêu người nghèo và vội vã chạy đến phục vụ họ là sai. Mẹ đã không muốn đi. Tuy nhiên Mẹ đã đi.
Cáo thỉnh viên của Mẹ nói rằng câu “Xin vâng” của Mẹ đã được tưởng thưởng bằng một “sự hiệp nhất thật sự, gần gũi và mãnh liệt với Chúa Giê-su trong năm 1946 và 1947.”
Thật khó mà phóng đại sức mạnh của “món quà tình yêu” này. Năm tháng Mẹ được Đức Ki-tô luôn ở gần đã làm Mẹ rung động và biến đổi Mẹ. Và đó là điều tốt lành đã xảy ra. Tiếp theo là những thập niên trong bóng tối. Suốt 50 năm “đêm đen của linh hồn,” mà Mẹ đã thiếu vắng sự an ủi từ Thiên Chúa, đã chịu đựng tới mức khó mà hình dung được.
Nhưng tôi không nghĩ đến Mẹ như một mẫu gương của một tâm hồn vẫn có thể tự nó trụ vững mà không cần đến Chúa Giê-su; nhưng nghĩ đến Mẹ như một mẫu gương chỉ cần Chúa Giê-su thôi cũng có thể trụ vững tâm hồn suốt cuộc đời.
“Đừng sợ,” Chúa Giê-su nói với Mẹ. “Chính Cha đang gọi con làm điều này cho cha. Đừng sợ. Cho dù cả thế giới chống lại con, cười nhạo con, những người đồng hành và các bề trên có khinh khi con, đừng sợ. Chính cha ở trong con,cùng với con, và cho con.”
Nhớ đến trải nghiệm yêu thương ban đầu của Chúa Giê-su biến Mẹ thành “tông đồ của niềm vui,” chào mừng thế giới bằng một nụ cười, và bảo những người khác cùng làm như vậy, ngay cả những khi Mẹ phải trả lời báo chí tận đêm khuya, kể cả lời mời đến dự đám cưới của Tom và April Hoopes.
“Từ ngày đầu tiên của cuộc sống vợ chồng, hãy cùng nhau cầu nguyện,” Mẹ nói. “Với gia đình biết cầu nguyện cùng nhau thì sẽ cùng nhau ở trong yêu thương, trong an bình và hiệp nhất.”
Nhờ ân sủng của Thiên Chúa và sự cầu bầu của một trong những vị thánh lớn của Người, chúng tôi đã làm được những gì Mẹ yêu cầu chúng tôi làm. Và bằng cách trưng bày lá thư của Mẹ trong gia đình, Mẹ cũng đã dẫn đưa những người khác vào trong đời sống cầu nguyện này.”
Trên hết chúng tôi cầu xin ơn sủng để có thể làm một điều gì đó kỳ diệu mà một người Ki-tô hữu có thể làm để sẽ lay động thế giới với những tổ chức của nó và để thế giới được biến đổi: Hãy vâng lời Giê-su. Nên như Mẹ Teresa.

Tom Hoopes

Tom Hoopes là một cây bút của trường đại học Bê-nê-đi-tô ở Atchison, Kansas, và là tác giả của quyển sách sắp ra mắt Những điều Đức Thánh Cha Phanxico thực sự muốn nói (What Pope Francis Really Said).
[Nguồn:  aleteia]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 30/08/2016]



Một người trở lại đạo ở Bhutan trở thành một linh mục nhờ Mẹ Teresa

Một người trở lại đạo ở Bhutan trở thành một  linh mục nhờ Mẹ Teresa

25 tháng 8, 2016
SPECIAL TO CRUX
Lone convert from Bhutan became priest thanks to Mother Teresa
Cha Kinley Tshering. (Ảnh: Asia News.)
Một thanh niên trở lại Đạo Công giáo ở Bhutan, người đang đấu vật với ý nghĩ của tiếng gọi đi theo con đường thánh chức linh mục có lần tình cờ ngồi trên máy bay cạnh Mẹ Teresa, Mẹ cầm lấy tay anh và nói: “Con có ơn thiên triệu, hãy quảng đại với Thiên Chúa, và Người sẽ quảng đại với con.”
[Cha dòng Tên Kinley Tshering hiện tại là bề trên giám tỉnh của  Darjeeling ở Ấn độ, và, theo mọi người được biết, là một người Bhutan trở lại đạo Công giáo. Là một quốc gia nằm sâu trong đất liền thuộc Nam Á, nằm giữa Trung quốc và Ấn độ, Bhutan có dân số gồm 2/3 theo đạo Phật và 1/3 theo đạo Hindu, số người Công giáo chiếm không đến 1% của tổng dân số khoảng 750.000 người.
Cha Tshering khám phá ra ơn gọi làm linh mục Công giáo của mình khi cha ngồi cạnh Mẹ Teresa Calcutta trên một chuyến bay, và cha chia sẻ câu chuyện với Crux.]
Đó là năm 1986 và tôi đang từ Hyderabad trở về sau khi tham dự một Hội nghị Bottlers. Tôi vừa hoàn tất bằng Thạc sĩ ở Học viện Quản lý Ấn độ ở Bangalore, và đang quản lý một Đại lý của Parle ở Bhutan trong ba năm. [Parle là một thương hiệu của Ấn độ về các loại bánh quy.]
Tôi trở lại đạo Công giáo năm 1974 lúc còn là học sinh tại trường Thánh Giu-se ở North Point, Darjeeling, một trong những trường nội trú tốt nhất ở Ấn độ. Sau khi học xong ở Darjeeling, tôi đi học Đại học Thánh Giu-se ở Bangalore, và sau đó sang Đại học Thánh Xavier ở Mumbai, để tốt nghiệp. Tôi trở lại Bangalore để hoàn tất văn bằng sau đại học về Quản trị (PGDM), cũng tại Học viện Quản trị Ấn độ.
Từ sau khi trở lại đạo, tôi luôn mong ước được làm linh mục. Tuy nhiên, việc học của tôi ở đây ở kia, những áp lực gia đình, và lối sống riêng của tôi không giúp tôi đưa ra quyết định dứt khoát. Rất nhiều linh mục là cha linh hướng của tôi luôn khuyến khích tôi chờ đợi, và có một cha thậm chí đề nghị tôi nên lập gia đình vì tôi là người Công giáo duy nhất từ Bhutan để Giáo hội có thể phát triển ở đó.
Tuy nhiên, vì tôi có một mong ước ẩn giấu muốn làm linh mục, tôi bắt đầu cầu xin với Thiên Chúa cho tôi một dấu chỉ. Tôi nhớ đã cầu nguyện rằng Chúa không cần phải cho tôi một dấu chỉ như Thánh Teresa Hài đồng Giê-su bằng cách cho tuyết rơi vào mùa hè, nhưng là một dấu chỉ rõ ràng để tôi không còn do dự.
Vào một sáng Chúa nhật khi chuông nhà thờ đổ ở Hyderabad, tôi đi lễ vì nhà thờ gần với khách sạn. Tôi cầu xin một dấu chỉ. Đêm hôm đó, trên chuyến bay đêm đến Calcutta, tôi đang mong ngóng đến gặp một người bạn gái, nhưng chuyến bay bị trễ vì có một nhân vật quan trọng (VIP) đến. Tôi hơi bực mình, nhưng cảm tính của tôi thay đổi ngay lập tức khi tôi nhìn thấy Mẹ Teresa đi vào và ngồi gần tôi ở ngay hàng ghế trước.
Tim tôi đập thình thịch, và tôi nín thở! Máy bay cất cánh, và Mẹ thậm chí chẳng nói một lời hay chào tôi. Mẹ đang chú tâm cầu nguyện, và, sau một khoảng thời gian như vô tận, Mẹ quay lại tôi và hỏi tôi ở đâu đến.
Tôi nói với Mẹ tôi ở Darjeeling, và Mẹ vui hẳn lên và kể lại rành rọt cho tôi những ngày Mẹ ở với các soeur Loretto ở đó. Khi tôi nói với Mẹ thực ra tôi quê ở Bhutan và tôi là một người Công giáo, Mẹ rất tò mò. Tôi nói với Mẹ tôi là người trở lại đạo, và, chỉ vài giây sau, tôi thổ lộ hết mọi lo âu trong lòng cho Mẹ - không phải chỉ ước muốn trở thành linh mục, nhưng tất cả những cám dỗ tôi đang có.
Mẹ cầm lấy tay tôi và nói, “Mẹ chưa nói chuyện này với nhiều người, nhưng Mẹ nói với con. Con có ơn thiên triệu, vì vậy hãy quảng đại với Chúa, và Người sẽ quảng đại với con.”
Đôi mắt tôi đẫm lệ, và tôi khóc suốt trên đường đến Calcutta vì tràn ngập niềm vui. Tôi xin Chúa một phép lạ để xác định ơn gọi của mình, và Chúa gửi cho tôi một thiên thần, giống như Đức Mẹ Maria. Tôi chẳng còn gì phải nói ngoài, “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Người.”
Vài tháng sau tôi xin gia nhập Nhà tập Núi Carmel của dòng Tên ở Kurseong. Năm 1995, sau khi được tiến chức, tôi đến Calcutta gặp Mẹ Teresa. Câu đầu tiên Mẹ nói với tôi là, “Mẹ đã cầu nguyện cho con trong suốt mười năm qua.”

[Nguồn:  cruxnow]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 27/08/2016]



Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

Đức Thánh Cha gặp Mark Zuckerberg và vợ của anh tại Vatican

Đức Thánh Cha gặp Mark Zuckerberg và vợ của anh tại Vatican

Pope Francis meets with Facebook co-founder and CEO Mark Zuckerber and his wife Priscilla Chan at the Vatican Aug. 29, 2016. Credit: L'Osservatore Romano.
Đức Thánh Cha Phanxico gặp người đồng sáng lập và CEO Facebook, Mark Zuckerber và vợ của anh, Priscilla Chan tại Vatican ngày 29 tháng 8, 2016. Ảnh: L'Osservatore Romano.
Vatican City, 29 tháng 8, 2016 / 06:10 sáng (CNA/EWTN News).- Hôm thứ Hai Đức Thánh Cha Phanxico gặp gỡ Mark Zuckerberg, đồng sáng lập và CEO của mạng xã hội khổng lồ Facebook, tại Vatican, đánh dấu cuộc gặp gỡ mới nhất trong một chuỗi các buổi gặp gỡ với các người đứng đầu ngành công nghệ trong năm nay.
Theo thông cáo ngày 29 tháng 8 của Vatican, Đức Phanxico và Zuckerberg, vợ anh, Priscilla Chan, cùng đi trong lần gặp gỡ, “nói đến cách sử dụng những công nghệ truyền thông để làm giảm bớt cảnh đói nghèo, cổ vũ văn hóa gặp gỡ và mang đến thông điệp hy vọng, đặc biệt cho những người bị thiệt thòi nhất.”
Chủ đề nghèo đói và đem lại thông điệp hy vọng cho người nghèo và người bị loại ra bên lề xã hội là điều Đức Phanxico đã liên tục đề cập đến từ khi ngài đăng quang, chưa ban giờ ngưng nghỉ trong suốt 3 năm qua.
Mặc dù ngài thừa nhận với mọi người trong các lần phỏng vấn là không có một chiếc điện thoại di động hoặc sử dụng vi tính; nhưng dường như Đức Phanxico nhìn thấy được giá trị của thời đại kỹ thuật số, đặc biệt theo cách nói là những lợi ích mà công nghệ mới có thể đem lại cho việc phúc âm hóa và thúc đẩy nhân phẩm.
Cuộc gặp của ngài với Zuckerberg và Chan đánh dấu lần thứ tư ngài gặp gỡ các người đứng đầu giới công nghệ trong năm nay.
Ngày 15 tháng 1 ngài tiếp Eric Schmidt, chủ tịch của công ty mẹ Google Alphabet, trong một lần gặp riêng tại Vatican. Một tuần sau, ngài có một cuộc tiếp kiến riêng với Tim Cook, CEO của Apple.
Đức Thánh Cha cũng nỗ lực gặp gỡ trao đổi với những nhân vật tên tuổi có chung những vấn đề quan tâm chẳng hạn Leonardo DiCaprio, ngài đã gặp hôm 28 tháng 1 trong một buổi nói chuyện tập trung và các vấn đề liên quan đến thay đổi khí hậu và môi trường.
Ngài cũng bắt đầu tạo ra làn sóng truyền thông xã hội, mở tài khoản Twitter năm 2012 và phát hành tài khoản Instagram riêng ngày 19 tháng 3 chỉ ít tuần sau cuộc gặp gỡ ngày 26 tháng 2 với CEO và đồng sáng lập Instagram, Kevin Systrom tại Lâu đài Tông truyền của Vatican.
Lý do đàng sau của cuộc gặp của Đức Phanxico với Zuckerberg, người đồng sáng lập Facebook với các bạn cùng phòng và cùng trường tại Harvard năm 2004, có thể được thúc đẩy bởi quyết định của Zuckerberg và Chan năm 2015 là tặng toàn bộ số cổ phiếu trị giá $45 tỷ của Facebook Inc.
Đến tháng 8 năm 2016, Zuckerberg có tài sản trị giá ước tính $53.7 tỷ, anh trở thành một trong 5 người giàu nhất thế giới.
Tuy nhiên, sau khi đứa con gái Maxina của anh chào đời cuối năm 2015, Zuckerberg và Chan công bố ngày 2 tháng 12, 2015 trong một thư ngỏ cho con gái rằng họ sẽ tặng 99 phần trăm cổ phiếu Facebook trong suốt cuộc đời họ thông qua “Sáng kiến Chan Zuckerberg,” nhằm mục đích phát triển tiềm năng con người và thúc đẩy sự bình đẳng “cho tất cả trẻ em của thế hệ mai sau.”
Trong thư của họ, đôi vợ chồng nói rằng họ có một “trách nhiệm đạo đức” không chỉ riêng với con gái của họ, nhưng với “tất cả trẻ em của thế hệ tương lai” để làm thế giới trở nên một nơi tốt đẹp hơn.
“Xã hội chúng ta có nghĩa vụ phải đầu tư ngay bây giờ để cải thiện đời sống của tất cả những con người sẽ đi vào thế giới này, không chỉ những người hiện đang có mặt trên thế giới,” họ viết. “Nhưng hiện tại, chúng tôi không gửi chung tài sản của chúng tôi vào những cơ hội và vấn đề lớn nhất mà thế hệ tương lai sẽ đối mặt.”
Cặp vợ chồng nói rằng mục tiêu của họ trong việc góp quỹ sẽ tập trung vào “phát triển tiềm năng con người và thúc đẩy sự bình đẳng.” và sẽ có nhiều đầu tư dài hạn vào các lãnh vực như sức khỏe và giáo dục, đồng thời hoạt động để giảm bớt tình trạng bất bình đẳng và sử dụng công nghệ để đem đến những thay đổi tích cực.
Trước đây, năm 2012, Zuckerberg và Chan đã đồng ý bỏ phần lớn tài sản của họ với mục đích tương tự cho The Giving Pledge, một chiến dịch được thành lập bởi Bill Gates và Warren Buffett năm 2010 khuyến khích những người giàu có nhất trên thế giới sử dụng tiền của họ cho những mục đích bác ái.
Hồi tháng 5, một báo cáo (a report) từ Gizmodo thả một quả bom truyền thông xã hội khi một số nhân viên cũ của Facebook nói rằng công ty theo định kỳ loại bỏ những tin quá cũ trong mục “trending news”.
Người phụ trách mục tin trước đây của Facebook nói rằng thỉnh thoảng họ được chỉ thị chèn các câu chuyện vào trong mục “trending” chưa thu hút đủ sự chú ý để trở thành một chủ đề trending, hoặc là họ có quyền tự do để “cho vào sổ đen” những chủ đề họ không muốn xuất hiện trong mục, có nghĩa là mục đó theo thiết kế ban đầu được quyết định bởi sự quan tâm của người sử dụng Facebook khác, hoàn toàn trái lại với suy nghĩ thông thường.
Mặc dù Facebook từ chối mọi cáo buộc thành kiến và nói rằng họ đã gửi một nhóm điều tra vấn đề, sự việc này vẫn để lại nhiều nghi vấn, và những nghi ngờ.
pope francis
facebook
facebook

[Nguồn: catholicnewsagency]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 30/08/2016]



Đức Hồng y Comastri: “Người bạn của tôi, Mẹ Teresa Calcutta”

Đức Hồng y Comastri: “Người bạn của tôi, Mẹ Teresa Calcutta”


Một phỏng vấn độc quyền với  Đức Hồng y là bạn rất đặc biệt với một thánh nhân

VATICAN INSIDER

Portrait de Mère Teresa.

CIRIC File
VATICAN CITY — Chủ nhật, 4 tháng 9 Mẹ Teresa, người sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, sẽ được phong thánh ở Roma. Mẹ sinh ở Skopje, Albania, ngày 27 tháng 8, 1910 và mất ở Calcutta, Ấn độ, ngày 5 tháng 9, 1997.
Đời sống của Mẹ được đánh dấu bằng sự tận hiến nhiệt thành, kiên nhẫn và kiên trì với người nghèo: nam, nữ và trẻ em là những người được chữa lành, được bảo vệ, được cứu thoát từ sự cùng cực, cô độc, sự nhục nhã, và đưa về một cuộc sống tốt đẹp, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Mẹ Teresa biết rằng bằng nhiều cách bảo vệ, chăm sóc và tận hiến thực sự đã nhóm lên biết bao hơi ấm của sự hiện hữu của Thiên Chúa. Mẹ biết rằng những cách thể hiện tình yêu sẽ chữa lành thế giới, làm nó trở nên một nơi đẹp đẽ và tốt lành hơn, và biến đổi nó thành một căn nhà chào đón tất cả mọi người.
Với lễ tuyên phong thánh Mẹ Teresa cận kề, Vatican Insider phỏng vấn Đức Hồng y Angelo Comastri, Tổng đại diện của Đức Giáo hoàng cho chính quyền Thành phố Vatican, và là linh mục quản hạt của Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô, ngài có một tình bạn rất đặc biệt với Mẹ Teresa và gần đây xuất bản một quyển sách tựa đề “Ho conosciuto una santa” (Tôi đã gặp một vị thánh), do nhà xuất bản Công giáo, San Paolo.
Thưa đức Hồng y, kỷ niệm dễ thương nhất của ngài với Mẹ Teresa là gì?  
“Kỷ niệm cảm động và dễ thương nhất của tôi là lần gặp cuối cùng của chúng tôi ngày 22 tháng 5 năm 1997. Thân mẫu của tôi mất trước đó vài ngày, ngày 5 tháng 5 và tôi phó thác nỗi đau của tôi cho Mẹ. Mẹ nắm lấy đôi bàn tay của tôi trong tay Mẹ và dường như Mẹ truyền sự bình an sang cho tôi, Mẹ nói: ‘Bây giờ mẫu thân của ngài sẽ luôn ở bên ngài vì Thiên đàng không kéo chúng ta ra xa nhau mà đem chúng ta lại gần nhau hơn. Mẹ cũng sẽ sớm lên Thiên đàng và Mẹ sẽ luôn ở gần ngài, cùng với mẫu thân của ngài.’ Những lời này giống như một cái ôm ấm áp giúp tôi vượt qua mọi khó khăn.”
Cầu nguyện chiếm vị trí thế nào trong đời của Mẹ Teresa và điểm đặc biệt của nó là gì?
“Theo thánh ý của Thiên Chúa, Mẹ Teresa được mời đến đọc diễn văn tại Đại Hội đồng Liên hợp quốc. Ông Tổng Thư ký lúc đó là Javier Pérez de Cuéllar, mời Mẹ đến một buổi gặp gỡ chung, diễn ra ngày 26 tháng 10 năm 1985. Ông giới thiệu Mẹ với tất cả cử tọa tại buổi lễ, bằng những lời sau: ‘Chúng ta đang ở trong một thính phòng diễn giả. Trong nhiều năm qua nam giới được xem là có quyền lực nhất trên trái đất để đứng trên bục này. Tôi nghĩ tôi không cần phải giới thiệu Mẹ với quý vị vì Mẹ không cần lời nói. Mẹ Teresa cần những hành động. Tôi chắc chắn rằng điều tốt nhất chúng ta có thể làm là trọng kính Mẹ và nói với Mẹ rằng Mẹ quan trọng hơn tôi và tất cả chúng ta đang có mặt ở đây rất rất nhiều. Chính Mẹ là Liên hợp quốc. Mẹ là hòa bình trên thế giới!” Khi nghe những từ ngữ quá sức lớn lao như vậy, Mẹ Teresa thậm chí trở nên nhỏ bé hơn, nhưng niềm tin của Mẹ thì vĩ đại, cũng như sự can đảm của Mẹ. Mẹ cho mọi người nhìn thấy cỗ Tràng hạt luôn mang bên mình và nói: ‘Tôi chỉ là một nữ tu nghèo cầu nguyện. Qua cầu nguyện, Chúa Giê-su ký thác tình yêu của người trong trái tim của tôi và trao nó cho những người nghèo tôi gặp trên hành trình của tôi.”
Mẹ im lặng một lát rồi nói thêm: ‘Cả quý vị nữa, hãy đi và cầu nguyện! Cầu nguyện thì quý vị sẽ trở nên có ý thức về những người nghèo ở chung quanh. Có thể họ sống ngay trên mảnh đất trong căn nhà của quý vị. Có thể có những người ở nhà cần tình yêu của quý vị. Cầu nguyện thì đôi mắt quý vị sẽ được mở ra và trái tim quý vị sẽ tràn đầy yêu thương.’ Cầu nguyện là nền tảng căn bản của đời sống Mẹ Teresa.”
Đêm hôm 10 tháng 9 năm 1946, Mẹ Teresa đang ở trên xe lửa thì Mẹ nghe thấy “tiếng gọi từ bỏ tất cả và đi theo Chúa Giê-su vào trong các khu ổ chuột, để phục vụ Người ở giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo.” Trong các thập niên sau đó, Mẹ và dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ mở hàng chục hàng chục trung tâm trên toàn thế giới: theo quan điểm của Mẹ, những hình thức nghèo nàn nghiêm trọng nhất trong các xã hội tây phương giàu có là gì?
“Mẹ Teresa thường nhận xét rằng tính ích kỷ là lời nguyền lớn nhất của con người. Và mẹ nói thêm: ‘Tôi thách có ai tìm được một người ích kỷ và có hạnh phúc.’ Tính ích kỷ đang lan rộng trong những xã hội giàu có, và thật đáng buồn khi những xã hội này cũng đang đầy những bất mãn, bất an và bạo lực. Gốc rễ của tính ích kỷ, cũng như mọi tội lỗi làm chúng ta đau khổ, là thiếu vắng sự cầu nguyện. Tận hiến cho người nghèo đặt trên nền tảng cầu nguyện, là phương thuốc duy nhất cho tính ích kỷ và cơ hội để tìm được niềm vui.”
Mẹ Teresa trả lời như thế nào cho người đã cảm thấy chán nản tới mức họ xem như vô ích khi trao tặng những giá trị của một người cho lợi ích của người khác, vì thế giới cũng sẽ chẳng thay đổi được gì?
“Tôi nhớ trên đường từ Oslo trở về sau khi nhận giải Nobel Hòa bình năm 1979, Mẹ Teresa dừng lại ở Roma. Sân trong khuôn viên phía trước căn nhà khiêm tốn của dòng Thừa sai Bác ái ở Monte Celio đầy các nhà báo. Mẹ Teresa không lẩn tránh họ, nhưng chào đón từng người, tặng cho mỗi người một mề-đay nhỏ có ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh Đầy ơn phúc. Một người trong họ nói: ‘Thưa mẹ, mẹ 70 tuổi rồi! Khi mẹ qua đời, thế giới sẽ quay trở lại như trước đây. Vậy có thay đổi được gì đâu sau tất cả những công việc cực nhọc này? Mẹ Teresa à, mẹ nên nghỉ ngơi một chút! Chẳng đáng để đưa ra hết tất cả mọi nỗ lực như vậy! Mẹ cười và trả lời: “Con thấy đấy, Mẹ chả bao giờ nghĩ mẹ thay đổi được thế giới! Mẹ đơn giản chỉ cố là một giọt nước trong sạch có thể phản ánh lại tình yêu của Thiên Chúa. Con có nghĩ đấy là một điều gì đó không?’ Phóng viên không nói thêm được gì và xung quanh Mẹ là im lặng. Mẹ Teresa lại quay sang người phóng viên và nói thêm: “Chính con hãy cố là một giọt nước trong, rồi sẽ có hai giọt của chúng ta. Con có gia đình chưa?’ ‘Có, thưa Mẹ.’ ‘Hãy nói với vợ con cũng cố như vậy, như vậy là chúng ta sẽ có 3 giọt. Con có đứa con nào chưa?’ ‘Con có 3 đứa con, thưa Mẹ.’ ‘Vậy thì bảo các con của con nữa và chúng ta sẽ có 6 giọt.’ Mẹ Teresa nói thật rõ ràng rằng mỗi chúng ta có một khối tình yêu tuy nhỏ nhưng rất quan trọng; với khối tình yêu nhỏ này chúng ta cần phải quan tâm đầu tư. Vì thế chúng ta hãy chèn đầy cái va li mà chúng ta sẽ mang theo sang bên kia cuộc đời: va li lòng bác ái. Mẹ Teresa chẳng bao giờ thấy mệt mỏi phải lặp đi lặp lại: “Hãy làm đầy, khi các con còn nhiều thời gian. Mọi thứ khác chỉ là khói tan biến trong giây lát’.”
Mẹ Teresa nhìn thấy điều gì trong vai trò của nam giới và nữ giới trong chương trình của Thiên Chúa? Và Đức Hồng y nghĩ đóng góp lớn nhất của mẹ trong việc phản ánh vai trò của người phụ nữ là gì?
“Tôi muốn đề cập đến một chương rất đặc biệt: năm 1995, Bắc Kinh chủ tọa Hội nghị Liên hợp quốc lần thứ tư về Tình trạng của phụ nữ. Có sự tham dự của các thành viên chính phủ của EU cùng với 174 quốc gia khác. Mục đích của hội nghị là tái khẳng định sự bình đẳng nam nữ. Tòa thánh đã giao phó cho Mẹ Teresa để chuyển tải quan điểm. Có lo ngại cho rằng những phản ánh của Mẹ không trùng với số đông đã không làm ngã lòng vị nữ tu bé nhỏ nói lên những suy nghĩ của Mẹ với sự can đảm khiêm hạ. Mẹ đã không sợ nói lên sự thật: Mẹ hoàn toàn là một người xa lạ với chủ nghĩa thuận theo. Thông điệp của Mẹ như sau: ‘Tôi hy vọng rằng Hội nghị này sẽ giúp mọi người hiểu biết, yêu mến, và tôn trọng vị trí đặc biệt của phụ nữ trong chương trình của Thiên Chúa để họ có thể hoàn tất chương trình này trong đời sống của họ. Tôi không hiểu tại sao một số người cứ nói rằng nữ giới và nam giới hoàn toàn giống nhau, và chối bỏ những sự khác biệt rất đẹp giữa nam giới và nữ giới. Tất cả mọi ân sủng của Thiên Chúa đều tốt đẹp, nhưng không phải mọi ân sủng đều giống nhau. Cũng như tôi thường nói với những người bảo tôi rằng họ cũng muốn phục vụ người nghèo như tôi, ‘Điều tôi có thể làm, bạn không thể. Điều bạn có thể làm, tôi không thể. Nhưng cùng với nhau chúng ta có thể làm được những điều tốt đẹp cho Thiên Chúa.’ Sự khác biệt giữa nam và nữ cũng như vậy. Thiên Chúa đã tạo dựng nên mỗi con người chúng ta, từng con người, để làm nên những điều vĩ đại hơn – để yêu và được yêu. Nhưng tại sao Chúa lại dựng nên có người là nam, và người kia lại là nữ? Vì tình yêu của một người nữ là một hình ảnh của tình yêu của Thiên Chúa, và tình yêu của một người nam là một hình ảnh khác của tình yêu của Thiên Chúa. Cả hai đều được tạo dựng nên để yêu, nhưng mỗi người yêu một cách khác nhau. Người nữ và người nam làm hoàn thiện cho nhau, và cùng nhau kết hợp thì sẽ thể hiện tình yêu của Thiên Chúa trọn vẹn hơn nếu chỉ có một người thể hiện. Sức mạnh đặc biệt của tình yêu của một người phụ nữ được nhìn thấy rõ ràng nhất khi chị ta trở thành một người mẹ. Thiên chức làm mẹ là hồng ân của Thiên Chúa ban cho phụ nữ.’ Những lời này đã quá trong sáng rõ ràng và không cần phải bình luận gì thêm.”
Chúng ta có thể học được điều gì từ sự kiên gan bền chí của Mẹ Teresa trong lời cầu nguyện và sự tận hiến cho người nghèo xuyên suốt những năm dài Mẹ đã trải qua trong khoảng thời gian mà người ta biết đến như “sự khủng hoảng đức tin”?
“Tôi tin rằng – đây là ý kiến khiêm nhường của tôi – “sự khủng hoảng đức tin” là một hồng ân của Chúa ban để bảo vệ Mẹ Teresa khỏi cám dỗ của tính tự phụ. Để tôi giải thích. Danh tiếng của Mẹ Teresa còn vượt qua cả Đức Giáo hoàng và Đức Giáo hoàng lúc đó là Gioan Phaolo II! Mẹ Teresa được mọi người tìm đến. Mẹ được trao giải Nobel Hòa bình, đó là một kỳ công duy nhất và hầu như không thể nào có được cho một nữ tu Công giáo. Mẹ được mời đến nói chuyện trước Đại Hội đồng Liên hợp quốc: yếu tố này cũng nằm trên ranh giới ngoài sức tưởng tượng. Tôi có thể nói tiếp. Mẹ có thể dễ dàng rơi vào tính tự phụ và cái bẫy của cảm giác tự mãn. Nhưng Thiên Chúa đã tránh không để điều này xảy ra bằng cách dẫn đưa tâm hồn Mẹ Teresa vào “cuộc khủng hoảng đức tin,” nó là một hình thức của sự nghèo nàn từ gốc rễ, một tình trạng trong đó con người phải trải nghiệm sự xa cách đầy đau khổ với Thiên Chúa và sự nhỏ bé của riêng mình. Mẹ Teresa đã có phản ứng như thế nào? Mẹ phản ứng bằng cách cầu nguyện nhiều hơn và tăng cường các hoạt động bác ái. Mẹ chiến đấu với bóng tối bằng sự cầu nguyện và bằng những công việc bác ái để Mẹ có thể tìm thấy mình trong bàn tay của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Đây là sự đáp lời của một vị thánh: vâng lời trung tín với ý định của Thiên Chúa.”

[Nguồn: aleteia]



[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 28/08/2016]



Những kỷ niệm và những tấm ảnh: Một cái nhìn về những khoảnh khắc với Mẹ Teresa Calcutta

Những kỷ niệm và những tấm ảnh: Một cái nhìn về những khoảnh khắc với Mẹ Teresa Calcutta

Những tấm ảnh và suy tư từ nhiếp ảnh gia đã theo chân vị thánh suốt 15 năm
29 tháng 9, 2016
mother teresa
Nhiếp ảnh gia chân dung Michael Collopy đã làm việc với những nhân vật nổi tiếng, nhưng khi ông hồi tưởng lại công việc chụp ảnh Mẹ Teresa, ông nói, “Tôi chưa bao giờ gặp bất kỳ một ai có thể so sánh về chiều sâu tâm hồn của nhân vật và tình yêu vị tha như Mẹ đã thể hiện trong suốt chặng đường 15 năm của tôi biết Mẹ.”
Một bức ảnh trong bộ ảnh chụp của Michael Collopy trong quyển Những công việc của tình yêu là Những công việc của hòa bình (Works of Love Are Works of Peace) đã được chọn là ảnh thánh chính thức của Mẹ Teresa. Bức ảnh sẽ được tiết lộ vào ngày lễ phong thánh Chủ nhật này, sau đó tấm ảnh sẽ được đặt trong các nhà của dòng Thừa sai Bác ái trên khắp thế giới.
Một bức ảnh khác trong bộ ảnh của Collopy từ quyển Những công việc của tình yêu là Những công việc của hòa bình làm tem thư Thánh Teresa chính thức của Vatican, cũng như cho trang bìa của tạp chí Time gần đây.
Những công việc của tình yêu là Những công việc của hòa bình hiện đang có bán dưới hình thức sách. Đã phải mất trên 4 năm xây dựng và xuất bản với sự cộng tác của Mẹ Teresa. Quyển sách dày 224 trang khổ lớn cung cấp ảnh tài liệu toàn diện nhất về hoạt động tông đồ và đời sống cầu nguyện do dòng Thừa sai Bác ái xuất bản. Mục tiêu phục vụ như một tài liệu lịch sử quan trọng, “Quyển sách cầu nguyện minh họa bằng ảnh” này thể hiện sống động sự bình an và niềm vui sẽ đến khi “những việc nhỏ” được làm bằng một tình yêu vĩ đại.
Quyển sách có trên 180 ảnh chất lượng cao, cùng với sự cố vấn tinh thần của Mẹ Teresa. Với sự cho phép đặc biệt của Mẹ Teresa, là những nội dung sách kinh nguyện hàng ngày của dòng Thừa sai Bác ái, và một thư riêng về đời sống tâm linh được Mẹ Teresa viết gửi toàn thể dòng. Mặc dù ngụ ý ban đầu là một hướng dẫn cho những nam nữ tu sĩ trong dòng, nhưng lá thư “Ta Khát” này đã trở thành một nguồn ánh sáng tinh thần và sự động viên, đã dẫn đưa biết bao trái tim và linh hồn gần lại Chúa hơn.
Zenit yêu cầu Collopy chia sẻ vài hình ảnh của ông với chúng ta, cũng như những suy tư về thời gian của ông với Mẹ Teresa.
mother teresa
“Mẹ có trí tuệ rất khác và vô cùng đặc biệt, và một sức hút rất riêng. Mẹ thực sự là người mẹ của tất cả chúng ta, tràn đầy tình thương vị tha và vô điều kiện.”
mother teresa
“Mẹ rất vui và thông thái và có óc dí dỏm nhanh nhạy và óc hài hước. Mẹ cũng rất bình thường như bao người với những sở thích như sô-cô-la, kem và kẹo. Mẹ rất thường xuyên được hỏi là nên thánh như thế nào và Mẹ luôn trả lời rằng Nên thánh không phải là một điều xa xỉ cho vài người nhưng là một bổn phận đơn giản cho mọi người chúng ta. Đó là lý do chúng ta được tạo dựng nên: để yêu và được yêu và chia sẻ niềm vui yêu thương với mỗi người chúng ta có liên hệ.”
mother teresa
“Một ngày kia tôi được người ta đưa về chứng tá của hàng chục ngàn cảm xúc của những người đến với Mẹ. Một số muốn một lời chúc lành hay một điều gì đó từ Mẹ, hay trút hết những điều thầm kín giống như xưng tội với Mẹ. Khi tôi quay trở lại xe, tôi hỏi Mẹ: “Mẹ, có vẻ Mẹ chẳng xét đoán ai? Mẹ ngay lập tức bảo tôi: ‘Mẹ chẳng bao giờ xét đoán ai, vì nó không cho phép Mẹ có thời gian để yêu họ.’
Mẹ dường như chẳng bao giờ mệt mỏi hay thấy bị ngán với những cảnh nghèo nàn trên thế giới. Mẹ thường nói: ‘Nếu Mẹ không đưa về một người đầu tiên ở Calcutta, Mẹ đã chẳng thể nào đưa về được 42.000 người.’ Vậy đó, đó là cách Mẹ thực hiện công việc của mẹ, từng người từng người một.”
mother teresa
“Một số trong những khoảnh khắc thú vị của tôi với mẹ là những lúc không có máy ảnh. Có những lúc Mẹ ra dấu cho tôi quỳ ngay bên cạnh Mẹ trong thánh lễ tại nhà nguyện và cho tôi dùng chung quyển sách kinh và sách lễ. Tôi nhớ là tôi lắng nghe rất chăm chú giọng đọc kinh rất sâu lắng và giọng hát cao thánh thót của Mẹ. Thêm nữa, được chứng kiến Mẹ cho đứa con trai lớn nhất của tôi uống sữa bình lúc nó còn bé. Lái xe chở Mẹ đi lòng vòng tới những điểm hẹn của Mẹ và hỏi Mẹ những câu hỏi rất ý nghĩa khi Mẹ ngồi trên ghế trước bênh cạnh tôi. Một số khoảnh khắc riêng tư hơn, chẳng hạn Mẹ cho tôi những linh hướng hay dạy tôi những lời cầu nguyện đơn sơ để giúp tôi vượt qua tốt hơn một số trở ngại trong cuộc sống. Có lẽ bài học lớn nhất tôi học được từ Mẹ là Thiên Chúa yêu thương mỗi con người chúng ta biết bao nhiêu, một cách rất thân thương và âu yếm. Mỗi người chúng ta được tạc nên trong bàn tay của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta rất quý giá với Người.”
mother teresa
“Có một đêm kia Mẹ đi với tôi ra cửa sau một ngày mệt nhoài, trong nhà tập của Mẹ ở San Francisco. Nhà nguyện ở ngay bên trái của cửa trước. Khi chúng tôi đi ra cửa. Mẹ dừng lại, quỳ bái và ngước nhìn lên cây Thập giá Chúa Giê-su bị đóng đinh lớn phía trên và đàng sau bàn thờ có dòng chữ lớn: ‘Ta Khát’ chạy ngay bên cạnh Thập giá. Khi Mẹ ngước nhìn lên Thập giá, Mẹ nói với tôi: ‘Hãy nhìn Người đi, Người thật tinh tuyền và thanh khiết.’ Ngay lúc đó tôi nhìn vào khuôn mặt của Mẹ. Sau đó Mẹ nói: ‘Nhưng đầu Người đang cúi xuống để hôn con, và đôi vòng tay Người đang giang rộng ra để ôm lấy con, và trái tim Người đang rộng mở để đón lấy trái tim của con vào với trái tim của Người. Đó là tình yêu vĩ đại Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta.’”
[Nguồn:  zenit]

[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 30/08/2016]