Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2016

Không ai cô đơn trong nỗi đau

Không ai cô đơn trong nỗi đau, Đức Thánh Cha Phanxico khẳng định trong buổi canh thức cầu nguyện

Đức Thánh Cha Phanxico trong buổi canh thức cầu nguyện
Đức Thánh Cha Phanxico giảng tại buổi canh thức cầu nguyện “Hãy lau khô những đôi mắt” tại Quảng trường Thánh Phê-rô hôm 05/05/2016.
Ảnh: Daniel Ibanez/CNA.
Vatican City, 5 tháng 5, 2016 / 11:30 sáng (CNA/EWTN News).- Trong buổi canh thức cầu nguyện hôm thứ Năm cho những người đang cần sự an ủi, Đức Thánh Cha Phanxico nhấn mạnh rằng cho dù chúng ta phải khóc lên trong những giờ phút gặp khó khăn, chúng ta vẫn không bao giờ bị cô đơn.
Lời khẳng định của ngài được đưa ra sau khi lắng nghe nhiều chứng nhân chịu những đau khổ khác nhau trong buổi canh thức cầu nguyện được tổ chức như một phần của Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót.
“Có bao nhiêu giọt nước mắt phải rơi xuống trong mỗi giây phút trên thế giới; mỗi giọt đều khác nhau nhưng hợp chung lại chúng tạo thành một đại dương hiu quạnh , như những gì đã xảy ra, kêu gào lòng thương xót, sự thương cảm và sự an ủi,” Đức Thánh Cha nói hôm 5 tháng 5.
Ngài lưu ý, những giọt nước mắt cay đắng nhất “là những giọt do con người gây ra; những giọt nước mắt của những người phải chứng kiến những người thân yêu nhất của mình bị bạo lực cướp đi; nước mắt của những ông bà, của mẹ cha, của con cái; những đôi mắt cứ mãi phải nhìn vào bóng hoàng hôn mà thấy khó có cơ hội để nhìn được ánh bình minh ngày hôm sau.”
Tuy nhiên, Đức Phanxico nhấn mạnh rằng “trong nỗi đau của chúng ta, chúng ta không cô đơn,” và ngài nói rằng “Đức Giê-su cũng vậy, Người rất hiểu ý nghĩa quan trọng như thế nào khi khóc cho sự mất mát một người thân yêu.”
Dẫn chứng về đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan nói về việc Chúa Giê-su khóc trước cái chết của người bạn của mình là La-za-rô, Đức Thánh Cha nói rằng Đức Kit-tô khi nhìn thấy Maria thành Bethany đang khóc thì “Người cũng không cầm được nước mắt. Người đã thổn thức và bắt đầu khóc.”
“Những giọt nước mắt của Chúa Giê-su đã làm bối rối nhiều nhà thần học qua nhiều thế kỷ,” ngài nói, nhưng còn hơn thế nhiều, “những giọt nước mắt đó đã tắm mát cho bao linh hồn và xoa dịu bao nhiêu nỗi đau.”
Đức THánh Cha Phanxico nói trước hàng ngàn người hành hương tụ họp tại Quảng trường Thánh Phê-rô trong tối canh thức cầu nguyện “Hãy lau khô những đôi mắt” cho tất cả những ai đang cần sự an ủi.
Buổi canh thức đánh dấu ngày Lễ Thăng Thiên của Chúa Giê-su, bắt đầu với 3 chứng nhân đau khổ đan xen giữa 3 bài đọc Thánh thư, qua đó những gia đình trình bày những ký ức về những bi kịch họ phải trải qua như sự cô đơn, tự tử, và bách hại tôn giáo.
Sau mỗi chứng nhân đau khổ một cây nến được thắp lên trước hòm thánh tích của Đức Bà Khóc ở Syracuse, được đem về Roma đặc biệt cho buổi canh thức cầu nguyện năm thánh này, và được trưng ra để mọi người tôn thờ.
Trong bài giảng, Đức Phanxico nói rằng trong những giây phút buồn chán, đau khổ, và bệnh tật, mọi người đều mong chờ “một lời an ủi” giữa những nỗi thống khổ của sự bách hại và đau buồn.
“Chúng ta thấu hiểu được sự cần thiết mạnh mẽ có một ai đó ở gần thể hiện sự thương cảm cho chúng ta. Chúng ta trải nghiệm và cảm nhận được ý nghĩa như thế nào khi bị mất phương hướng, bị xáo trộn, bị thất vọng hơn là chúng ta tưởng. Chúng ta quay qua quay lại hoang mang, cố gắng tìm một ai đó có thể hiểu được nỗi đau của chúng ta,” ngài nói.
Các câu hỏi nằm đầy trong đầu những người đang chịu khổ nhưng thường lại không có câu trả lời, ngài nói, chỉ lý do thôi thì chưa đủ để giải thích được nỗi đau sâu thẳm của những ai đang phải ghánh chịu, và nó cũng thể đưa ra được những câu trả lời.
Trong những lúc như vậy, “hơn bao giờ hết chúng ta cần lý lẽ của con tim, mà chỉ mình nó thôi mới có thể giúp chúng ta hiểu được sự bí ẩn đang ôm ấp lấy sự cô đơn của chúng ta,” Đức Phanxico nhận định.
Cùng với việc hiểu được giá trị của tiếng khóc trong những thời điểm đau buồn, chính Đức Ki-tô cũng đã trải nghiệm không phải chỉ sự sợ hãi đau khổ và cái chết, mà còn “là sự thất vọng và chán nản trước sự phản bội của Giu-đa và Phê-rô.”
“Nếu Chúa còn có thể khóc, thì cha cũng có thể khóc được, vì biết rằng Người hiểu cha,” Đức Thánh Cha nói, và giải thích rằng những giọt nước mắt của Đức Ki-tô “như một liều thuốc giải cho sự thờ ơ của cha trước những nỗi đau của người anh em và chị em.”
“Những giọt nước mắt của Người dạy cha biết biến những nỗi đau của người khác thành nỗi đau của riêng mình, để biết chia sẻ những lúc ngã lòng và đau buồn của những ai đang trong những hoàn cảnh đau thương,” ngài nói, và thêm rằng những giọt nước mắt của Giê-su “không thể rơi xuống mà không có sự đồng cảm về phía những ai tin theo Người. Vì Người an ủi, chúng ta cũng được kêu gọi đi ủi an.”
Đức Phanxico giải thích trong những giây phút sợ hãi và mất hết tinh thần thì Đức Ki-tô đến với Chúa Cha trong lời cầu nguyện, ngài nói rằng cầu nguyện là “phương thuốc” cho những nỗi đau khổ của chúng ta. “Trong lời cầu nguyện, chúng ta có thể cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa,” và điều đó an ủi chúng ta và tăng thêm sức mạnh và sự hy vọng cho chúng ta.
“Chúng ta nữa cũng cần phải chắc chắn rằng Chúa Cha nghe thấy chúng ta  và đến cứu giúp chúng ta. Tình yêu Thiên Chúa rót đổ vào con tim của chúng ta, để chúng ta có thể lên tiếng rằng khi chúng ta yêu, không điều gì và không ai có thể chia cách chúng ta ra khỏi những người chúng ta yêu,” Đức Thánh Cha nói.
Ngài đúc kết bài huấn giáo bằng dẫn chứng một đoạn trong Thư gửi giáo đoàn Roma trong đó Thánh Phaolo nói rằng “không có điều gì có thể chia cách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.”
Ngài nói, sức mạnh của tình yêu “đã biến sự đau khổ thành niềm vinh quang của Đức Ki-tô, và chúng ta được kết hiệp với Người, và sống trong hy vọng rằng một ngày kia chúng ta sẽ lại được ở cùng Người và sẽ mãi mãi hưởng nhan Thánh của Thiên Chúa Ba Ngôi, suối nguồn sự sống và tình yêu vĩnh hằng.”
Sau khi Đức Phanxico kết thúc bài giảng, buổi canh thức tiếp tục với việc thu lại những ý cầu nguyện cá nhân của những người đang tham dự, cũng như lời cầu nguyện chung toàn thế giới cho tất cả những người đang trong hoàn cảnh chịu đựng đau khổ về tinh thần và thể xác.
Đức Thánh Cha Phanxico kết thúc buổi canh thức bằng phép lành và tặng một số người hiện diện tấm ảnh Chiên Phục Sinh như một sự biểu tượng cho lòng thương xót cho tất cả những tín hữu đang sống trong những hoàn cảnh đau thương vô cùng.

[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 06/05/2016]



Sự kiện Liên Hiệp Quốc làm rõ “tính diệt chủng” của ISIS chống lại người Ki-tô hữu

Sự xúc phạm nằm ở chỗ nào? Sự kiện Liên Hiệp Quốc làm rõ “tính diệt chủng” của ISIS chống lại người Ki-tô hữu


Những tham dự viên phát biểu bao gồm Cha Douglas Al-Bazi, một linh mục Công giáo người Syriaa bị bắt cóc và bị tra tấn bởi nhóm Nhà nước Hồi giáo, và cha mẹ của nhân viên cứu trợ Kayla Mueller người Mỹ.


ANGELO STAGNARO 04/05/2016
Hội nghị #WeAreN2016
Cha Douglas al-Bazi, một linh mục quản xứ Công giáo của người Iraq ở Erbil, đã phát biểu hôm 28 tháng 4 trong Hội nghị #WeAreN2016 ở New York.
– Alejandro Bermudez/CNA

LIÊN HIỆP QUỐC ― Đáp lại những hành động tàn sát dã man người Ki-tô hữu ở Trung Đông do nhóm Nhà nước Hồi giáo và chiến binh của những nhóm cực đoan khác gồm Shiite và Sunni gây ra — và một sự im lặng trước những sự kinh hoàng đang diễn ra — Tổng Giám mục Bernardito Auza, ngài là Quan sát viên thường trực của Đức Thánh Cha ở Liên Hiệp Quốc, đồng tài trợ một buổi hội nghị để thảo luận về cả hai vấn đề này.
Hội Nghị #WeAreN2016 nhằm kêu gọi thế giới ngừng bách hại những người Ki-tô hữu và các nhóm thiểu số khác. Những nhà tài trợ khác gồm Tổ chức Bảo vệ người Ki-tô hưu, nhóm hoạt động vì quyền công dân CitizenGO và nhóm MasLibres biện hộ cho quyền tự do tôn giáo trụ sở ở Tây Ban Nha.

Rất nhiều tham dự viên hội nghị mặc áo thung có vẽ chữ ﻦ màu cam lớn― là ký tự “N” trong bảng chữ cái Ả-rập. Ký tự này nhắc đến việc các chiến binh Hồi giáo vẽ ký tự này trên các nhà người Ki-tô hữu mà họ tìm được và tấn công. Ký tự này là chữ cái đầu tiên của từ Nasrane ― là một điều nhục nhã trong thế giới Hồi giáo. Nó liên quan đến làng Nazareth, là nơi Chúa Giê-su sinh ra ― từ nghữ chính thức dành chỉ về người Ki-tô hữu được cả thế giới Hồi giáo sử dụng.

Hội nghị thu hút nhiều người tham dự diễn ra trong 3 ngày, 28-30 tháng 4, tại nhiều địa điểm ở New York, gồm cả trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Midtown Manhattan.

Nhóm khủng bố đáng sợ nhất trên thế giới, có tên Nhà nước Hồi giáo của Iraq và Syria, hay ISIS (một từ viết tắt các chữ cái đầu được phát âm bằng tiếng Ả-rập là “Daesh”), hy vọng sẽ thúc đẩy được sự triệt tiêu toàn cầu thể chế Hôi giáo bạo lực “đang tẩy uế” thế giới những người không tín ngưỡng và người tội lỗi (tức là người Ki-tô giáo, người Hồi giáo Shiite, Yazidi, nhóm Sunnis không thuộc tôn giáo nào rõ ràng và những nhóm thiểu số khác dưới quyền kiểm soát của những người Hồi giáo quá khích Sunni).

Lãnh thổ cai trị của ISIS, được thế giới biết đến không thuộc một quốc gia Hồi giáo nào, kéo dài từ biên giới Thổ Nhĩ Kỳ vớ Syria đến phía nam Fallujah ở Iraq ― diện tích tạm coi gần bằng bằng tiểu bang Indiana.
10 nhân vật phát biểu chính tại Hội nghị ngày 28 tháng 4 (the April 28 conference) tại Hội đồng Kinh tế Xã hội của Liên Hiệp quốc, được tài trợ bởi Đặc Phái viên Quan sát thường trực của Đức Thánh Cha, nêu ra những hành động tàn bạo mang tính tập thể, bao gồm nô lệ tình dục, cưỡng bức cải đạo sang Hồi giáo và bạo lực tình dục nhằm vào phụ nữ và các trẻ em trai và gái.

“Ki-tô hữu chiếm 80% trong số những nhóm thiểu số bị bách hại,” Đức Tổng Giám mục Auza đưa ra con số. “Họ là mục tiêu đặc biệt bị nhắm tới bởi nhóm Daesh.”

Đức Tổng Giám mục Auza giải thích, “Chúng tôi biết có những vụ hành quyết và những vụ chặt đầu tập thể, bạo lực tình dục, giết người, chém đầu và đóng đinh.”
Gọi là Diệt Chủng

Quan sát viên thường trực của Đức Thánh Cha phân tích rõ ràng rằng những hành động của nhóm ISIS chỉ có thể gọi là diệt chủng nền tảng tôn giáo. “Không chỉ những người Ki-tô hữu là mục tiêu, nhưng còn những nhóm tôn giáo thiểu số khác trong vùng,” ngài nói, nhắc đến những nhóm tôn giáo thiểu số trong vùng như Druze, Yazidis, Mandeans, Kurds, Shia Turkmen, Shabak và Kaka’i.

Việc sử dụng từ “diệt chủng” của Đức Tổng Giám mục nhằm đưa ra một tín hiệu và nhận dạng ra bản chất và tính chất của vấn đề ― mọi người có mặt đều chắc chắn về những gì đang xảy ra cho người Ki-tô hữu thực sự là diệt chủng. Và chung quy lại, họ thắc mắc là tại sao thế giới lại phản ứng với một thái độ dửng dưng bình thường như vậy.

Tuy nhiên, nhiều chính phủ Phương Tây, gần đây gồm cả Hoa Kỳ (until recently) tránh sử dụng từ “diệt chủng”, “Ki-tô hữu” hay thậm chí “Hồi giáo” trong những báo cáo về bạo  lực nhắm vào người Kit-tô hữu ở đó. Ví dụ, khi ISIS chặt đầu những Ki-tô hữu người Ai-cập ở Libya mùa đông vừa rồi, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã bị lên án (was admonished) khi nói về các nạn nhân một cách đơn thuần là “những công dân Ai-cập.”

Lars Adaktusson, một nghị viên Hội Đồng Âu Châu người Thụy Điểm đã có một bài diễn văn hùng hồn về báo cáo đầu tiên của ông về tình trạng khốn khổ của người Ki-tô hữu ở Trung Đông và trút sự bực dọc của ông lên sự thờ ơ của các đồng nghiệp.

Ông nói, “Mỗi lần tôi đề cập đến những nỗi khổ của người Ki-tô hữu, tôi bị bắt phải im miệng vì tôi đang sử dụng ngôn ngữ căm ghét chống lại người Hồi giáo. Họ nói tôi đang rất thích thú trong việc khơi lên ngọn lửa Thập tự chinh chống lại người Hồi giáo ở Âu Châu. Tôi hoàn toàn không. Tôi hoàn toàn không làm việc đó.
“Những nỗi kinh hoàng người Ki-tô hữu đang trải qua cũng là của những nhóm sắc tộc thiểu số khác, bao gồm người Shiites. Tôi không thể giữ im lặng về chuyện này, nhưng tôi không biết phải hành động như thế nào.”
Cha mẹ của Kayla Mueller

Carl và Marsha Mueller, cha mẹ của Kayla Mueller, một nhân viên cứu trợ trẻ và là con tin của ISIS đã bị giết ở Syria, đã có một trong những bài phát biểu đau buồn nhất trong buổi sáng, làm cả phòng đứng dậy và mặc niệm người con gái của họ đã bị hành quyết.

Theo những người đã từng gặp Kayla Jean Mueller, cô là một nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ và là nhân viên cứu trợ nhân đạo quê ở Prescott, Ariz. Cô tình nguyện đi giúp đỡ những cộng đồng nghèo khổ ở Israel và Ấn độ và đi tìm để giúp những trẻ em người Syria có gia đình bị ly tán trước cảnh đẫm máu. Cô bị bắt làm con tin tháng 8 năm 2013 tại Aleppo, Syria, khi vừa ra khỏi một bệnh viện Các Bác sĩ Không biên giới.

Sau đó cô bị những kẻ bắt có giết, với lý do lấy cái chết của cô để bù lại một cuộc không kích của Mỹ.

“Tại buổi gặp gỡ với con gái tôi và kẻ bắt giữ nó xưng tên là ‘Jihadi Johnny,’ hắn nói trọn thời gian, trong khi con gái của chúng tôi vẫn giữ im lặng,” Marcia Mueller nhớ lại , và nói về một người là phát ngôn viên hiện đã chết của ISIS, tên là Mohammed Emwazi, là người đã lồng tiếng vào nhiều video do các tay khủng bố ISIS đăng lên cho thấy những cảnh chặt đầu của một số con tin năm 2014 và 2015. “Rõ ràng là con gái tôi đã quá hoảng sợ bị đánh hay bị giết.”

Bà Mueller tiếp tục, “Jihadi Johnny nói với chúng tôi rằng Kayla được đối xử rất tốt và thực ra nó đã cải đạo sang Hồi giáo. Ngay lập tức, Kayla, nó đã giữ im lặng hoàn toàn, bật kêu lên, ‘Con không bao giờ cải đạo sang Hồi giáo.’ Cả hai chúng tôi rất tự hào về nó.”

Người mẹ tiếp tục, “Con bé là một ngọn đèn sáng cho những ai quen biết nó. Nó viết cho chúng tô trước khi bị bắt cóc về những nỗi khổ mà trẻ em ở Syria đang phải chịu đựng.”

Bahar Zndnan, một cô gái 15 tuổi người Yazidi đã bị cưỡng hiếp nhiều lần, đã có một bài phát biểu chứng thực đầy nước mắt mô tả nỗi đau đớn và sợ hãi mà cô bé phải trải qua khi ở trong tay nhóm Nhà nước Hồi giáo trước khi cô tìm được cơ hội trốn thoát. Gia đình và bạn bè của cô gái không có được may mắn đó.

Nói qua một người thông dịch, Zndnan can đảm đứng trước đám đông cử tọa, mà chắc chắn là phải lấy hết can đảm, vì tất cả mọi người có mặt đều biết rõ những gì cô bé đã trải qua trong tay của của nhóm ISIS.

Cô gái nói, “Cháu đã bị cưỡng hiếp liên tục. Cháu bị bán qua bán lại. Cháu bị đánh. Cháu bị bỏ đói. Cháu bị đe dọa. Nhưng cháu may mắn thoát được. Bây giờ cháu có mặt ở đây. Cháu muốn có hòa bình. Tất cả mọi người chúng cháu đều muốn hòa bình.”
Cha Al-Bazi

Cha Douglas Al-Bazi, một linh mục quản xứ Công giáo người Syria ở Erbil, Iraq, là một trong những người phát biểu rất cay đắng trong buổi họp. Cha nói về sự tra tấn cha phải chịu khi là một tù nhân của ISIS.

Cha Al-Bazi nói, “Chúng tôi không được ở cùng một thứ bậc xã hội như người Hồi giáo. Chúng tôi là công dân tầng lớp thứ 3 trong đất nước. Điều này không có gì mới. Nó đã bắt đầu nhiều năm trước khi các nhóm quân Hồi giáo chiếm đóng vùng này từ thế kỷ thứ 7. Đây là yếu tố cốt lõi cách những người Ki-tô hữu bị đối xử ở những quốc gia Hồi giáo chiếm đa số.”

“Khi chúng tôi bị nhóm Daesh đe dọa, những công dân đẳng cấp trên và quân đội không đến giúp chúng tôi,” cha Al-Bazi giải thích. “Nhưng, thậm chí trong suốt thời gian tạm gọi là bình yên dưới thời Saddam Hussein, chúng tôi vẫn bị coi như ‘người ngoại Hồi giáo’; đây là một ngòi nổ cho các vấn đề ở một quốc gia Hồi giáo chiếm đa phần.”

“Đây là lý do tại sao họ đánh dấu chúng tôi bằng ký tự N trong tiếng Ả-rập để nã pháo và phá hủy nhà cửa: để làm nhục chúng tôi; để nhắc chúng tôi biết rằng chúng tôi không giá trị bằng họ.”

“Xin hãy lắng nghe các nạn nhân,” Cha Al-Bazi kêu gọi những ai đang phản bác lại tuyên bố tình trạng bạo lực diệt chủng người Ki-tô hữu là một vu khống bất công chống lại những người Hồi giáo. “XIn đừng bắt chúng tôi im lặng. Đây là sự diệt chủng. Quý vị đã quên đi các nạn nhân khi người ta mất thời gian bàn luận về việc: đây có phải là kết quả của Hồi giáo hay không?”

“Vậy thì đâu là cách tốt nhất để giúp những Ki-tô hữu đang bị đối xử bất công và bị giết ở những quốc gia đa phần là là Hồi giáo?” cha Al-Bazi nói. “Chúng ta phải đưa vụ này lên mức độ diệt chủng — đây là một con đường đúng để đối lại với những gì đang xảy ra.

“Chúng ta phải bắt buộc và cố gắng thay đổi hiến pháp ở những quốc gia Hồi giáo có cộng đồng thiểu số Ki-tô hữu. Đó là hy vọng duy nhất chúng tôi có được.”

Thông tín viên Angelo Stagnaro tường thuật từ New York.


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 06/05/2016]