Thứ Sáu, 11 tháng 12, 2020

Đức Thánh Cha Phanxico: những ân tứ của người khuyết tật làm phong phú cho Giáo hội & thế giới

Đức Thánh Cha Phanxico: những ân tứ của người khuyết tật làm phong phú cho Giáo hội & thế giới

© Vatican Media

Đức Thánh Cha Phanxico: những ân tứ của người khuyết tật làm phong phú cho Giáo hội & thế giới

Nhân Ngày Quốc tế Người Khuyết tật về “Xây dựng lại tốt đẹp hơn: Hướng tới một Thế giới hậu COVID-19 hòa nhập, dễ tiếp cận và bền vững cho người khuyết tật”, Đức Phanxicô động viên tất cả những người âm thầm cống hiến cho những người mong manh & người khuyết tật

03 tháng Mười Hai, 2020 16:17

DEBORAH CASTELLANO LUBOV


Khi Giáo hội trân trọng những ân tứ quý báu của người khuyết tật, chúng ta phải “thúc đẩy một nền văn hóa sống không ngừng khẳng định phẩm giá của mọi người và đặc biệt hoạt động để bảo vệ những người nam và nữ khuyết tật, thuộc mọi độ tuổi và hoàn cảnh xã hội…”

“Tôi động viên tất cả những ai ngày ngày và thường xuyên âm thầm cống hiến bản thân để giúp đỡ người khác trong hoàn cảnh mong manh và khuyết tật…”

Đây là ý chính trong thông điệp của Đức Giáo hoàng kỷ niệm Ngày Quốc tế Người khuyết tật năm nay, được tổ chức vào ngày 3 tháng Mười Hai, với chủ đề: “Xây dựng lại tốt đẹp hơn: Hướng tới một Thế giới hậu COVID-19 hòa nhập, dễ tiếp cận, và bền vững cho người khuyết tật.”

Trong văn bản của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên chỉ trích mối đe dọa của văn hóa vứt bỏ, và kêu gọi ‘nền đá’ hòa nhập và tham gia tích cực.

Đức Phanxicô bắt đầu nhắc nhở, “Nhờ phép rửa tội, tất cả các thành phần Dân Chúa đã trở thành những môn đệ truyền giáo. Tất cả những người đã được rửa tội, bất kể vị trí của họ trong Giáo hội hay mức độ hướng dẫn đức tin của họ, đều là những tác nhân của việc phúc âm hóa.”

Đức Thánh Cha công nhận rằng người khuyết tật, cả trong xã hội và Giáo hội, cũng mong muốn trở thành những người tích cực trong thừa tác vụ mục vụ của chúng ta, chứ không đơn giản là những người đón nhận. “Nhiều người khuyết tật cảm thấy rằng họ tồn tại mà không được thuộc về và không được tham gia,” ngài nói, lưu ý rằng nhiều điều vẫn ngăn trở họ được hoàn toàn trao quyền.

Mối quan tâm của chúng ta không chỉ là lưu tâm đến họ, mà còn phải đảm bảo sự ‘tham gia tích cực’ của họ vào cộng đồng dân sự và giáo hội, Đức Phanxicô nói, và lưu ý rằng đây là “một tiến trình đòi hỏi nỗ lực và thậm chí mệt mỏi”. Tuy nhiên, ngài bày tỏ, nó sẽ dần dần góp phần xây dựng nhân tâm có khả năng thừa nhận mỗi cá nhân là một con người duy nhất và không thể lặp lại” (Fratelli Tutti, 98). Thật vậy, sự tham gia tích cực của người khuyết tật vào công việc giảng dạy giáo lý có thể làm phong phú thêm đời sống của toàn giáo xứ.

Ngài nói, “Chính vì họ đã được kết hiệp với Đức Kitô trong phép rửa tội, họ chia sẻ với Ngài, theo cách riêng của họ, sứ mệnh truyền bá Phúc âm theo chức tư tế, sứ ngôn, và vương đế trong Giáo hội.”

Do đó, sự có mặt của người khuyết tật giữa các giáo lý viên, tùy theo năng khiếu và tài năng của họ, là một nguồn lực cho cộng đoàn, và do đó, ngài nói, cần phải nỗ lực để cung cấp cho họ những sự đào tạo thích hợp.

Đức Thánh Cha khuyến khích, “Tôi tin tưởng rằng, trong các cộng đoàn giáo xứ, ngày càng nhiều người khuyết tật có thể trở thành giáo lý viên, để truyền đạt đức tin một cách hiệu quả, cũng bằng chính chứng tá của họ.

Nhắc nhở rằng lãng phí điều đó còn tồi tệ hơn chính cuộc khủng hoảng này, Đức Phanxicô lưu ý rằng vì lý do này, “Tôi động viên tất cả những người hàng ngày và thường là âm thầm cống hiến để giúp đỡ những người khác trong hoàn cảnh mong manh và khuyết tật.”

Dưới đây là toàn văn của Vatican (ND: bản tiếng Anh):

***

Anh chị em thân mến,

Lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế Người Khuyết tật năm nay là một dịp để bày tỏ sự gần gũi của tôi với những người đang trải qua hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trong cuộc khủng hoảng do đại dịch gây ra. Tất cả chúng ta đang ở trên cùng một con thuyền giữa biển đầy sóng gió có thể khiến chúng ta sợ hãi. Tuy nhiên, trên cùng con thuyền này, một số người trong chúng ta đang phải chiến đấu nhiều hơn; trong số đó là những người khuyết tật nặng.

Chủ đề của lễ kỷ niệm năm nay là “Xây dựng lại tốt đẹp hơn: Hướng tới một thế giới hậu COVID-19 hòa nhập, dễ tiếp cận và bền vững cho người khuyết tật”. Tôi thấy cụm từ “xây dựng lại tốt đẹp hơn” khá đặc biệt. Nó làm tôi liên tưởng đến dụ ngôn trong Tin Mừng về ngôi nhà xây trên đá hoặc cát (x. Mt 7, 24-27; Lc 6, 46-49). Vì vậy, nhân dịp đặc biệt này tôi chia sẻ một số suy tư dựa trên dụ ngôn đó.

1. Mối đe dọa của văn hóa vứt bỏ

Trước hết, “những cơn mưa”, “những sông ngòi” và “những cơn gió” đe dọa ngôi nhà có thể được đồng hóa với văn hóa vứt bỏ phổ biến trong thời đại chúng ta (xem Tông huấn Evangelii Gaudium, 53). Đối với văn hóa đó, “có vẻ như một số thành phần trong gia đình nhân loại của chúng ta có thể sẵn sàng bị hy sinh vì lợi ích của những người khác được xem là xứng đáng với cuộc sống thảnh thơi. Cuối cùng, con người không còn được coi là giá trị tối thượng phải được chăm sóc và tôn trọng, đặc biệt là khi họ là người nghèo và khuyết tật” (Fratelli Tutti, 18).

Văn hóa đó ảnh hưởng đặc biệt đến những người dễ bị tổn thương nhất, trong số đó là những người khuyết tật. Trong năm mươi năm qua, những bước tiến quan trọng đã được thực hiện trên mức độ dân sự cũng như giáo hội. Nhận thức về phẩm giá của mỗi người đã phát triển, và điều này đã dẫn đến những quyết định can đảm để thúc đẩy sự hòa nhập của những người có các hạn chế về thể chất và tâm lý. Tuy nhiên, trên bình diện văn hóa, nhiều vấn đề vẫn còn cản trở xu hướng này. Chúng ta nhìn thấy điều đó trong thái độ từ chối, cũng do tâm lý quá chú trọng đến bản thân và thực dụng, nó làm gia tăng việc gạt ra ngoài lề xã hội, bỏ qua thực tế không thể tránh khỏi rằng sự mong manh là một phần của cuộc sống mỗi người. Thật vậy, thậm chí một số người khuyết tật nặng, mặc dù phải chịu nhiều thử thách, đã tìm thấy con đường dẫn đến một cuộc sống đẹp và ý nghĩa, trong khi nhiều người “cơ thể toàn vẹn” cảm thấy bất mãn hoặc thậm chí tuyệt vọng. “Tính dễ bị tổn thương thuộc nội tại đối với bản chất quan trọng của con người” (Diễn từ tại Hội nghị “Dạy Giáo lý và Người Khuyết tật”, ngày 21 tháng Mười năm 2017).

Do đó, vào Ngày này, điều quan trọng là phải thúc đẩy một văn hóa sống không ngừng khẳng định phẩm giá của mỗi người và đặc biệt hoạt động để bảo vệ những người nam và nữ khuyết tật, thuộc mọi độ tuổi và hoàn cảnh xã hội.

2. “Nền đá” của sự hòa nhập

Đại dịch hiện nay đã làm nổi rõ thêm sự chênh lệch và bất bình đẳng đang lan rộng trong thời đại chúng ta, đặc biệt là gây tổn hại cho những người dễ bị tổn thương nhất. “Virus, trong khi nó không phân biệt bất kỳ người nào, đã tìm thấy sự bất bình đẳng và phân biệt đối xử to lớn, trên con đường tàn phá của nó. Và nó chỉ làm cho những vấn đề đó trở nên tồi tệ hơn” (Bài Giáo Lý tại Buổi Tiếp Kiến Chung ngày 19 tháng Tám năm 2020).

Vì lý do này, sự hòa nhập phải là “nền đá” đầu tiên để xây dựng ngôi nhà của chúng ta. Mặc dù thuật ngữ này đôi khi bị lạm dụng, nhưng dụ ngôn trong Tin Mừng về người Samari Nhân hậu (Lc 10,25-37) vẫn tiếp tục phù hợp thời đại. Trên đường đời, chúng ta thường bắt gặp những người bị thương tổn, và những người này có thể bao gồm người khuyết tật và đặc biệt thiếu thốn. “Quyết định hòa nhập hoặc loại trừ những người bị thương nằm bên lề đường có thể trở thành tiêu chí để đánh giá mọi dự án kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo. Mỗi ngày, chúng ta phải quyết định để trở thành người Samari Nhân hậu hoặc người ngoài cuộc thờ ơ” (Fratelli Tutti, 69 tuổi).

Sự hòa nhập phải là “nền đá” để xây dựng các chương trình và sáng kiến của những thể chế dân sự nhằm bảo đảm rằng không người nào, đặc biệt là những người gặp khó khăn lớn nhất, bị bỏ lại phía sau. Sức mạnh của một chuỗi mắt xích phụ thuộc vào việc chú ý đến những liên kết yếu nhất của nó.

Đối với các tổ chức giáo hội, tôi nhắc lại sự cần thiết phải cung cấp các phương tiện phù hợp và dễ tiếp cận để truyền đạt đức tin. Tôi cũng hy vọng rằng những điều này cũng có thể được cung cấp cho những người cần đến chúng, miễn phí theo khả năng có thể, kể qua thông qua những công nghệ mới đã chứng minh là vô cùng quan trọng đối với mọi người giữa đại dịch này. Tôi cũng khuyến khích những cố gắng cung cấp cho tất cả các linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên và nhân viên mục vụ sự đào tạo thường xuyên liên quan đến người khuyết tật và sử dụng các công cụ mục vụ hòa nhập. Những cộng đồng giáo xứ cần quan tâm động viên các tín hữu có thái độ chào đón đối với người khuyết tật. Xây dựng một giáo xứ có khả năng tiếp cận dễ dàng không chỉ đòi hỏi phải dỡ bỏ các rào cản kiến trúc, mà trên hết, giúp giáo dân phát triển thái độ và hành vi đoàn kết và phục vụ đối với người khuyết tật và gia đình của họ. Mục đích của chúng ta không phải là nói về “họ”, mà là về “chúng ta”.

3. “Nền đá” của sự tham gia tích cực

Để giúp xã hội của chúng ta “xây dựng lại tốt đẹp hơn”, sự hòa nhập những người dễ bị tổn thương cũng đòi phải có các nỗ lực thúc đẩy sự tham gia tích cực của họ.

Trước hết, tôi mạnh mẽ khẳng định lại quyền của người khuyết tật được lãnh nhận các bí tích, giống như tất cả các thành viên khác của Giáo hội. Họ phải được tiếp cận với tất cả các cử hành phụng vụ trong giáo xứ, để cùng với anh chị em của họ, mỗi người có thể đào sâu, cử hành và sống đức tin của mình. Cần đặc biệt chú ý đến những người khuyết tật chưa lãnh nhận các bí tích khai tâm của Kitô giáo: họ cần được chào đón và đưa vào những chương trình học giáo lý để chuẩn bị cho các bí tích này. Không ai bị loại trừ khỏi ân sủng của các bí tích đó.

“Nhờ phép rửa tội, tất cả các thành phần Dân Chúa đã trở thành những người môn đệ truyền giáo. Tất cả những người đã được rửa tội, bất kể vị trí của họ trong Giáo hội hay mức độ hướng dẫn đức tin của họ, đều là những tác nhân của việc phúc âm hóa” (Evangelii Gaudium, 120). Người khuyết tật, cả trong xã hội và trong Giáo hội, cũng mong muốn trở thành những người tích cực trong thừa tác vụ mục vụ của chúng ta, chứ không đơn giản là những người đón nhận. Nhiều người khuyết tật cảm thấy rằng họ tồn tại mà không được thuộc về và không được tham gia. Nhiều điều vẫn ngăn trở họ được hoàn toàn trao quyền. Mối quan tâm của chúng ta không chỉ là lưu tâm đến họ, mà còn phải đảm bảo sự ‘tham gia tích cực’ của họ vào cộng đồng dân sự và giáo hội. Đó là một tiến trình đòi hỏi nỗ lực và thậm chí mệt mỏi, nhưng nó sẽ dần dần góp phần xây dựng nhân tâm có khả năng thừa nhận mỗi cá nhân là một con người duy nhất và không thể lặp lại” (Fratelli Tutti, 98). Thật vậy, sự tham gia tích cực của người khuyết tật vào công việc giảng dạy giáo lý có thể làm phong phú thêm đời sống của toàn giáo xứ. Chính vì họ đã được kết hiệp với Đức Kitô trong phép rửa tội, họ chia sẻ với Ngài, theo cách riêng của họ, sứ mệnh truyền bá Phúc âm theo chức tư tế, sứ ngôn, và vương đế trong Giáo hội.

Do đó, sự có mặt của người khuyết tật giữa các giáo lý viên, tùy theo năng khiếu và tài năng của họ, là một nguồn lực cho cộng đoàn. Cần phải nỗ lực để cung cấp cho họ những sự đào tạo thích hợp, để họ có thể có được kiến thức rộng lớn hơn trong các lĩnh vực thần học và giáo lý. Tôi tin tưởng rằng, trong các cộng đoàn giáo xứ, ngày càng nhiều người khuyết tật có thể trở thành giáo lý viên, để truyền đạt đức tin một cách hiệu quả, cũng bằng chính chứng tá của họ (x. Diễn từ tại Hội nghị “Dạy Giáo lý và Người khuyết tật”, ngày 21 tháng Mười năm 2017).

“Bi kịch lãng phí điều đó còn tồi tệ hơn chính cuộc khủng hoảng này” (Bài giảng Đại Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ngày 31 tháng Năm năm 2020). Vì lý do này, tôi động viên tất cả những người hàng ngày và thường là âm thầm cống hiến để giúp đỡ những người khác trong hoàn cảnh mong manh và khuyết tật. Ước mong rằng khát khao chung của chúng ta là “xây dựng lại tốt đẹp hơn” sẽ tạo ra các hình thức hợp tác mới giữa những nhóm dân sự và giáo hội, từ đó xây dựng một “ngôi nhà” vững chắc sẵn sàng chống chọi với mọi cơn bão và có khả năng chào đón những người khuyết tật, vì được xây dựng trên đá tảng của sự hòa nhập và tham gia tích cực.

Roma, Đền Thánh Gioan Lateran, 3 tháng Mười Hai 2020

PHANXICO

[01478-EN.01] [Văn bản chính:


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 9/12/2020]


Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Bret Thoman, OFS

02/12/20

Chuyến hành hương kéo dài bốn ngày này bắt đầu từ quê hương của Chúa Giêsu và kết thúc tại nơi ngài đã trải qua ba năm hoạt động thừa tác vụ của mình.

Đường mòn Chúa Giêsu là một đường hành hương Camino ở Israel đi từ Nadarét đến Caphácnaum. Mặc dù ít được biết đến hơn những đường hành hương Camino ở Châu Âu dõi theo con đường của các tông đồ, nhưng bước theo những dấu chân của chính Chúa Giêsu Kitô là một trải nghiệm đầy cảm xúc.

Đường mòn dài 69 km (43 dặm) băng qua vùng Galilê phía bắc Israel trong bốn ngày. Với đoạn đường khoảng 15 km (9 dặm) mỗi ngày và không có leo núi dốc đứng, với hầu hết mọi người có thể trạng bình thường đều có thể thực hiện được.

Ngày 1: Nadarét đến Cana

Lộ trình bắt đầu từ nơi Chúa Giêsu được sinh ra và lớn lên – ở Nadarét – tại Vương cung Thánh đường Truyền tin hiện đại, nhà thờ lớn nhất ở Trung Đông. Một số khách hành hương chọn ở lại thêm một đêm tại Nadarét để thăm viếng các địa điểm khác của Kitô giáo trong Thành phố Cổ bao gồm Nhà thờ Thánh Giuse và Giếng Mẹ Maria. Ngoài ra còn có Làng Nadarét, một công trình tái tạo thực tế quê hương của Chúa Giêsu vào thế kỷ 1.

Ngày Một đi từ Nadarét đến Cana. Sau sự khởi hành không mấy hấp dẫn băng qua các vùng ngoại ô đầy rác của Nadarét (một thực tế đáng tiếc tại một số nơi trong vùng), Đường mòn đi qua địa điểm khảo cổ của Công viên Quốc gia Zippori. Còn được gọi là Sepphoris, đây là thủ đô hành chính của Galilê trong thế kỷ đầu tiên. Mặc dù không được nhắc đến trong Tân Ước, nhưng chắc chắn Đức Kitô đã đến đây vì nó rất nổi bật và gần với Nadarét.
Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum
Photo courtesy of Bret Thoman, OFS - Lối đi từ Nadarét đến Cana đưa người hành hương băng qua miền đất Chúa Giêsu đã bước qua.

Sau đó, con đường uốn lượn qua các khu rừng và nhiều ngôi làng khác trước khi đến Cana. Cana ngày nay là một thị trấn Ả Rập (địa phương được gọi là Kafr Kanna), và điểm nổi bật là nhà thờ tiệc cưới của dòng Phanxicô nhắc lại phép lạ đầu tiên Chúa Giêsu thực hiện khi biến nước thành rượu. (xem Ga 2:1–12).

Ngày 2: Via Maris

Ngày tiếp theo không có nhiều tầm quan trọng trên con đường các địa điểm lịch sử Kitô giáo. Tuy nhiên, những điểm nổi bật về văn hóa và tự nhiên khác bao gồm các khu rừng đẹp, trang trại nuôi dê, hệ động thực vật độc đáo, và dấu tích của con đường La Mã cổ đại được gọi là Via Maris.

Nhiều đồn bốt quân sự – một số bị bỏ hoang, một số vẫn còn hoạt động – là những sự nhắc nhở bất ngờ về các xung đột lịch sử hiện tại trong khu vực.

Cuối cùng, sau khi vượt qua một giao lộ chính, tiếp theo là McDonald’s và một bảo tàng kỷ niệm Lữ đoàn Golani, chặng đường kết thúc tại Kibbutz Lavi, nổi tiếng về sản xuất đồ nội thất cho hội đường Do Thái và khách sạn hiện đại.

Ngày 3: Pháo đài Thập tự chinh

Ngày thứ ba thật thú vị. Sau khi rời kibbutz và lang thang qua những con đường đất và đường mòn, tuyến đường lên dốc và vượt qua ngọn núi Horns of Hattin. Tại đây, một pháo đài quan trọng của quân thập tự chinh đã bị xóa sổ bởi quân Hồi giáo dưới sự chỉ huy của Hồi vương Saladin vào cuối thế kỷ 12.
Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum
Photo courtesy of Bret Thoman, OFS - Horns of Hattin là nơi diễn ra trận chiến quan trọng làm thay đổi kết quả của các cuộc Thập tự chinh. Tổn thất mà quân thập tự chinh phải gánh chịu khiến họ phải rút lui khỏi khu vực.

Sau khi đi xuống sườn núi đá do sự hình thành núi lửa, tuyến đường đi qua đền thờ Druze của Nebi Shu’eib, nơi có mộ của Jethro, là nhạc phụ của ông Môisê.

Đường mòn sau đó uốn lượn nhẹ nhàng giữa những lùm cây ôliu. Những người hành hương chú ý có thể nhận thấy một tháp Hồi giáo nhô lên trên các ngọn cây ở bên trái Đường mòn. Đây là tất cả những gì còn lại của “Thị trấn đã mất” của Hittin, nó đã “biến mất” sau Chiến tranh năm 1967.

Cuối cùng, sau một ngày leo núi mệt mỏi, ngày kết thúc tại Vách đá Arbel ngoạn mục với cảnh nhìn ra Biển Galilê đầy mê hoặc.

Ngày 4: Biển Galilê và Caphácnaum

Ngày cuối cùng là ngày nhiều cảm xúc nhất đối với người hành hương Kitô giáo. Đi dọc theo Biển Galilê là một trải nghiệm không gì sánh bằng, vì nó là bối cảnh cho rất nhiều câu chuyện trong các Tin mừng. Ngày cuối cùng cũng giới thiệu các di tích văn hóa, lịch sử và thiên nhiên.

Khi đi xuống con đường dốc xuôi vách đá Arbel, những lữ khách có thể nhìn cận cảnh các hang động được dùng làm nơi ẩn náu của những phiến quân Do Thái thế kỷ thứ Nhất trong cuộc Đại khởi nghĩa chống lại người La Mã. Nhà sử học La Mã Josephus đã ghi chép lại cách thức những người lính La Mã được hạ xuống vách đá trong các chiếc giỏ lớn mà từ nơi đó họ ném những kẻ phiến loạn xuống cho chết. Dưới thung lũng là Wadi Hamam, một khu định cư hiện đại do người Bedouins xây dựng vào đầu thế kỷ 20 – và là một nơi tuyệt vời để dừng chân thưởng thức món falafel.
Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum
Photo courtesy of Bret Thoman, OFS - Các vách đá của Núi Arbel cho quang cảnh tuyệt đẹp nhìn ra Biển Galilê, được người Israel gọi là Hồ Kinneret.

Tiếp theo, Đường mòn đi qua gần thị trấn cảng Magdala, quê hương của Mary Magdalene trong Kinh thánh. Vài năm trước, Dòng Đạo binh Chúa Kitô đã mua khu đất gần bờ biển để xây dựng một nhà khách cho người hành hương (magdala.org). Trong quá trình xây dựng, họ đã khai quật được một hội đường Do Thái quan trọng có từ thế kỷ 1 và các phần khác của thành phố cổ Magdala.

Gần đó là Kibbutz Ginosar, với một bảo tàng bảo tồn một chiếc thuyền đánh cá của người Galilê thế kỷ thứ Nhất tương tự như những chiếc thuyền được sử dụng bởi Chúa Kitô và các môn đệ.

Tiếp theo là một chuyến đi bộ thú vị, mặc dù khá dài, gần bờ phía tây bắc Biển Galilee (ở độ cao 210 mét/ 130 feet dưới mực nước biển). Những người nuôi chim sẽ rất ấn tượng với các loài chim kỳ lạ phát triển mạnh ở đây do khí hậu ôn hòa và nguồn nước ngọt dồi dào. Tương tự như vậy, những người say mê nông nghiệp sẽ kinh ngạc trước loại đất đen màu mỡ, được cấu tạo từ đá bazan núi lửa phì nhiêu và việc trồng trọt các loại chuối, chà là, xoài, nho và ôliu vô cùng đa dạng.

Sau cả ngày đi bộ, cuối cùng Đường mòn Chúa Giêsu cũng đến đỉnh cao của chuyến hành hương: ba nhà thờ cổ kính sau Caphácnaum. Ở đây – lần đầu tiên tính từ Nadarét – người hành hương sẽ phải làm quen với những đám đông “người hành hương xe buýt” thuộc mọi quốc tịch.

Nhà thờ đầu tiên là Taghba, nơi diễn ra phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều và cho dân chúng ăn. Ở phía bên kia con đường, trên đỉnh một sườn núi nhỏ là tàn tích được cho là của ngôi nhà thờ cổ xây dựng trên vị trí Chúa Kitô đã giảng Bài giảng Trên Núi (một nhà thờ hiện đại kỷ niệm biến cố này nằm xa hơn trên đồi). Dọc theo bờ biển là Nhà thờ Quyền Tối thượng của Phêrô, nơi kỷ niệm giây phút Chúa Giêsu đặt Phêrô làm người đứng đầu trong các Tông đồ.

Cuối cùng, sau 30 phút đi bộ bên bờ biển dọc theo bờ phía bắc, Đường mòn Chúa Giêsu kết thúc tại vị trí khảo cổ Caphácnaum. Được biết đến như là “thị trấn của Chúa Giêsu”, Đức Kitô đã đến đây sau khi ra khỏi Nadarét và sống ở đây với các môn đệ trong thời gian ba năm thi hành thừa tác vụ.

Thánh Giêrônimô (347-420) nói, “Năm sách phúc âm ghi lại cuộc đời của Chúa Giêsu; bạn sẽ tìm thấy bốn trong sách và một bạn sẽ tìm thấy tại Đất Thánh.” Chắc chắn, do các vấn đề về văn hóa và những căng thẳng chính trị và an ninh thường xuyên, đến thăm Israel đòi hỏi một mức độ chú ý và lưu tâm mà có lẽ là không cần thiết đối với các đường hành hương Camino ở Châu Âu. Tuy nhiên, bước đi trên Đường mòn Chúa Giêsu là một cách hiển nhiên và vô sánh để “đọc tin mừng thứ năm”.

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Đường mòn Chúa Giêsu bắt đầu từ Vương cung Thánh đường Truyền tin ở Nadarét, xây trên hang động được tin là địa điểm của biến cố Truyền Tin, khi Tổng lãnh Thiên Thần Gabrien hiện ra với Mẹ Maria (xem Lc 1:26–38).
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Bret Thoman, OFS, chụp ảnh trước Nhà thờ Tiệc cưới Dòng Phanxicô Cana.
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Cây carob (cây minh quyết) có nguồn gốc từ Trung Đông và thường được nhắc đến trong Kinh thánh.
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Các đường mòn có dấu sơn vàng và trắng đánh dấu Đường mòn Chúa Giêsu.
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Tháp và đền thờ Hồi giáo là tất cả những gì còn lại của thị trấn Hittin, một trong khoảng 400 ngôi làng Ả Rập đã "biến mất" sau Chiến tranh năm 1967.
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Các khu trại quân sự, chẳng hạn đây là khu tưởng niệm Lữ đoàn Golani, là những địa điểm thường gặp dọc theo Đường mòn Chúa Giêsu.
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Một người hành hương thưởng thức đĩa Cá Thánh Phêrô, một loài cá rô phi nước ngọt phổ biến ở Biển Galilê.
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Đá bazan được tạo ra từ magma nóng, trở thành đá cứng và không thể xuyên thủng. Các khu vực bazan có đất đai rất màu mỡ.
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Việc xây dựng một khách sạn ở Magdala đã làm lộ ra một hội đường Do Thái quan trọng vào thế kỷ 1.
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Quang cảnh Biển Galilê từ Núi Tám Mối Phúc.
© Photo courtesy of Bret Thoman, OFS

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Nhà thờ Quyền Tối thượng của Thánh Phêrô ghi nhớ sự nổi bật của Phêrô trong số các môn đệ; có Mensa Christi (bàn ăn của Chúa Giêsu), nơi Chúa Giêsu bày bữa ăn sáng gồm bánh và cá cho các Tông đồ và bảo Phêrô "Hãy chăm sóc chiên của Thầy" (xem Ga 21:1–24)
© Bantosh | CC BY-SA 3.0

Đi theo Đường mòn Chúa Giêsu từ Nadarét đến Caphácnaum

Caphácnaum, được gọi là “thị trấn của Chúa Giêsu”: “Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê (Mt 4:13). Chúa Giê-su đã ở lại đây với các môn đệ trong ba năm từ khi rời khỏi Nadarét cho đến cuộc Khổ nạn và Phục sinh tại Giêrusalem.
© Berthold Werner | Public Domain


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 9/12/2020]