Thứ Năm, 9 tháng 2, 2023

Tiếp kiến chung của ĐTC về chuyển tông du đến Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan

Đức Thánh Cha nói về Châu Phi: “Đừng bùng nổ mà hãy cùng tiến lên”

Bài giáo lý trong buổi tiếp kiến chung về chuyến đi gần đây của ĐTC đến Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan

Tiếp kiến chung của ĐTC về chuyển tông du đến Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan

Vatican Media


*******

Buổi tiếp kiến sáng nay được tổ chức lúc 9:00 sáng tại Khán phòng Phaolô VI, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các nhóm khách hành hương và tín hữu đến từ nước Ý và khắp nơi trên thế giới.

Trong huấn từ bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha tập trung suy niệm về Chuyến tông du gần đây của ngài đến Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan.

Sau phần tóm lược bài giáo lý của Ngài bằng một số ngôn ngữ khác nhau, Đức Thánh Cha đã ngỏ lời chào đặc biệt đến các tín hữu hiện diện. Sau đó, ngài đưa ra lời kêu gọi ủng hộ người dân Thổ Nhĩ Kỳ và Syria bị ảnh hưởng bởi trận động đất kinh hoàng khiến hàng nghìn người chết và bị thương.

Buổi Tiếp kiến chung kết thúc với Kinh Lạy Cha và Phép lành Tòa Thánh.

________________________________________________


Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Tuần trước cha đã đến thăm hai quốc gia châu Phi: Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan. Cha cảm tạ Chúa đã cho phép cha thực hiện cuộc hành trình mà cha đã mong ước từ lai. Hai “ước mơ”: đến thăm người dân Congo, những người trông coi một đất nước bao la, trái tim xanh của Châu Phi: cùng với vùng Amazonia, đó là hai lá phổi của thế giới. Một vùng đất giàu tài nguyên và thấm đẫm máu bởi cuộc chiến tranh chưa bao giờ kết thúc, bởi vì luôn có người nào đó thổi bùng ngọn lửa. Và đến thăm người dân Nam Sudan, trong chuyến hành hương vì hòa bình cùng với Đức Tổng Giám mục Justin Welby của Canterbury, và Vị Tổng Điều hành Giáo hội Scotland, Mục sư Iain Greenshields: chúng tôi đã cùng nhau làm chứng rằng điều đó là có thể, và một nghĩa vụ, để cộng tác trong sự đa dạng, đặc biệt nếu có cùng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô.

Ba ngày đầu tiên cha ở Kinshasa, thủ đô của Cộng hòa Dân chủ Congo. Cha bày tỏ lòng biết ơn tới ngài Tổng thống và các nhà lãnh đạo khác của đất nước vì sự đón tiếp mà họ dành cho cha. Ngay sau khi cha đến, tại Dinh Tổng thống, cha đã có cơ hội gửi một thông điệp tới quốc gia: Congo giống như một viên kim cương, vì bản chất, tài nguyên của nó, và đặc biệt là vì người dân của nó; nhưng viên kim cương này đã trở thành nguồn gốc của sự tranh chấp, bạo lực và thật nghịch lý là sự bần cùng hóa người dân. Đó là một động lực cũng được tìm thấy ở các khu vực khác của Châu Phi, và nói chung cho toàn lục địa này: một lục địa đã bị chiếm làm thuộc địa, bị bóc lột, cướp phá. Đứng trước tất cả những điều này, cha đã nói lên hai từ. Từ thứ nhất mang tính tiêu cực: “Đủ rồi!” Hãy ngừng bóc lột Châu Phi! Cha đã nói nhiều lần rằng trong vô thức tập thể có cái suy nghĩ, “Châu Phi là để bóc lột”: Đủ rồi! Cha đã nói câu đó. Từ thứ hai mang tính tích cực: cùng nhau, cùng nhau với phẩm giá, tất cả cùng nhau, và với sự tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau nhân danh Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, để tiến tới. Đừng bóc lột, hãy cùng nhau tiến lên.

Và nhân danh Chúa Kitô, chúng tôi quy tụ để cử hành Thánh lễ. Vẫn ở Kinshasa, nhiều cuộc gặp gỡ khác nhau đã diễn ra sau đó: với các nạn nhân của bạo lực ở miền đông đất nước, khu vực đã nhiều năm bị chia xâu xé bởi chiến tranh giữa các nhóm vũ trang bị điều khiển bởi những lợi ích kinh tế và chính trị. Cha không thể đến Goma. Người dân sống trong sợ hãi và bất an, bị hy sinh trên bàn thờ của những thỏa thuận phi pháp. Cha đã nghe được lời chứng thật kinh hoàng của một số nạn nhân, đặc biệt là phụ nữ, họ đã đặt vũ khí và các dụng cụ giết người khác dưới chân thập tự giá. Cùng với họ, cha nói “không” với bạo lực, “không” với cam chịu, “có” với hòa giải và hy vọng. Họ đã đau khổ rất nhiều, và tiếp tục chịu đau khổ.

Sau đó cha đã gặp đại diện của một số tổ chức từ thiện hiện diện trong nước để cảm ơn và động viên họ. Công việc của họ với người nghèo và vì người nghèo không tạo ra sự ồn ào, nhưng ngày qua ngày làm cho ích chung lớn lên. Các sáng kiến từ thiện phải luôn được đặt lên hàng đầu và trước hết vì sự phát triển, không chỉ vì viện trợ mà vì sự phát triển. Viện trợ có, nhưng để phát triển.

Đã có khoảng thời gian rất thú vị với giới trẻ và các giáo lý viên Congo tại sân vận động. Nó giống như một sự đắm mình trong hiện tại, hướng tới tương lai. Suy nghĩ đến sức mạnh của sự đổi mới có thể dẫn dắt thế hệ Kitô hữu trẻ, được đào tạo và được truyền cảm hứng bởi niềm vui của Tin Mừng! Cha đã chỉ ra năm con đường cho họ, cho giới trẻ: cầu nguyện, cộng đồng, lương thiện, tha thứ và phục vụ. Với các bạn trẻ Congo, cha đã nói: con đường của các bạn là thế này: cầu nguyện, đời sống cộng đồng, lương thiện, tha thứ và phục vụ. Xin Chúa nghe thấy tiếng kêu cầu công lý của họ.

Sau đó, tại Nhà thờ Chính tòa Kinshasa, cha đã gặp gỡ các linh mục, phó tế, các tu sĩ nam nữ, và chủng sinh. Họ thì rất đông, và họ còn trẻ, bởi vì có rất nhiều ơn gọi: đó là một ân sủng của Thiên Chúa. Cha thúc giục họ hãy trở thành những người phục vụ người dân như những chứng nhân cho tình yêu của Chúa Kitô, vượt qua ba cám dỗ: sự tầm thường về thiêng liêng, sự thoải mái của thế gian và tính hời hợt. Cha muốn nói rằng đó là những cám dỗ phổ biến đối với các chủng sinh và linh mục. Chắc chắn, sự tầm thường về thiêng liêng, khi một linh mục chịu khuất phục trước tính tầm thường thì thật đáng buồn: sự thoải mái của thế gian, tức là tính thế tục, là một trong những sự dữ tồi tệ nhất có thể giáng xuống Giáo hội; và tính hời hợt. Cuối cùng, với các giám mục Congo, cha đã chia sẻ những niềm vui và khó khăn trong công việc mục vụ. Cha mời gọi họ hãy để cho mình được an ủi bởi sự gần gũi của Thiên Chúa, và trở nên những ngôn sứ cho dân chúng, với sức mạnh của Lời Chúa, trở thành dấu chỉ cho thấy Chúa là Đấng như thế nào, cho thấy thái độ của Chúa đối với chúng ta: lòng trắc ẩn, gần gũi, dịu dàng. Đó là ba cách… cách mà Chúa ở với chúng ta: Người đến gần chúng ta – sự gần gũi – với lòng trắc ẩn và sự dịu dàng. Cha đã yêu cầu điều này đối với các linh mục và giám mục.

Sau đó, chặng thứ hai của cuộc hành trình diễn ra tại Juba, thủ đô của Nam Sudan, một nhà nước được khai sinh vào năm 2011. Cuộc viếng thăm này mang một nét rất đặc biệt, được thể hiện qua phương châm làm vang vọng lời của Chúa Giêsu: “Ta cầu nguyện để tất cả nên một” (x. Ga 17:21). Thật vậy, đó là một cuộc hành hương đại kết vì hòa bình, được thực hiện cùng với các nhà lãnh đạo của hai Giáo hội có mặt trong lịch sử ở vùng đất đó: Liên hiệp Giáo hội Anh và Giáo hội Scotland. Đó là đỉnh điểm của một hành trình được thực hiện cách đây vài năm, khi chúng tôi tập trung ở Roma năm 2019, với các nhà lãnh đạo Nam Sudan, để thực hiện cam kết vượt qua xung đột và xây dựng hòa bình. Vào năm 2019, đã có một cuộc tĩnh tâm ở đây, trong Giáo triều, với tất cả những chính trị gia này, với tất cả những người này đang khao khát các vị trí, một số người trong đó là kẻ thù, nhưng tất cả họ đều tham gia cuộc tĩnh tâm. Và điều này đã cho sức mạnh để tiến về phía trước. Thật đáng buồn, tiến trình hòa giải đã không tiến triển nhiều, và Nam Sudan non trẻ là nạn nhân của luận lý xưa cũ về quyền lực và sự kình địch, tạo ra chiến tranh, bạo lực, người tị nạn và những người di tản trong nước. Tôi rất biết ơn ngài Tổng thống vì sự chào đón mà ông đã dành cho tôi và về cách ông đang cố gắng quản lý con đường không hề dễ dàng này, nói “không” với tham nhũng và buôn bán vũ khí, và nói “có” với gặp gỡ và đối thoại. Và thật đáng xấu hổ: nhiều quốc gia được gọi là “văn minh” cung cấp viện trợ cho Nam Sudan, và những viện trợ này bao gồm vũ khí, vũ khí, vũ khí để kích động chiến tranh. Điều này thật đáng xấu hổ. Và thúc đẩy nói “không” với tham nhũng và buôn bán vũ khí, và nói “có” với gặp gỡ và đối thoại. Chỉ theo con đường này mới có phát triển, người dân mới có thể lao động trong hòa bình, người bệnh mới được chữa khỏi, và trẻ em mới được đến trường.

Bản chất đại kết của chuyến viếng thăm Nam Sudan được thể hiện đặc biệt trong buổi gặp gỡ cầu nguyện được tổ chức cùng với những người anh em Anh giáo của chúng ta và những người thuộc Giáo hội Scotland. Chúng tôi đã cùng nhau lắng nghe Lời Chúa, cùng nhau dâng lên những lời kinh chúc tụng, nài xin và chuyển cầu. Trong một thực tại đầy xung đột như ở Nam Sudan, tín hiệu này là nền tảng, và không được coi là đương nhiên, bởi vì thật đáng buồn là có những người lạm dụng danh Chúa để biện minh cho bạo lực và áp bức.

Thưa anh chị em, Nam Sudan là một quốc gia có khoảng 11 triệu dân – nó thật nhỏ bé! – trong số đó, do hậu quả của các cuộc xung đột vũ trang, hai triệu người phải tản cư trong nước và cũng như nhiều người đã trốn sang các nước láng giềng. Vì vậy, cha muốn gặp một nhóm đông đảo những người di tản trong nước, để lắng nghe họ và làm cho họ cảm nhận được sự gần gũi của Chúa Kitô. Thật vậy, các Giáo hội và các tổ chức truyền cảm hứng của Kitô giáo đang ở tuyến đầu bên cạnh những người nghèo này, những người đã sống nhiều năm trong các trại IDP. Cha đặc biệt nói đến những phụ nữ – ở đó có những phụ nữ giỏi! – họ là lực lượng có thể biến đổi đất nước, và tôi động viên mọi người hãy là hạt giống của một Nam Sudan mới, không có bạo lực, hòa giải và lập lại hòa bình.

Sau đó, trong cuộc gặp gỡ với các mục tử và những người tận hiến của Giáo hội địa phương, chúng tôi đã nhìn đến ông Môsê như một mẫu mực về sự vâng phục Thiên Chúa và kiên trì trong việc chuyển cầu.

Và trong buổi cử hành Thánh Thể, hoạt động cuối cùng của chuyến viếng thăm Nam Sudan và của toàn bộ hành trình, cha đã làm vang vọng lại Tin Mừng, khuyến khích các Kitô hữu trở thành “muối và ánh sáng” trên vùng đất đầy khó khăn này. Thiên Chúa không đặt niềm hy vọng vào những người vĩ đại và quyền lực, nhưng vào những con người nhỏ bé và khiêm nhường. Và đây là con đường của Chúa.

Tôi xin cảm ơn chính quyền Nam Sudan, Ngài Tổng thống, ban tổ chức chuyến đi và tất cả những người đã đầu tư nỗ lực, công sức của mình để chuyến đi diễn ra tốt đẹp. Tôi cảm ơn những người anh em của tôi, Đức Justin Welby và Mục sư Iain Greenshields, vì đã đồng hành cùng tôi trong cuộc hành trình đại kết này.

Chúng ta hãy cầu nguyện rằng, tại đất nước Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan, cũng như trên toàn châu Phi, những hạt giống của Vương quốc tình yêu, công lý và hòa bình của Chúa có thể nảy mầm. Cảm ơn anh chị em.

______________________________________

Lời chào đặc biệt

Cha xin gửi lời chào thân ái đến anh chị em hành hương nói tiếng Anh tham gia buổi tiếp kiến hôm nay, đặc biệt là những anh chị em đến từ nước Anh và Hoa Kỳ. Cha gửi lời chào đặc biệt đến nhiều nhóm sinh viên hiện diện. Cha khẩn xin niềm vui và sự bình an của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tuôn đổ xuống trên tất cả anh chị em và trên gia đình của anh chị em. Xin Chúa chúc phúc cho anh chị em!

_________________________________________________

LỜI KÊU GỌI

Vào lúc này, cha nghĩ đến các dân tộc Thổ Nhĩ Kỳ và Syria đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi trận động đất khiến hàng ngàn người chết và bị thương. Với niềm xúc động mạnh mẽ, tôi cầu nguyện cho họ và bày tỏ sự gần gũi của tôi với những dân tộc này, với gia đình của các nạn nhân và với tất cả những ai đang phải chịu đựng thảm họa tàn khốc này. Tôi cảm ơn các nhân viên cứu trợ và tôi động viên mọi người thể hiện tình liên đới với những vùng lãnh thổ đó, một số vùng vốn đã bị tàn phá bởi một cuộc chiến tranh kéo dài. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để những anh chị em này của chúng ta có thể tiến lên, vượt qua thảm kịch này, và chúng ta hãy xin Đức Mẹ bảo vệ họ: “Ave Maria…”.



[Nguồn: exaudi]

Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 9/2/2023]

Tông du của ĐTC Phanxicô đến Nam Sudan: có thể “cùng nhau xây dựng một tương lai hòa giải”

ĐTC Phanxicô ở Nam Sudan: có thể “cùng nhau xây dựng một tương lai hòa giải”

Bài giảng Lễ của Đức Thánh Cha ở Nam Sudan

Tông du của ĐTC Phanxicô đến Nam Sudan: có thể “cùng nhau xây dựng một tương lai hòa giải”

© Vatican Media


*******

Sáng nay, sau khi chào tạm biệt các nhân viên và ân nhân của Tòa Khâm sứ tại thủ đô Juba, Đức Thánh Cha Phanxicô đi xe hơi đến Lăng “John Garang” để cử hành Thánh lễ.

Khi đến nơi, sau khi đổi sang xe giáo hoàng, xe đưa Đức Thánh Cha chạy vài vòng giữa các tín hữu cùng với Đức ông Stephen Ameyu Martin Mulla, Tổng Giám mục Juba. Và, lúc 8:30 sáng giờ địa phương (7:30 sáng giờ Roma) ngài chủ tế Thánh Lễ bằng tiếng Anh, Chúa Nhật V Thường Niên.

Trong Thánh Lễ, sau phần công bố Tin Mừng, Đức Thánh Cha giảng lễ.

Cuối cùng, sau phát biểu bày tỏ lòng kính trọng của Đức Tổng Giám mục Juba và trước phép lành cuối lễ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ngỏ lời chào cuối và cảm ơn hơn 100.000 tín hữu và khách hành hương có mặt tại Lăng tham dự Thánh lễ.

Sau đó, Đức Thánh Cha di chuyển bằng hơi đến Sân bay Quốc tế Juba để chia tay Nam Sudan.

Dưới đây là bài giảng và lời chào cuối của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ:

____________________________________________________


Bài giảng của Đức Thánh Cha

Hôm nay tôi muốn lấy những lời mà Thánh Tông đồ Phaolô đã nói với cộng đoàn Côrintô trong bài đọc thứ hai và lặp lại những lời đó trước anh chị em: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá” (1 Cr 2:1-2). Vâng, mối quan tâm của Thánh Phaolô cũng là của tôi, khi tôi ở đây với anh chị em nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa của tình yêu, Thiên Chúa đã giành được sự bình an qua thập tự giá của Ngài; Chúa Giêsu, Thiên Chúa chịu đóng đinh vì tất cả chúng ta; Chúa Giêsu chịu đóng đinh nơi những người đau khổ; Chúa Giêsu, bị đóng đinh trong cuộc sống của rất nhiều người trong anh chị em, trong rất nhiều người ở đất nước này; Chúa Giêsu, Thiên Chúa phục sinh, Đấng chiến thắng sự dữ và sự chết. Tôi đến đây để loan báo về Ngài và để củng cố anh chị em trong Chúa, vì sứ điệp của Chúa Kitô là sứ điệp của niềm hy vọng. Chúa Giêsu biết nỗi thống khổ và niềm hy vọng anh chị em mang trong lòng, những niềm vui và những phấn đấu đánh dấu cuộc đời anh chị em, bóng tối đang tấn công anh chị em và niềm tin mà anh chị em dâng lên thiên đàng như một bài ca trong đêm. Chúa Giêsu biết anh chị em và yêu thương anh chị em. Nếu chúng ta ở lại trong Ngài, chúng ta không bao giờ phải sợ hãi, vì đối với chúng ta, mọi thập giá sẽ biến thành phục sinh, mọi nỗi buồn sẽ trở thành hy vọng, và mọi lời than thở sẽ trở thành vũ điệu nhảy mừng.

Vì vậy, tôi muốn suy niệm về những lời sự sống mà Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Chính anh em là muối cho đời … Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5:13-14). Những hình ảnh này nói gì với chúng ta, là những môn đệ của Chúa Kitô?

Trước hết, chúng ta là muối cho đất. Muối được dùng để nêm thức ăn. Nó là thành phần vô hình mang lại hương vị cho mọi thứ. Chính vì lẽ đó mà từ xa xưa, muối đã là biểu tượng của sự khôn ngoan, một đức tính không thể nhìn thấy nhưng làm tăng thêm hương vị cho cuộc sống, mà thiếu nó thì trở nên nhạt nhẽo, vô vị. Nhưng, Chúa Giêsu muốn nói đến sự khôn ngoan nào? Ngài dùng hình ảnh của muối ngay sau khi dạy các môn đệ về Các Mối Phúc. Như vậy, chúng ta thấy rằng các Mối phúc là muối của đời sống người Kitô hữu, vì chúng mang sự khôn ngoan từ trời xuống thế gian. Chúng cách mạng hóa các tiêu chuẩn của thế giới này và cách suy nghĩ thông thường của chúng ta. Và những mối phúc đó nói gì? Tóm lại, các mối phúc nói với chúng ta rằng để được chúc phúc, được hạnh phúc và viên mãn, chúng ta không được nhắm đến sức mạnh, sự giàu có và quyền lực, nhưng phải khiêm nhường, hiền lành, thương xót; không làm điều ác cho ai, nhưng là người kiến tạo hòa bình cho mọi người. Chúa Giêsu nói, đây là sự khôn ngoan của một người môn đệ; nó là thứ mang lại hương vị cho thế giới xung quanh chúng ta. Chúng ta hãy ghi nhớ điều này: nếu chúng ta thực hành các Mối phúc, nếu chúng ta thể hiện sự khôn ngoan của Chúa Kitô, chúng ta sẽ mang lại hương vị không chỉ cho cuộc sống của chúng ta, mà còn cho cuộc sống của xã hội và của đất nước chúng ta đang sống.

Muối không chỉ mang lại hương vị; nó còn có một chức năng khác vô cùng cần thiết vào thời Chúa Kitô: nó bảo quản thức ăn để thức ăn không bị hư hỏng. Kinh Thánh đã nói rằng có một loại “thức ăn”, một sự tốt lành thiết yếu cần được bảo quản hơn tất cả những điều khác, và đó là giao ước với Thiên Chúa. Vì vậy, trong những ngày đó, bất cứ khi nào một của lễ được dâng lên Chúa, người ta sẽ thêm một ít muối vào đó. Chúng ta hãy nghe Kinh thánh nói gì về điều này: “(Các) ngươi không được để lễ phẩm (các) ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa (các) ngươi; (các) ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của (các) ngươi” (Lv 2:13). Do đó, muối được sử dụng như một lời nhắc nhở về sự cần thiết căn bản của chúng ta là phải duy trì mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, bởi vì Ngài trung tín với chúng ta, và giao ước của Ngài với chúng ta là không thể hư mất, bất khả xâm phạm và tồn tại lâu dài (x. Ds 18:19; 2Sb 13:5). Như vậy mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu, như muối của đất, là chứng nhân cho giao ước mà Thiên Chúa đã lập mà chúng ta cử hành trong mỗi Thánh Lễ: một giao ước mới, vĩnh cửu và không thể phá vỡ (x. 1 Cr 11:25; Dt 9), và một tình yêu dành cho chúng ta không thể lay chuyển cho dù chúng ta không trung thành.

Thưa anh chị em, chúng ta là chứng nhân cho điều kỳ diệu này. Vào thời xa xưa, khi con người hoặc các dân tộc thiết lập một hiệp ước hữu nghị với nhau, họ thường niêm phong nó bằng cách trao đổi một ít muối. Là muối của đất, chúng ta được mời gọi để làm chứng cho giao ước với Thiên Chúa bằng niềm vui và lòng biết ơn, và từ đó chứng tỏ rằng chúng ta là những người có khả năng tạo ra các mối dây bằng hữu và đời sống huynh đệ. Những người có khả năng xây dựng các mối tương quan tốt đẹp giữa con người với nhau như là một cách để kiềm chế sự xấu xa của cái ác, căn bệnh chia rẽ, sự bẩn thỉu của những thương vụ kinh doanh phi pháp và căn bệnh dịch của sự bất công.

Hôm nay tôi xin cảm ơn anh chị em, bởi vì anh chị em là muối cho đất ở đất nước này. Tuy nhiên, khi anh chị em nghĩ đến nhiều vết thương của nó, bạo lực làm gia tăng nọc độc hận thù, và sự bất công gây ra nỗi thống khổ và nghèo đói, anh chị em có thể cảm thấy mình nhỏ bé và bất lực. Bất cứ khi nào sự cám dỗ đó tấn công, anh chị em hãy nhìn vào muối và những hạt tinh thể nhỏ xíu của nó. Muối là một thành phần nhỏ bé, và khi được cho vào thức ăn, nó sẽ tan biến, nó sẽ hòa tan; nhưng chính theo cách như vậy mà nó thêm gia vị cho toàn bộ món ăn. Cũng vậy, cho dù chúng ta nhỏ bé và yếu đuối, cho dù khi sức lực của chúng ta có vẻ không đáng kể trước mức độ to lớn của các vấn đề và cơn thịnh nộ mù quáng của bạo lực, người Kitô hữu chúng ta vẫn có khả năng đưa ra đóng góp mang tính quyết định vào việc thay đổi lịch sử. Chúa Giêsu muốn chúng ta giống như muối: chỉ một lượng nhỏ hòa tan liền mang lại một hương vị khác cho mọi thứ. Vì thế, chúng ta không thể lùi bước, bởi nếu không có lượng nhỏ bé đó, không có sự đóng góp nhỏ bé của chúng ta, thì mọi thứ trở nên vô vị. Vì vậy, chúng ta hãy bắt đầu từ những điều nhỏ bé, những điều thiết yếu, không phải từ những gì có thể xuất hiện trong sử sách, mà từ những việc làm thay đổi lịch sử. Nhân danh Chúa Giêsu và các Mối phúc của Người, chúng ta hãy hạ bỏ những vũ khí của hận thù và trả thù, để cầm lấy những vũ khí là cầu nguyện và bác ái. Chúng ta hãy chiến thắng những điều không thích và những ác cảm mà theo thời gian đã trở thành kinh niên và có nguy cơ khiến các bộ lạc và các nhóm sắc tộc chống lại nhau. Chúng ta hãy học cách rắc lớp muối tha thứ lên vết thương của chúng ta; muối làm xót nhưng nó chữa lành. Ngay cả khi trái tim của chúng ta rỉ máu vì những điều sai trái mà chúng ta đã phải chịu đựng, chúng ta hãy từ chối lấy ác trả ác, một lần và mãi mãi, và chúng ta sẽ phát triển khỏe mạnh bên trong. Chúng ta hãy đón nhận nhau và yêu thương nhau cách chân thành và quảng đại, như Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta hãy trân trọng sự tốt đẹp là chính chúng ta, và không cho phép mình trở nên bại hoại bởi cái ác!

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang hình ảnh thứ hai được Chúa Giêsu sử dụng, đó là ánh sáng: Anh em là ánh sáng cho trần gian. Một lời tiên tri vĩ đại nói về dân Israel: “Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49:6). Giờ đây lời tiên báo đó đã được ứng nghiệm, vì Thiên Chúa Cha đã sai Con của Người là ánh sáng cho trần gian (x. Ga 8:12), ánh sáng thật chiếu soi mọi người và mọi dân tộc, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và xua tan mọi đám mây u ám (x. Ga 1:5.9). Chúa Giêsu, ánh sáng của trần gian, nói với các môn đệ rằng họ cũng là ánh sáng cho thế gian. Điều này có nghĩa là, khi chúng ta đón nhận ánh sáng của Chúa Kitô, ánh sáng đó là Chúa Kitô, chúng ta trở nên “sáng láng”; chúng ta tỏa ra ánh sáng của Chúa!

Chúa Giêsu nói tiếp: “Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà” (Mt 5:15). Một lần nữa, đây là một hình ảnh quen thuộc trong thời đó. Nhiều ngôi làng ở Galilê được xây dựng trên sườn đồi và có thể nhìn thấy từ rất xa. Đèn trong nhà được đặt trên cao để có thể chiếu sáng mọi ngóc ngách của căn phòng. Khi tắt một ngọn đèn thì người ta lấy một miếng đất nung gọi là “cái giá” chụp lên nó, cái chụp này sẽ hút hết oxy của ngọn lửa và do đó làm tắt ánh sáng.

Thưa anh chị em, Chúa Giêsu muốn nói gì khi yêu cầu chúng ta trở thành ánh sáng thế gian là quá rõ ràng: chúng ta, những môn đệ của Chúa, được mời gọi tỏa sáng như một thành phố xây trên đồi, như một ngọn đèn không bao giờ tắt. Nói cách khác, trước khi chúng ta lo lắng về bóng tối bao quanh mình, trước khi chúng ta hy vọng rằng những bóng tối xung quanh chúng ta sẽ sáng lên, thì chúng ta được kêu gọi hãy tỏa ánh sáng, mang ánh sáng đến cho thành phố, làng mạc và nhà cửa, những người quen biết và mọi hoạt động hàng ngày của chúng ta qua đời sống của chúng ta và các việc tốt lành. Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh, sức mạnh để trở thành ánh sáng trong Người, để mọi người nhìn thấy những việc lành của chúng ta, và khi thấy những việc lành đó, như Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta, thì họ sẽ vui mừng trong Chúa và tôn vinh Người. Nếu chúng ta sống như những người con cái, như anh chị em trên trái đất, mọi người sẽ biết rằng tất cả chúng ta đều có một Cha trên trời. Do đó, chúng ta được yêu cầu hãy bừng cháy tình yêu, đừng bao giờ để ánh sáng của chúng ta bị dập tắt, đừng bao giờ để dưỡng khí bác ái phai nhạt khỏi cuộc sống của chúng ta để những việc làm xấu xa có thể lấy đi bầu không khí trong sáng của chứng tá của chúng ta. Đất nước này, rất đẹp nhưng bị tàn phá bởi bạo lực, cần ánh sáng mà mỗi người trong anh chị em có, hay tốt hơn nữa chính là ánh sáng của mỗi người trong anh chị em.

Anh chị em thân mến, tôi cầu nguyện để anh chị em trở thành muối rắc ra, tan biến và làm tăng hương vị huynh đệ của Tin Mừng cho Nam Sudan. Nguyện xin cho các cộng đoàn Kitô hữu của anh chị em tỏa sáng rạng rỡ, để giống như những thành phố được xây dựng trên đồi, họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng của sự tốt lành cho mọi người và cho thấy rằng thật đẹp biết bao và có thể sống lòng quảng đại và cho đi, để có niềm hy vọng và cùng nhau xây dựng một tương lai hòa giải. Anh chị em thân mến, tôi sát cánh với anh chị em và tôi cầu nguyện để anh chị em sẽ cảm nghiệm được niềm vui của Tin Mừng, hương vị và ánh sáng mà Chúa, “Thiên Chúa bình an” (Pl 4:9), “Thiên Chúa của mọi niềm an ủi” (2 Cr 1:3), mong muốn được tuôn đổ trên mỗi người trong anh chị em.



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 6/2/2023]