Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2022

HỌP CẦU NGUYỆN CHO HÒA BÌNH “Tiếng kêu của hòa bình. Đối thoại của các tôn giáo và văn hóa”

HỌP CẦU NGUYỆN CHO HÒA BÌNH
“Tiếng kêu của hòa bình. Đối thoại của các tôn giáo và văn hóa”

Đức Thánh cha: “Hòa bình là trung tâm của các Tôn giáo, trong Kinh Thánh và trong các thông điệp của Kinh Thánh”

HỌP CẦU NGUYỆN CHO HÒA BÌNH “Tiếng kêu của hòa bình. Đối thoại của các tôn giáo và văn hóa”

Vatican Media

*******
Kêu gọi hòa bình

Chiều nay, tại Hý trường Colosseum, cuộc họp mặt quốc tế do Cộng đoàn Sant’Egidio thúc đẩy trong “Tinh thần Assisi” với chủ đề “Tiếng kêu của hòa bình. Đối thoại Tôn giáo và Văn hóa”, diễn ra từ 23 đến 25/10.

Lúc 4:30 chiều Đức Thánh Cha Phanxicô chủ trì buổi cầu nguyện với các Kitô hữu cùng với đại diện của các tôn giáo khác. Cuối cùng, Đức Thánh Cha cùng với những vị đại diện lên sân khấu nơi diễn ra Cuộc Họp mặt quốc tế và bắt đầu nghi thức, Lời kêu gọi Hòa bình được đọc lên ở cuối nghi thức.

_____________________________________

Diễn từ của Đức Thánh Cha

Thưa quý vị lãnh đạo các Giáo hội Kitô giáo và các Tôn giáo của Thế giới,

Thưa các nhà chức trách dân sự,

Anh chị em thân mến,

Tôi xin cảm ơn tất cả quý vị đã tham dự buổi họp cầu nguyện cho hòa bình này. Theo cách đặc biệt, tôi xin cảm ơn các nhà lãnh đạo Kitô giáo và những nhà lãnh đạo thuộc các tôn giáo khác cùng tham dự với chúng tôi trong tinh thần huynh đệ, một tinh thần đã truyền cảm hứng cho cuộc hiệu triệu lịch sử đầu tiên của Thánh Gioan Phaolô II ở Assisi, 36 năm về trước.

Năm nay lời cầu nguyện của chúng ta trở thành một lời khẩn cầu tha thiết, bởi vì ngày nay hòa bình đã bị xâm phạm nghiêm trọng, bị tấn công và bị chà đạp, và điều này là ở Châu Âu, trên chính lục địa mà trong thế kỷ trước đã phải gánh chịu nỗi kinh hoàng của hai cuộc chiến tranh thế giới. Thật đáng buồn, kể từ đó chiến tranh vẫn tiếp tục gây ra đổ máu và làm kiệt quệ trái đất. Tuy nhiên, tình hình mà chúng ta đang trải qua hiện nay vô cùng nghiêm trọng. Đó là lý do tại sao chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, Đấng luôn nghe thấy lời khẩn cầu sầu khổ của con cái của Ngài.

Hòa bình là trung tâm của các tôn giáo, các sách thiêng liêng và giáo huấn của tôn giáo. Tối nay, trong sự thinh lặng cầu nguyện, chúng ta đã nghe thấy lời khẩn xin hòa bình đó: một nền hòa bình bị tiêu diệt ở rất nhiều khu vực trên thế giới, bị vi phạm bởi quá nhiều hành vi bạo lực, và bị từ chối ngay cả đối với trẻ em và người già cũng không được tha cho những khổ đau cay đắng của chiến tranh. Lời khẩn xin hòa bình đó thường bị bóp nghẹt, không chỉ bởi những luận điệu căm thù mà còn bởi sự thờ ơ. Nó biến thành sự im lặng bởi lòng thù ghét đang lan rộng khi cuộc chiến vẫn tiếp tục.

Tuy nhiên, lời khẩn cầu hòa bình không thể bị dập tắt: nó trỗi dậy từ con tim của những người mẹ; nó khắc sâu trên khuôn mặt của những người tị nạn, những gia đình phải di tản, những người bị thương và những người đang chết. Và lời khẩn cầu thầm lặng này bay lên tận trời cao. Nó không có công thức ma thuật nào để chấm dứt xung đột, nhưng nó có quyền thiêng liêng để cầu xin hòa bình nhân danh tất cả những người đau khổ, và nó xứng đáng được lắng nghe. Nó hiệu triệu tất cả mọi người dành thời gian và lắng nghe cách nghiêm túc và đầy lòng tôn trọng, bắt đầu từ các nhà lãnh đạo chính phủ. Lời khẩn xin hòa bình đó thể hiện nỗi đau đớn và kinh hoàng của chiến tranh, là mẹ đẻ của mọi sự nghèo khổ.

“Mỗi cuộc chiến đều làm cho thế giới của chúng ta trở nên tồi tệ hơn trước. Chiến tranh là một sự thất bại của chính trị và của con người, một sự nhượng bộ đáng xấu hổ, một thất bại đau đớn trước các thế lực của sự dữ” (Tông huấn Fratelli Tutti, 261). Những nhận thức này là kết quả của các bài học đau đớn của thế kỷ XX, và đáng buồn thay, một lần nữa là của đầu của thế kỷ XXI. Trên thực tế, ngày nay một điều mà chúng ta khiếp sợ và hy vọng không bao giờ nghe thấy hiện đang bị đe dọa: việc sử dụng vũ khí nguyên tử, những thứ mà ngay cả sau Hiroshima và Nagasaki vẫn tiếp tục được sản xuất và thử nghiệm cách sai lầm.

Trong viễn cảnh ảm đạm này, đáng buồn phải nói rằng kế hoạch của các nhà lãnh đạo quyền lực trên thế giới lại không xét đến nguyện vọng chính đáng của các dân tộc, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa cho chúng ta không bao giờ thay đổi, đó là “kế hoạch hòa bình chứ không phải tai ương” (x. Gr 29:11). Ở đây tiếng nói của người không có tiếng nói được nghe thấy; ở đây niềm hy vọng của người nghèo và người cô thế được thiết lập vững chắc: trong Thiên Chúa, Đấng mà danh Người là Hòa bình. Hòa bình là món quà của Thiên Chúa, và chúng ta khẩn cầu món quà đó từ Ngài. Tuy nhiên, hòa bình phải được đón nhận và nuôi dưỡng bởi con người, đặc biệt là bởi những người có niềm tin như chúng ta. Chúng ta đừng để mình bị lây nhiễm bởi luận điệu ương ngạnh của chiến tranh; chúng ta đừng rơi vào cạm bẫy của lòng căm hận kẻ thù. Một lần nữa, chúng ta hãy đặt hòa bình vào trọng tâm của tầm nhìn cho tương lai, làm mục tiêu chính cho các hoạt động cá nhân, xã hội và chính trị ở mọi cấp độ. Chúng ta hãy xoa dịu những cuộc xung đột bằng vũ khí đối thoại.

Vào tháng Mười năm 1962, giữa cuộc khủng hoảng quốc tế nghiêm trọng, khi sự đối đầu quân sự và thảm họa hạt nhân dường như sắp xảy ra, Thánh Gioan XXIII đã đưa ra lời kêu gọi này: “Chúng tôi cầu xin tất cả các nhà lãnh đạo chính phủ không bịt tai trước tiếng kêu này của nhân loại. Hãy để họ làm mọi việc trong khả năng của họ để bảo vệ hòa bình. Từ đó, họ sẽ giải thoát cho thế giới thoát khỏi sự kinh hoàng của một cuộc chiến tranh, những hậu quả khủng khiếp không thể lường trước được… Thúc đẩy, nuôi dưỡng và chấp nhận đối thoại ở mọi cấp độ và trong mọi thời đại là nguyên tắc của sự khôn ngoan và cẩn trọng, thu hút phúc lành của trời đất” (Thông điệp Radio, ngày 25 tháng Mười năm 1962).

Sáu mươi năm sau, những lời này vẫn khắc ghi trong chúng ta bởi tính hợp thời của nó. Tôi lấy những lời đó làm của riêng mình. Chúng ta không “trung lập, nhưng liên minh vì hòa bình”, và vì lý do đó “chúng ta kêu gọi ius pacis là quyền của tất cả mọi người để giải quyết những xung đột theo cách phi bạo lực” (Gặp gỡ Sinh viên và Đại diện của Thế giới Học thuật, Bologna, ngày 1 tháng Mười năm 2017).

Trong những năm gần đây, mối quan hệ huynh đệ giữa các tôn giáo đã có những bước tiến mang tính quyết định: “Tôn giáo giúp các dân tộc trở thành anh chị em chung sống trong hòa bình” (Họp mặt các tôn giáo vì hòa bình, ngày 7 tháng Mười năm 2021). Càng ngày chúng ta càng cảm nhận rằng chúng ta đều là anh chị em của nhau! Một năm trước khi tập trung tại đây trước Hý trường Colosseum, chúng ta đã đưa ra lời kêu gọi vô cùng phù hợp cho ngày nay: “Không được sử dụng các tôn giáo cho chiến tranh. Chỉ có hòa bình là thiêng liêng và không ai được sử dụng danh Thiên Chúa để chúc phúc cho khủng bố và bạo lực. Nếu bạn nhìn thấy chiến xung quanh mình, đừng bỏ cuộc! Các dân tộc mong muốn hòa bình ”(sđd).

Đây là những gì chúng ta cố gắng làm tốt hơn mỗi ngày. Chúng ta đừng bao giờ đầu hàng chiến tranh; chúng ta hãy gieo những hạt giống hòa giải. Hôm nay, chúng ta hãy dâng lên trời cao lời khẩn cầu hòa bình của chúng ta, một lần nữa theo lời của Thánh Gioan XXIII: “Xin cho tất cả các dân tộc đến với nhau như anh chị em, và xin cho nền hòa bình mà họ khao khát sẽ luôn hưng thịnh và ngự trị ở giữa họ” (Pacem in Terris, 171). Xin được như vậy, với ân sủng của Thiên Chúa và thiện chí của những người Chúa thương.”


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/10/2022]


Theo những bước chân của Thánh Gioan Tẩy Giả ở Đất Thánh Jordan

Theo những bước chân của Thánh Gioan Tẩy Giả ở Đất Thánh Jordan

Theo những bước chân của Thánh Gioan Tẩy Giả ở Đất Thánh Jordan

Shutterstock | Damira

Daniel Esparza

18/10/22

Đi theo đường mòn Jordan, người ta tìm thấy khu vực nơi Thánh Gioan Tẩy Giả sống, rao giảng và bị chặt đầu.

Đường mòn Jordan là một lối mòn đi bộ đường trường dài 700 km xuyên qua Jordan từ bắc xuống nam. Đây là một đường bộ hành hương đường trường, có trụ sở tại Đất Thánh chứa đầy những điểm tham khảo và phiêu lưu trong Kinh thánh. Nó được chia thành tám khu vực có thể đi trong khoảng 40 ngày.

Trong khi đi đến vùng thứ hai, từ Aljoun đến As-Salt, người ta tìm thấy di tích thành cổ Mkawir kiên cố, nằm ở phía đông Biển Chết, cách cửa sông Jordan khoảng 16 dặm về phía đông nam, và không quá xa Al-Maghtas, nơi được chính thức biết đến là Bethany Beyond the Jordan, địa điểm chịu phép rửa của Chúa Giêsu, khu vực Thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng và thực hiện thừa tác vụ.

Theo những bước chân của Thánh Gioan Tẩy Giả ở Đất Thánh Jordan

Từ trên đỉnh đồi, người ta có thể nhìn thấy nhiều hang động nhỏ mà các ẩn sĩ, và các tu sĩ đã tạc vào đá sa thạch để sống cuộc đời cầu nguyện ở gần nơi Thánh Gioan Tẩy giả bị chặt đầu.

Mối quan hệ của thành Mkawir (tiếng Hy Lạp là Maxairous; tiếng Latinh là Machaerus) với địa điểm rửa tội của Chúa Giêsu có thể không rõ ràng đối với những người chưa biết nơi này. Ít nhất từ thời kỳ Byzantine thì Bethany Beyond the Jordan được tôn kính là vị trí nguyên thủy nơi Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Chúa Giêsu.

Những lời chứng thực của Thánh Theodosius the Cenobiarch (một tu sĩ, tu viện trưởng và một vị thánh thời kỳ đầu) đã chứng minh lại những gì mà Tòa Thượng Phụ Latinh và UNESCO nhất trí tuyên bố: rằng Bethany Beyond the Jordan là nơi Thánh Gioan Tẩy Giả rửa tội cho Chúa Giêsu Kitô. Văn bản của Thánh Theodosius viết rằng:

Cách Biển Chết 5 dặm về phía bắc, nơi Chúa chịu phép rửa có một cây cột đơn và trên cột có gắn một cây thánh giá bằng sắt, có cả nhà thờ Thánh Gioan Tẩy Giả mà Hoàng đế Anastasius đã xây dựng.

Cây cột vẫn chưa được phát hiện, nhưng tất cả những di tích khảo cổ và kiến trúc được tìm thấy ở Al-Maghtas đều trùng khớp với miêu tả của Thánh Theodosius. Ngoài ra, Tin mừng của Thánh Gioan giải thích thừa tác vụ của Thánh Gioan Tẩy Giả diễn ra ở “bên kia sông Giođan” – nghĩa là ở Bêtania bên kia sông Giođan. Văn bản viết:

“Ông Gio-an trả lời: ‘Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.’ Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gioan làm phép rửa. (Ga 1:26-28)

Nhưng nếu Al-Maghtas là khu vực Thánh Gioan Tẩy Giả, người anh họ của Chúa Giêsu, sống và làm thừa tác vụ, thì Mkawir là nơi ông bị chặt đầu.

Chỉ còn lại một vài cột đá cẩm thạch và những bức tường đá từ nơi từng là cung điện của Hêrôđê Antipas, nhưng từ trên đỉnh đồi, người ta có thể nhìn thấy nhiều hang động nhỏ nơi các ẩn sĩ, và các tu sĩ tạc vào đá sa thạch để sống cuộc đời cầu nguyện trong khu vực gần với nơi mà theo nhà sử học Flavius Josephus thuộc thế kỷ I, là nơi Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị chặt đầu.

Theo những bước chân của Thánh Gioan Tẩy Giả ở Đất Thánh Jordan

Chỉ còn lại một vài cột đá cẩm thạch và tường đá từ nơi từng là cung điện của Hêrôđê Antipas.

Ngày nay những hang động này được người chăn cừu sử dụng, họ tìm kiếm nơi trú ẩn tránh cái nóng (ban ngày) và cái lạnh (trong những đêm dài đầy sao) của sa mạc phía nam Jordan. Sự tĩnh lặng tuyệt đối ở đây thỉnh thoảng chỉ bị gián đoạn bởi một tiếng chuông gọi dê. Một số người nói rằng chính Thánh Gioan Tẩy Giả có thể đã bị giam giữ tại một trong những hang động này.

Theo các Tin mừng của Thánh Máccô (6:24) và Thánh Matthêu (14: 8), việc chém đầu Thánh Gioan Tẩy Giả diễn ra vào năm 32 sau Công nguyên, sau khi Gioan đã bị giam giữ ít nhất hai năm trong pháo đài này.

Năm ngoái, một nhóm các nhà khảo cổ làm việc tại Mkawir có thể đã phát hiện ra sàn nhảy nơi Salome trình bày điệu múa bỉ ổi của cô ta. Nếu đúng thì địa điểm này cũng là nơi Thánh Gioan Tẩy Giả không chỉ bị chặt đầu mà còn bị kết án tử hình.

Theo những bước chân của Thánh Gioan Tẩy Giả ở Đất Thánh Jordan

Các hang động được tìm thấy khắp khu vực xung quanh Machaerus. Người ta tin rằng Thánh Gioan Tẩy Giả đã bị giam giữ tại một trong số các hang này.

Các câu truyện trong Kinh thánh giải thích rằng Vua Hêrôđê Antipas sẽ kết hôn với Herodias, nhưng hai người trước đó đã kết hôn với những người khác. Gioan Tẩy Giả đã khiến nhà vua không hài lòng sau khi ông công khai chỉ trích cuộc hôn nhân của họ, lên án việc kết hôn là tội lỗi. Trong khi Hêrôđê không muốn xử tử Gioan Tẩy Giả, vì e sợ cuộc nổi dậy của những người coi Gioan như một nhà tiên tri, ông ta đã bỏ tù Gioan.

Tuy nhiên, nhà vua nhanh chóng bị Herodias thao túng để hành quyết tù nhân, thông qua con gái của bà là Salome. Như các sách Phúc âm kể lại, Salome đã nhảy múa quá đẹp trước nhà vua đến nỗi ông hứa cho bất cứ điều gì cô ta yêu cầu. Theo gợi ý của mẹ, Salome xin đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên một cái đĩa. Và yêu cầu đã được chấp nhận.

Một đại sảnh được phát hiện ở Machaerus có thể là nơi Salome đã nhảy múa. Giám đốc cuộc khai quật, ông Győző Vörös, đồng thời là Giám đốc Dự án của Bộ Cổ vật Jordan, lưu ý rằng sàn nhảy, được phát hiện lần đầu vào năm 1980, có một ngách nhỏ ở bên hông. ông Vörös cho rằng ngách này tại một điểm có đủ không gian cho một ngai vàng. Hêrôđê hẳn đã ngồi vào chỗ đó khi xem Salome khiêu vũ.

Để tìm hiểu thêm về các địa điểm trong Kinh thánh ở Jordan, cũng như các khu vực và hướng dẫn hành hương khác nhau mà đất nước này cung cấp, hãy truy cập website Holy Jordan. Để biết các ưu đãi du lịch cụ thể, các chương trình khuyến mãi và các gói hành hương có sẵn, truy cập website Holy Jordan Travel Deals.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 29/10/2022]