Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2019

‘Cha lao thẳng đến các thánh tích’: Cha tuyên úy cứu hỏa cứu được Vương miện Gai

‘Cha lao thẳng đến các thánh tích’: Cha tuyên úy cứu hỏa cứu được Mão Gai

‘Cha lao thẳng đến các thánh tích’: Cha tuyên úy cứu hỏa cứu được Vương miện Gai


16 tháng Tư, 2019

Thật là ý trời, tên họ của cha có nghĩa là “người giữ lửa”

Trong khi toàn thế giới hoan hô công việc kỳ diệu của những người lính cứu hỏa Paris, một con người đặc biệt — cha tuyên úy của họ — đã đi vào trái tim của người Công giáo.

Cha Jean-Marc Fournier lao vào ngọn lửa với một sứ mạng: cứu Chúa trong hình Bánh Thánh, và cứu thánh tích quý báu nhất của Nhà thờ Đức Bà, vương miện bằng gai được tin là đã cắm sâu những mũi gai vào đầu của Đức Ki-tô trong cuộc Thương Khó của Người, một trong những cây đinh của cuộc đóng đinh, và một mảnh gỗ của Thập giá.

Một nguồn tin của dịch vụ cấp cứu trích dẫn Daily Mail cho biết: “Cha Fournier quả thật là một anh hùng.”

“Ngài không tỏ một chút sợ hãi nào khi ngài lao thẳng đến các thánh tích bên trong Vương cung Thánh đường, và cố gắng cứu thoát chúng. Ngài đối mặt giữa sự sống và cái chết mỗi ngày, và không hề tỏ ra sợ hãi.”

Trong khi những tấm hình với cảnh như địa ngục được đăng tải, nhiều người biết các báu vật mà Nhà thờ Đức Bà sở hữu, đã nín thở vì sợ rằng Vương miện Gai có thể bị cháy thành tro. Tuy nhiên, Vương miện này là điểm lao đến thứ hai cho Cha Fournier, sau khi cứu được nhà tạm và bảo toàn được Mình Thánh.

Thật thú vị, đây không phải là lần đầu tiên Cha Fournier phải đối mặt với thảm họa và sự nguy hiểm.

Năm 2015, trong vụ tấn công khủng bố ở Paris đã cướp đi sinh mạng 89 người tại buổi trình diễn ca nhạc của nhóm Eagles of Death Metal, cha là một trong những người lao vào để an ủi những người bị thương.

Lúc xảy ra vụ xả súng, Cha Fournier chỉ đơn thuần nói, “Tôi ban phép xá tội tập thể, như Giáo hội Công giáo cho phép tôi.”

Những tình huống khẩn cấp không phải là kinh nghiệm gì mới đối với Cha Fournier, 50 tuổi, người gia nhập các lực lượng quân sự địa phận năm 2004 và trải qua 7 năm làm việc với quân đội trên khắp thế giới. Trong suốt thời gian đó cha đã có mặt trong cuộc phục kích ở Afghanistan trong đó đã cướp mất sinh mạng của 10 người lính. Cha nói về thời gian trong quân đội của mình:

“Trong chuyến đi đầu tiên của tôi đến Afghanistan, tôi bị sự sợ hãi xâm chiếm con người – mọi thứ tôi nhìn thấy đều có thể là nguy hiểm, như chúng tôi đã được học trong các khóa huấn luyện.”



[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 18/4/2019]


Bài giảng Lễ Truyền Dầu của Đức Thánh Cha

Bài giảng Lễ Truyền Dầu của Đức Thánh Cha
Lễ Truyền Dầu của Đức Thánh Cha 2019 © Zenit/María Langarica

Bài giảng Lễ Truyền Dầu của Đức Thánh Cha

‘Tôi tin rằng đây là bước khởi đầu của tính giáo sĩ trị: với mong muốn có sự bảo đảm cho bữa ăn và sự thoải mái cá nhân mà không hề quan tâm đến người khác’

18 tháng Tư, 2019 11:12

Dưới đây là bản dịch (tiếng Anh) của Vatican cung cấp bài giảng của Đức Thánh Cha trong Lễ Truyền Dầu trong Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô sáng nay:


***

Tin mừng theo Thánh Lu-ca mà chúng ta vừa lắng nghe khiến chúng ta hồi tưởng lại sự phấn khởi của giây phút khi Chúa lấy lời của ngôn sứ I-sai-a chỉ về chính mình, khi Ngài trịnh trọng đọc nó giữa những người trên quê hương của Ngài. Hội đường Na-da-rét đầy những người thân thuộc, hàng xóm, người quen, bạn bè … của Ngài. Mọi người chăm chú nhìn Ngài. Giáo hội luôn chăm chú nhìn lên Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng được Xức Dầu, được Thần Khí sai xuống để xức dầu cho dân Thiên Chúa.

Các Tin mừng thường trình bày cho chúng ta hình ảnh này của Chúa ở giữa một đám đông, bị mọi người vây quanh và xô đẩy để tiến đến Ngài cùng với những người bệnh, họ xin Ngài xua đuổi các tà thần, họ lắng nghe những lời giảng dạy của Ngài và cùng đi với Ngài trên con đường. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10:27-28).

Chúa không bao giờ đánh mất sự liên hệ trực tiếp đó với con người. Giữa các đám đông, Ngài luôn luôn giữ ơn gần gũi với mọi người nói chung, và với mỗi cá nhân. Chúng ta nhìn thấy điều này trong suốt cuộc đời công khai của Ngài, và vì thế ngay từ ban đầu: ánh hào quang của Chúa Con nhẹ nhàng cuốn hút những mục đồng, các vua và những người già mang ước mơ như ông Si-mê-on và bà An-na. Vì thế trên thập già: Trái tim của Ngài kéo mọi người đến gần với Ngài (Ga 12:32): bà Ve-rô-ni-ca, kẻ trộm, viên đại đội trưởng … 

Cách nói “đám đông” không có ý xem thường. Có thể đối với một số người, nó gợi lên một đám đông không có khuôn mặt, không có tên tuổi … Nhưng trong Tin mừng chúng ta nhìn thấy rằng khi đám đông tương tác với Chúa – Đấng đứng giữa họ như một mục tử giữa đoàn chiên của mình – liền có một điều gì đó xảy ra. Tận trong sâu thẳm, mọi người cảm thấy khao khát đi theo Chúa Giê-su, sự kinh ngạc lớn lên, sự phân định nhanh chóng phát triển.

Cha muốn cùng anh chị em suy tư về ba ơn là nét đặc trưng cho mối quan hệ giữa Chúa Giê-su và đám đông.

Ơn tìm đến, Thánh Lu-ca nói rằng những đám đông “tìm đến Chúa Giê-su” (4:42) và “cùng đi với Ngài” (14:25). Họ “chen lấn” và xô đẩy Người” (8:42-45); họ “tuôn đến để nghe Người” (5:15).

“Sự tìm đến” của họ là một điều gì đó hoàn toàn bất ngờ, vô điều kiện và đầy cảm mến. Nó đối nghịch với sự nhỏ nhen của các môn đệ, thái độ của họ với người dân có phần tàn nhẫn khi họ đề nghị với Chúa rằng Ngài phải giải tán họ, để họ kiếm cái gì đó để ăn.

Tôi tin rằng đây là bước khởi đầu của tính giáo sĩ trị: với mong muốn có sự bảo đảm cho bữa ăn và sự thoải mái cá nhân mà không hề quan tâm đến người khác. Chúa cắt đứt ngay cám dỗ đó: “Các con hãy cho họ ăn!” là câu trả lời của Chúa Giê-su. “Hãy chăm sóc dân chúng!”

Ơn ngạc nhiên

Ơn thứ hai mà đám đông nhận được khi họ đi theo Chúa Giê-su là ơn đầy sự ngạc nhiên. Người ta ngạc nhiên bởi Chúa Giê-su (Lc 11:14), bởi những phép lạ, nhưng trên hết bởi chính con người của Ngài. Người ta thích được gặp Ngài trên đường, để nhận phúc lành của Ngài và chúc lành cho Ngài, như người phụ nữ ở giữa đám đông chúc phúc Mẹ Người. Chính Chúa cũng ngạc nhiên trước niềm tin của mọi người; Ngài vui mừng và không bỏ lỡ cơ hội để nói về nó.

Ơn biết phân định

Ơn thứ ba mà người dân được đón nhận là ơn biết phân định. “Đám đông dân chúng biết thế [nơi Chúa Giê-su đến], liền đi theo Người” (Lc 9:11). Họ “sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mt 7:28-29; x. Lc 5:26). Đức Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, đánh thức trong mọi người đặc sủng phân định này, chắc chắn đó không phải là sự phân định của những người chuyên gia trong các câu hỏi tranh luận. Khi những người Pha-ri-sêu và những thầy thông luật tranh luận với Ngài, điều mà dân chúng nhận ra là uy quyền của Chúa Giê-su, uy quyền của lời dạy của Ngài chạm đến tâm hồn của họ, và sự thật là các tà thần phải tuân phục Ngài (ngay lập tức làm cho những người muốn đưa ngài vào bẫy bằng những câu hỏi của họ phải nín lặng; dân chúng thích điều đó).

Chúng ta nhìn gần hơn vào cách Tin mừng mô tả đám đông. Lu-ca chỉ ra bốn nhóm đám đông rất lớn là những người được thụ hưởng việc xức dầu của Chúa: người nghèo, người mù, người bị áp bức và người bị giam cầm. Ngài nói về họ bằng những cụm từ tổng quát, nhưng rồi chúng ta vui mừng khi nhìn thấy rằng, trong suốt cuộc đời của Chúa, những người được xức dầu này dần dần có những tên và những khuôn mặt rõ ràng. Khi dầu được xức trên một phần thân thể, kết quả tốt lành của nó lan tỏa đi khắp thân thể. Cũng như vậy, Chúa lấy lời sứ ngôn của I-sai-a, đặt tên cho “những đám đông” khác nhau là những người mà Thần Khí sai Ngài đến với họ, tùy theo điều mà chúng ta có thể gọi là một “sự ưu ái bao gồm”: ơn sủng và đặc sủng được trao ban cho một người hay một nhóm người có kết quả âm vang sự tốt lành đến cho tất cả mọi người, giống như mọi hoạt động của Thần Khí.

Người nghèo (tiếng Hy lạp là ptochoi) là những người phải cong lưng xuống, như những người hành khất cúi mình xin của bố thí. Người nghèo (ptochè) cũng vậy, như người đàn bà góa được xức dầu bằng những ngón tay của bà với hai đồng kẽm là tất cả những gì bà có để sống trong ngày hôm đó. Việc xức dầu của người đàn bà góa đóng góp của bố thí chẳng thu hút được sự chú ý của bất kỳ con mắt của người nào ngoại trừ Chúa Giê-su, là người trìu mến nhìn đến sự nhỏ bé của bà. Qua bà, Chúa có thể hoàn thành trọn vẹn việc loan báo Tin mừng cho người nghèo.

Nghịch lý thay, các môn đệ nghe được tin vui mà những người như bà sống. Bà – một người phụ nữ quảng đại – không hề tưởng tượng rằng bà lại “được đưa vào Tin mừng,” rằng hành động đơn sơ của bà lại được ghi vào trong Tin mừng. Cũng như tất cả những người nam và nữ là “những thánh nhân hàng xóm,” bà hân hoan trong lòng vì những hành động của bà “rất nặng ký” trong Nước Trời, và đáng giá hơn tất cả những sự giàu có trên thế gian.

Người mù được đại diện bởi một trong những nhân vật được yêu thích nhất trong Tin mừng: Ba-ti-mê (x. Mt 10:46-52), một người hành khất mù lấy lại được đôi mắt sáng, và từ giây phút đó chỉ có đôi mắt để đi theo Chúa Giê-su trên con đường của Ngài. Việc xức dầu của cái nhìn! Cái nhìn của chúng ta, cái nhìn mà chỉ ánh mắt của Chúa Giê-su mới có thể phục hồi lại ánh sáng bằng một tình yêu nhưng không, ánh sáng đó mỗi ngày bị đánh cắp dần dần bởi những hình ảnh hấp dẫn và vô vị của thế gian bủa vây chúng ta. Nói đến những người bị áp bức (tiếng Hy lạp là tethrausmenoi), Thánh Lu-ca sử dụng một từ có hàm chứa ý tưởng về một “trauma” (người bị thương). Từ ngữ đó đủ để gợi lên dụ ngôn về người Sa-ma-ri Tốt lành – có lẽ là từ ngữ yêu thích nhất của Thánh Lu-ca – người dùng dầu xức và băng bó những vết thương (traumata: Lc 10:34) của người đàn ông bị những kẻ cướp đánh đập tàn nhẫn và để nằm bên vệ đường. Việc xức dầu cho da thịt bị thương tổn của Đức Ki-tô! Trong việc xức dầu đó chúng ta tìm được phương thuốc chữa lành cho tất cả những người bị thương tổn trong đó gồm những cá nhân mỗi người, những gia đình và toàn thể các dân tộc bị quên lãng, bị loại trừ và bị gạt bỏ, bên lề của lịch sử.

Người bị giam cầm là những tù nhân chiến tranh (tiếng Hy lạp là aichmalotoi), những người bị đưa ra trước mũi giáo (aichmé). Chúa Giê-su sử dụng cùng một từ để nói về việc chiếm thành Giê-ru-sa-lem là thành trì thân thương của Ngài, và sự lưu đày của dân thành (Lc 21:24). Các thành phố của chúng ta hôm nay không trở thành tù nhân đến mức phải đứng trước mũi giáo như ngày xưa, nhưng bởi những phương tiện thuộc địa hệ tư tưởng tinh vi.

Chỉ bằng việc xức dầu văn hóa, được xây dựng bằng sức lao động và nghệ thuật của cha ông chúng ta, thì mới giải thoát các thành phố của chúng ta khỏi những hình thức nô lệ mới này.

Về phần chúng ta, thưa các anh em linh mục thân yêu, chúng ta không được quên rằng những gương mẫu rao giảng phúc âm của chúng ta là “những người” đó, là “đám đông” với những khuôn mặt thật, mà việc xức dầu của Chúa nâng dậy và làm hồi sinh.

Họ là những người làm cho việc xức dầu của Thần Khí trong chúng ta trở nên trọn vẹn và xác thực; họ là những người mà chúng ta được xức dầu để xức dầu họ. Chúng ta được chọn ở giữa họ, và chúng ta đừng e sợ đồng nhất hóa mình với những người này. Họ là hình ảnh của linh hồn chúng ta và là một hình ảnh của Giáo hội. Mỗi người họ là hiện thân của một tâm hồn của dân tộc chúng ta.

Người linh mục chúng ta là người nghèo và chúng ta cần phải có tâm hồn của bà góa nghèo khi chúng ta làm phúc bố thí, chạm đến bàn tay của người hành khất và nhìn vào đôi mắt của họ. Người linh mục chúng ta là những Ba-ti-mê, và mỗi sáng thức dậy chúng ta cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin cho con được đôi mắt sáng.” Ở một mức độ tội lỗi nào đó của chúng ta, người linh mục là người đàn ông bị đánh đập bởi những kẻ cướp. Và trước hết chúng ta muốn được ở trong bàn tay đầy lòng trắc ẩn của người Sa-ma-ri Tốt lành, để rồi từ đó có khả năng thể hiện lòng trắc ẩn với người khác bằng đôi bàn tay của chúng ta.

Tôi thú thật với anh em rằng bất cứ khi nào tôi truyền chức, tôi thích làm vấy bẩn trán và bàn tay của người tôi xức dầu bằng dầu thánh hiến. Trong cách xức dầu dư tràn như vậy, chúng ta có thể cảm nhận rằng việc xức dầu của chúng ta đang được đổi mới. Tôi muốn nói như vầy: chúng ta không phải là những người phân phát dầu được đóng trong chai. Chúng ta xức dầu bằng việc phân phát chính bản thân của chúng ta, phân phát ơn gọi và tâm hồn của chúng ta. Khi chúng ta xức dầu người khác, là chính chúng ta được xức dầu một lần nữa bằng đức tin và lòng yêu mến của con người. Chúng ta xức dầu bằng cách làm bẩn đôi bàn tay của chúng ta khi chạm đến những vết thương, những tội lỗi và những điều lo lắng của con người. Chúng ta xức dầu bằng cách xức dầu thơm cho bàn tay chúng ta khi chạm đến đức tin của họ, những hy vọng, lòng trung thành và lòng quảng đại cho đi vô điều kiện của họ.

Những ai học được cách xức dầu và chúc phúc lành thì được chữa lành khỏi sự ích kỷ, lạm dụng và độc ác.

Qua cách cùng đặt mình ở giữa dân của chúng ta cùng với Chúa Giê-su, nguyện xin Chúa Cha đổi mới Thần Khí của sự nên thánh tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta; xin Người ban cho chúng ta trở thành người biết khẩn xin lòng thương xót cho dân được trao phó dưới sự chăm sóc của chúng ta và cho toàn thế giới. Bằng cách này, sự đông đảo của các dân tộc, được Đức Ki-tô tụ họp về, có thể trở thành một dân tộc trung thành của Chúa, là dân tộc sẽ đạt được sự kiện toàn trong Nước Trời (x. Lời cầu nguyện truyền chức linh mục).

[Văn bản chính bài giảng của Đức Thánh Cha: tiếng Ý] [Văn bản dịch (tiếng Anh) của Vatican]

© Copyright – Libreria Editrice Vaticana



[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 18/4/2019]