Thứ Tư, 8 tháng 12, 2021

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Đảo Síp và Hy Lạp – Chào đón tại sân bay Athens, Nghi thức nghênh tiếp, thăm ngoại giao Tổng thống nước Cộng hòa, gặp gỡ Thủ tướng và các nhà chức trách, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn, 04.12.2021

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Đảo Síp và Hy Lạp – Chào đón tại sân bay Athens, Nghi thức nghênh tiếp, thăm ngoại giao Tổng thống nước Cộng hòa, gặp gỡ Thủ tướng và các nhà chức trách, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn, 04.12.2021

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Đảo Síp và Hy Lạp – Chào đón tại sân bay Athens, Nghi thức nghênh tiếp, thăm ngoại giao Tổng thống nước Cộng hòa, gặp gỡ Thủ tướng và các nhà chức trách, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn, 04.12.2021


Chào đón tại Sân bay Athens

Nghi thức nghênh tiếp, thăm ngoại giao Tổng thống nước Cộng hòa Hy lạp và gặp gỡ Thủ tướng trong Dinh Tổng thống ở Athens

Gặp gỡ các nhà chức trách, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn

*****

Chào đón tại Sân bay Athens

Sáng nay, lúc 11:05 (10.05 giờ Roma), Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến sân bay quốc tế Athens.

Khi đến nơi, Đức Giáo hoàng được Bộ trưởng Ngoại giao tiếp đón. Bốn thiếu nhi, trong đó có hai thiếu nhi mặc trang phục truyền thống, đã dâng ngài bó hoa tôn vinh. Sau đó, sau nghi thức duyệt đội Danh dự và phần giới thiệu các phái đoàn, Đức Thánh Cha Phanxicô di chuyển bằng xe hơi đến Phủ Tổng thống Athens để tham dự lễ nghênh tiếp tại Hy Lạp.

*****

Nghi thức nghênh tiếp, thăm ngoại giao Tổng thống Cộng hòa Hy Lạp và gặp gỡ Thủ tướng tại Phủ Tổng thống ở Athens

Trưa nay (11.00 giờ Roma), Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Phủ Tổng thống Athens, nơi diễn ra lễ nghênh tiếp ở Hy Lạp.

Khi đến nơi, Giáo hoàng được Bà Katerina Sakellaropoulou, Tổng thống nước Cộng hòa Hy Lạp, đón tiếp. Tiếp theo, sau khi khi chụp ảnh chính thức, duyệt Đội Danh dự và quốc ca, diễn ra phần giới thiệu của các phái đoàn.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha tiến vào phòng làm việc của Tổng thống để thăm xã giao. Trong khi cuộc thăm riêng diễn ra, Đức Hồng y Quốc Vụ khanh gặp gỡ ông Kyriakos Mitsotakis, Thủ tướng nước Cộng hòa Hy Lạp, với sự có mặt của Đức Tổng Giám mục Edgar Peña Parra, Vị thay thế Quốc vụ khanh, Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher, Bộ trưởng Ngoại giao, và Đức Tổng Giám mục Savio Hon Tai-Fai, SDB, Sứ thần Tòa thánh tại Hy Lạp.

Kết thúc buổi gặp gỡ, Tổng thống Cộng hòa đã tháp tùng Đức Giáo hoàng ra thang máy. Sau đó, Đức Thánh Cha được Thủ tướng tiếp đón, và hai vị cùng nhau tiến đến hội trường nơi diễn ra cuộc họp riêng.

Kết thúc cuộc gặp gỡ, Đức Giáo hoàng và Thủ tướng xuống tầng trệt, nơi hai vị được Tổng thống Cộng hòa đang chờ đợi. Sau đó, họ tiến đến hội trường nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với các nhà chức trách, xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn.

*****

Gặp gỡ các nhà chức trách, xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn

Hôm nay, lúc 12:45 (11:45 giờ Rome), Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các nhà chức trách chính trị và tôn giáo, các thành viên của Đoàn Ngoại giao và đại diện xã hội dân sự tại Phủ Tổng thống Athens.

Sau diễn văn chào mừng của Tổng thống Cộng hòa Hy Lạp, Bà Katerina Sakellaropolou, Đức Giáo hoàng đã đọc diễn từ của ngài.

Kết thúc cuộc họp, Đức Thánh Cha và Tổng thống Cộng hòa tiến đến căn phòng nơi Đức Thánh Cha Phanxicô ký Sổ Danh dự. Sau nghi thức trao đổi quà, Đức Thánh Cha Phanxicô rời Phủ Tổng thống và di chuyển bằng ôtô đến tòa Sứ thần Tòa thánh ở Athens, tại đây, khi đến nơi, ngài được các nhân viên của Tòa Sứ thần tiếp đón.

Sau đây là bài diễn từ của Đức Thánh Cha trong cuộc gặp gỡ:

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Đảo Síp và Hy Lạp – Chào đón tại sân bay Athens, Nghi thức nghênh tiếp, thăm ngoại giao Tổng thống nước Cộng hòa, gặp gỡ Thủ tướng và các nhà chức trách, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn, 04.12.2021

Diễn từ của Đức Thánh Cha

Thưa Bà Tổng thống nước Cộng hòa,

Thưa các thành viên Chính phủ và Ngoại giao đoàn,

Thưa các vị hữu trách tôn giáo và xã hội dân sự,

Các vị đại diện xã hội và văn hóa,

Thưa quý ông quý bà,

Tôi xin gửi tới quý vị lời chào thân ái nhất và tôi cảm ơn Bà Tổng thống vì những lời chào mừng của Bà nhân danh Bà và tất cả các công dân Hy Lạp. Thật vinh dự khi được ở thành phố lộng lẫy này. Tôi lấy những lời của Thánh Grêgôriô thành Nazianzus cho riêng mình: “Athens vàng ánh, bảo trợ cho tất cả những gì tốt đẹp… Khi tìm kiếm ngôn ngữ để hùng biện, tôi đã tìm thấy niềm hạnh phúc” (Or. 43, 14). Tôi đến đây như một người hành hương đến vùng đất giàu tinh thần, văn hóa và văn minh này, để tìm kiếm niềm hạnh phúc giống như vị đại Giáo phụ: niềm vui của việc trau dồi sự khôn ngoan và chia sẻ cái đẹp. Một niềm hạnh phúc không riêng tư và đơn độc, mà được sinh ra từ sự kinh ngạc, khao khát sự vô biên và mở ra cho cộng đồng; một niềm hạnh phúc tràn đầy khôn ngoan mà từ đây lan tỏa khắp nơi. Nếu không có Athens và không có Hy Lạp, Châu Âu và thế giới sẽ không như họ ngày nay. Họ sẽ kém khôn ngoan hơn, ít hạnh phúc hơn.

Từ nơi này, những chân trời của nhân loại được rộng mở. Tôi cũng cảm thấy được mời gọi để nâng tầm nhìn của mình và chăm chú chiêm ngắm điểm cao nhất của thành phố, Acropolis. Có thể nhìn thấy từ xa với những du khách đặt chân đến đây qua hàng thiên niên kỷ, chắc chắn nó chứng tỏ cho sự hiện diện của nước trời, lời kêu gọi mở rộng tầm nhìn của chúng ta hướng đến những gì ở trên cao.

Từ đỉnh Olympus đến Acropolis đến núi Athos, Hy Lạp mời gọi mọi người ở mọi lứa tuổi hướng hành trình cuộc đời của họ tới những đỉnh cao. Hướng về Thiên Chúa, vì chúng ta cần chiều kích siêu việt để trở thành con người thực sự. Ngày nay, xuất hiện từ đây, phương Tây chúng ta quên mất nhu cầu về thiên đàng, bị mắc kẹt giữa sự quay cuồng của hàng ngàn mối quan tâm thuộc thế gian và lòng tham vô độ của một chủ nghĩa tiêu dùng làm mất nhận thức về thực tại. Tuy nhiên, những nơi như vậy mời gọi chúng ta biết kinh ngạc trước sự vô biên, vẻ đẹp của hữu thể, và niềm vui của đức tin. Đây là những con đường mà Tin Mừng đã đi, hiệp nhất Đông và Tây, các Thánh địa ở Châu Âu, Giêrusalem và Roma. Để mang đến cho thế giới tin vui của Thiên Chúa, người yêu thương nhân loại, các sách Tin mừng đã được viết bằng tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ bất tử trong đó Ngôi Lời – Logos – mặc khải chính mình, ngôn ngữ của trí tuệ con người đã trở thành tiếng nói của Sự khôn ngoan nước trời.

Ở thành phố này, ánh mắt nhìn của chúng ta không chỉ hướng về những gì ở trên cao, mà còn hướng về những người khác. Chúng ta được nhắc nhở về điều này bởi biển cả là biên giới của Athens và là nơi đã định hình cho ơn gọi của vùng đất này, nằm ở trung tâm Địa Trung Hải, là cầu nối các dân tộc khác nhau. Tại đây, các nhà sử học lớn đã tìm cách kể lại lịch sử của những dân tộc gần xa. Ở đây, theo những câu nói lừng danh của Socrates, mọi người bắt đầu coi mình là công dân không riêng của một thành phố, của một quốc gia đơn lẻ, mà là của toàn thế giới. Công dân. Ở đây, con người lần đầu tiên nhận thức được mình là “một động vật có chính trị” (xem ARISTOTLE, Politics, I, 2) và, với tư cách là thành viên của cộng đồng, bắt đầu xem những người khác không phải là đối tượng mà là những người đồng hương, những người cùng làm việc với nhau để tổ chức polis. Tại đây nền dân chủ ra đời. Cái nôi ấy ngàn năm sau đã trở thành ngôi nhà, một ngôi nhà lớn của các đất nước dân chủ. Tôi đang nói về Liên minh Châu Âu, và giấc mơ hòa bình và tình huynh đệ mà nó đại diện cho rất nhiều dân tộc.

Tuy nhiên, chúng ta không thể tránh khỏi sự lo lắng về việc ngày nay, và không chỉ ở Châu Âu, chúng ta đang chứng kiến sự thoái lui khỏi nền dân chủ. Dân chủ đòi hỏi sự tham gia và bao gồm tất cả mọi người; do đó, nó đòi hỏi sự làm việc chăm chỉ và kiên nhẫn. Nó phức tạp, trong khi chủ nghĩa độc tài là độc đoán và những câu trả lời dễ dàng của chủ nghĩa dân túy có vẻ hấp dẫn. Trong một số xã hội, lo lắng về an ninh và bị u mê bởi chủ nghĩa tiêu dùng, sự mệt mỏi và bất mãn có thể dẫn đến một kiểu hoài nghi về dân chủ. Tuy nhiên, sự tham gia phổ quát là một điều cần thiết; không đơn thuần chỉ để đạt được những mục tiêu chung, mà vì nó phù hợp với con người chúng ta: những hữu thể có xã hội tính, đồng thời là duy nhất và phụ thuộc lẫn nhau.

Đồng thời, chúng ta cũng đang chứng kiến ​​sự hoài nghi về nền dân chủ bị kích động bởi khoảng cách của các thể chế, bởi nỗi lo sợ về việc mất bản sắc, bởi bộ máy quan liêu. Phương thuốc điều trị không được tìm thấy trong việc tìm kiếm danh tiếng, trong sự khao khát được chú ý, trong sự ồn ào của những lời hứa phi thực tế hoặc tuân thủ các hình thức thực dân hóa ý thức hệ, nhưng được tìm thấy trong một nền chính trị tốt. Vì chính trị là một điều tốt, và cần phải được thực thi, như là trách nhiệm tối cao của người công dân và là nghệ thuật vì lợi ích chung. Để những điều tốt đẹp có thể thực sự được chia sẻ, tôi thậm chí có thể nói rằng cần phải ưu tiên dành sự quan tâm đặc biệt cho những tầng lớp yếu thế của xã hội. Đây là hướng cần thực hiện. Một trong những người cha sáng lập Châu Âu đã chỉ ra nó như một liều thuốc giải độc cho những sự phân cực đã làm chấn hưng nền dân chủ, nhưng cũng có nguy cơ làm suy yếu nó. Như ông đã nói: “Có nhiều sự bàn luận về việc ai di chuyển sang trái hay phải, nhưng điều quyết định là tiến về phía trước, và tiến về phía trước có nghĩa là tiến tới công bằng xã hội” (A. DE GASPERI, Diễn văn tại Milan, ngày 23 tháng Tư năm 1949). Ở đây, cần phải thay đổi hướng đi, ngay cả khi sự lo sợ và những lý thuyết, được thổi phồng bởi giao tiếp ảo, đang lan truyền hàng ngày để tạo ra sự chia rẽ. Thay vào đó, chúng ta hãy giúp nhau chuyển từ tính đảng phái sang sự tham gia; từ việc cam kết hỗ trợ riêng cho đảng của chúng ta đến việc tham gia tích cực vào việc thăng tiến cho tất cả mọi người. Từ đảng phái đến tham gia. Điều này sẽ thúc đẩy những hành động của chúng ta trên nhiều mặt. Tôi nghĩ đến khí hậu, đại dịch, thị trường chung, và trên hết là các hình thức nghèo đói lan rộng. Đây là những thách thức đòi hỏi sự hợp tác cụ thể và tích cực. Cộng đồng quốc tế cần điều này, để mở ra những con đường hòa bình thông qua một chủ nghĩa đa phương sẽ không bị dập tắt bởi những đòi hỏi quá mức của chủ nghĩa dân tộc. Chính trị cần điều này, nhằm đặt nhu cầu chung lên trước lợi ích riêng. Nó có vẻ là một điều không tưởng, một hành trình vô vọng trên vùng biển đầy giông bão, một cuộc phiêu lưu dài và không thể thực hiện được. Tuy nhiên, như anh hùng ca Hôme vĩ đại đã nói với chúng ta, vượt qua những vùng biển bão tố thường là lựa chọn duy nhất của chúng ta. Và sẽ đạt được mục tiêu nếu nó được thúc đẩy bởi khát khao đến được bến cảng quê hương, bởi sự cố gắng cùng nhau tiến về phía trước, bởi nóstos álgos, nỗi nhớ nhà. Ở đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với sự kiên trì đã dẫn đến Thỏa thuận Prespa được ký kết giữa nước Cộng hòa của quý vị và Cộng hòa Bắc Macedonia.

Một lần nữa nhìn về Địa Trung Hải, vùng biển mở ra cho chúng ta với những người khác, tôi nghĩ đến những bờ biển màu mỡ và loại cây dùng làm biểu tượng của nó: cây ôliu, loại cây vừa kết thúc mùa thu hoạch. Cây ôliu liên kết các miền đất khác nhau tiếp giáp với vùng biển này. Thật đáng buồn là trong những năm gần đây, nhiều cây ôliu lâu năm đã bị thiêu rụi, bị lửa nuốt chửng do những điều kiện thời tiết bất lợi vì biến đổi khí hậu gây ra. Trong bối cảnh thương tích của đất nước phi thường này, cây ôliu có thể tượng trưng cho quyết tâm giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu và sự tàn phá của nó. Sau trận đại hồng thủy thời nguyên thủy theo Kinh thánh, trận Lũ lụt khổng lồ, một con chim bồ câu đã quay trở lại với ông Nôê, mang theo “trong mỏ nó một nhành lá ôliu tươi” (St 8:11). Đó là biểu tượng của sự hồi phục, của sức mạnh để bắt đầu lại bằng cách thay đổi cách sống của chúng ta, đổi mới mối tương quan của chúng ta với Đấng Tạo Hóa, với các sinh vật khác và toàn thể tạo vật. Về điều này, tôi hy vọng rằng những cam kết được đưa ra trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu có thể được chia sẻ đầy đủ hơn và thực hiện nghiêm túc hơn, thay vì chỉ đơn thuần làm trên mặt hình thức. Ước mong rằng lời nói được tiếp nối bằng việc làm, bằng không con cháu một lần nữa phải trả giá cho thói đạo đức giả của cha ông của chúng. Chúng ta nhớ lại những lời mà Hôme đặt lên miệng Achilles: “Hận thù trong mắt tôi, thậm chí như những cánh cổng của Hades, là kẻ giấu giếm một điều trong lòng và nói ra điều khác” (Iliad, IX, 312-313).

Trong Kinh thánh, cây ôliu cũng được liên kết với lời kêu gọi sự giao hảo, đặc biệt đối với những người không thuộc về dân tộc mình. “Khi hái ôliu, thì anh (em) không được trở lại tìm trái sót; những trái đó dành cho ngoại kiều”, Kinh Thánh nói với chúng ta (Đnl 24:20). Đất nước này, chào đón cách tự nhiên, trên một số đảo của nó đã chứng kiến số lượng những anh chị em di cư đến nhiều hơn số cư dân bản địa; điều này càng làm tăng thêm những khó khăn vẫn còn tồn tại do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, Châu Âu cũng tiếp tục trì hoãn: Cộng đồng Châu Âu, là con mồi của những hình thức tư lợi quốc gia, thay vì trở thành động cơ của sự đoàn kết, có những lúc bị ngăn chặn và thiếu phối hợp. Trong quá khứ, những xung đột về ý thức hệ đã ngăn cản việc xây dựng các cầu nối giữa Đông và Tây Âu; ngày nay vấn đề di cư cũng đã dẫn đến những mối bất hòa giữa Nam và Bắc.

Một lần nữa tôi xin động viên một tầm nhìn cộng đồng, toàn cầu về vấn đề di cư, và thúc giục dành sự chú ý cho những người cần thiết nhất, sao cho tương xứng với khả năng của mỗi quốc gia, họ sẽ được chào đón, bảo vệ, được thăng tiến và hòa nhập, được tôn trọng đầy đủ các quyền con người và phẩm giá của họ. Thay vì là một trở ngại hiện tại, điều này đại diện cho sự đảm bảo về một tương lai chung sống hòa bình với tất cả những người bị buộc phải chạy trốn để tìm kiếm một ngôi nhà mới và hy vọng mới. Họ là nhân vật chính của một Odyssey hiện đại khủng khiếp. Tôi muốn nhắc lại rằng khi Odysseus đặt chân đến Ithaca, ông đã được nhận ra không phải bởi các lãnh chúa địa phương, là những kẻ đã chiếm đoạt nhà cửa và tài sản của ông, nhưng bởi người chăm sóc ông, người nuôi dưỡng ông trước đây. Người đó nhận ra ông khi nhìn thấy vết thương của ông. Những đau khổ đưa chúng ta đến với nhau; nhận ra rằng tất cả chúng ta đều là một phần của một nhân loại yếu đuối sẽ giúp chúng ta xây dựng một tương lai hòa bình và hòa nhập hơn. Chúng ta hãy biến những gì tưởng chừng là một tai ương bi thảm thành một cơ hội táo bạo!

Đại dịch là một tai ương lớn. Nó đã khiến chúng ta tái khám phá điểm yếu của mình và nhu cầu chúng ta cần người khác. Ở đất nước này, nó cũng đặt ra một thách thức đòi hỏi những biện pháp can thiệp phù hợp của giới hữu trách – tôi nghĩ đến sự cần thiết của chiến dịch tiêm chủng – và ít người dân phải hy sinh. Giữa khó khăn quá lớn ấy, đã có sự phát triển tình liên đới đáng chú ý, điều mà Giáo hội Công giáo địa phương rất vui được tiếp tục đóng góp, với niềm tin rằng nó đại diện cho một lợi ích sẽ không bị mất đi khi cơn bão dần lắng xuống. Một số câu trong lời thề của Hippocrates dường như được viết cho thời đại của chúng ta, chẳng hạn như cam kết “tuân theo chế độ dinh dưỡng mà tôi đánh giá là tốt nhất vì lợi ích của người bệnh” và “kiêng những gì có hại và gây khó chịu” cho người khác, để bảo vệ sự sống tại mọi thời điểm, đặc biệt là khi còn trong bụng mẹ (xem Lời thề Hippocrate, văn bản cổ). Phải luôn luôn tôn trọng quyền của tất cả mọi người được chăm sóc và điều trị, để những người dễ bị tổn thương nhất, đặc biệt là người già, không bao giờ bị loại bỏ: để người giả không phải là đối tượng của “văn hóa vứt bỏ”. Người già là dấu hiệu của sự khôn ngoan của một dân tộc. Vì sống là một quyền, không phải là chết. Phải chấp nhận cái chết, nhưng không được quản lý nó.

Các bạn thân mến, một số cây ôliu ở Địa Trung Hải rất cổ xưa đến mức chúng có trước khi Chúa Giêsu Kitô đến. Lâu đời, bền bỉ, chống chọi với sự tàn phá của thời gian, chúng nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc gìn giữ cội nguồn sâu xa, được làm vững mạnh bằng sự ghi nhớ. Đất nước này có thể được gọi cách rất đúng là sự ghi nhớ của Châu Âu – các bạn là sự ghi nhớ của Châu Âu – và tôi rất vui được đến thăm hai mươi năm sau chuyến thăm lịch sử của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, và năm này đánh dấu kỷ niệm hai trăm năm độc lập của quốc gia này. Tôi nghĩ đến những lời nổi tiếng của Tướng Kolokotronis: “Thiên Chúa đã đặt chữ ký của Người cho sự tự do của Hy Lạp”. Thiên Chúa sẵn sàng đặt chữ ký của Người cho quyền tự do của con người, luôn luôn và ở mọi nơi. Đó là món quà lớn nhất của Người dành cho chúng ta, món quà mà Người hãnh diện nhất từ ​​chúng ta. Vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta để được tự do, và điều làm Người vui lòng nhất là chúng ta yêu mến Người và yêu thương người lân cận của mình trong tự do. Luật pháp tồn tại để giúp điều này được thực hiện, nhưng cũng để huấn luyện trách nhiệm và phát triển văn hóa tôn trọng. Ở đây, một lần nữa tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với sự công nhận cộng đồng Công giáo, và tôi bảo đảm với các bạn về khát khao của cộng đoàn muốn thúc đẩy ích chung của xã hội Hy Lạp, hướng đến mục tiêu là tính phổ quát ban đầu của nó, với hy vọng rằng khi thực thi, các điều kiện cần thiết để thi hành sự phục vụ của mình cách hiệu quả sẽ luôn được đảm bảo.

Hai trăm năm trước, chính phủ lâm thời của đất nước này đã nói với người Công giáo bằng những lời đầy xúc động này: “Đức Kitô đã truyền lệnh cho chúng tôi phải yêu thương người lân cận của mình. Tuy nhiên, ai trong số những người lân cận của chúng tôi gần gũi hơn các bạn, những người đồng hương của chúng tôi, mặc dù có những khác biệt nhất định về nghi lễ? Chúng ta có cùng quê cha, chúng ta là một dân tộc, người Kitô hữu chúng ta là anh em – anh em trong cội nguồn, trong sự phát triển và trong hoa trái của chúng ta – dưới Thánh Giá”. Trở thành người Kitô hữu dưới dấu thánh giá, trong đất nước được chúc phúc bởi niềm tin và truyền thống Kitô giáo, nó thúc đẩy tất cả các người tín hữu trong Đức Kitô vun trồng sự hiệp thông ở mọi mức độ, nhân danh Thiên Chúa, Đấng ôm lấy tất cả với lòng thương xót của Người. Thưa anh chị em, tôi cảm ơn vì sự cam kết của anh chị em trong vấn đề này và tôi động viên anh chị em hãy hướng dẫn đất nước này đi theo những con đường cởi mở, hòa nhập và công bằng. Từ thành phố này, từ cái nôi của nền văn minh này, ước mong nó tiếp tục vang lên một thông điệp làm cho chúng ta ngước mắt nhìn lên cao và nhìn về những người khác; rằng nền dân chủ có thể là câu trả lời cho những bài hát quyến rũ của chủ nghĩa độc tài; và chủ nghĩa cá nhân và sự thờ ơ bị đánh bại bởi sự quan tâm đến người khác, đến người nghèo và tạo vật. Vì đây là những nền tảng quan trọng cho nhân loại được đổi mới mà thời đại của chúng ta, và Châu Âu của chúng ta, đang rất cần. [Bằng tiếng Hy Lạp:] Xin Chúa chúc phúc cho Hy Lạp!


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 7/12/2021]


Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Đảo Síp và Hy Lạp – Cầu nguyện đại kết với người di cư trong Nhà thờ Thánh Giá ở Nicosia, 03.12.2021

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Đảo Síp và Hy Lạp – Cầu nguyện đại kết với người di cư trong Nhà thờ Thánh Giá ở Nicosia, 03.12.2021

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Đảo Síp và Hy Lạp – Cầu nguyện đại kết với người di cư trong Nhà thờ Thánh Giá ở Nicosia, 03.12.2021


Cầu nguyện đại kết với người di cư trong Nhà thờ Thánh giá ở Nicosia

Vào buổi chiều, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến Nhà thờ Thánh Giá ở Nicosia để tham dự giờ cầu nguyện đại kết với những người di cư.

Khi đến nơi, ngài được Đức Pierbattista Pizzaballa, Thượng phụ Latinh của Giêrusalem, đón tại bàn thờ vào trao cho ngài nước thánh để rảy. Sau bài thánh ca mở đầu, lời chào của Đức Thượng Phụ Latinh và những chứng ngôn của một thành viên Caritas tại Cyprus và bốn thanh niên di cư, Đức Thánh Cha đã đọc diễn từ của ngài.

Cuối cùng, sau giờ cầu nguyện đại kết, đọc Kinh Lạy Cha và ban phép lành sau cùng, một món quà được dâng lên Đức Thánh Cha. Trước khi trở lại Tòa Khâm sứ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ và chào các thành viên của Sáng kiến Religious Track.

Trước khi rời khỏi Nhà thờ Thánh Giá, Đức Thánh Cha gặp gỡ một số người tị nạn, những người sẽ được chuyển từ Síp đến Ý trong những tuần sắp tới, như một dấu hiệu cho sự quan tâm của Đức Thánh Cha đối với các gia đình và người di cư, theo một thỏa thuận giữa Phủ Quốc vụ khanh, với các cơ quan có thẩm quyền của Ý và Síp, và sự hợp tác với Phân bộ Người di cư và Tị nạn của Bộ Thúc đẩy sự Phát triển Con người Toàn diện của Tòa Thánh và Cộng đoàn Sant'Egidio.

Sau đây là diễn từ của Đức Thánh Cha trong buổi cầu nguyện đại kết tại Nhà thờ Thánh Giá ở Nicosia:

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Đảo Síp và Hy Lạp – Cầu nguyện đại kết với người di cư trong Nhà thờ Thánh Giá ở Nicosia, 03.12.2021

Diễn từ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến,

Thật là một niềm vui lớn khi được ở đây với anh chị em và kết thúc chuyến thăm của tôi đến Đảo Síp bằng buổi gặp gỡ cầu nguyện này. Tôi xin cảm ơn Đức Thượng phụ Pizzaballa và Đức Béchara Raï, và Bà Elisabeth của Caritas. Tôi xin gửi lời chào thân ái và lòng biết ơn anh chị em đại diện của các nền tảng tuyên xưng Kitô giáo khác nhau hiện diện tại Síp.

Từ trong tâm khảm, cha muốn nói lời “cảm ơn” thật lớn đến các con, những người thanh niên di cư đưa ra những lời chứng của mình. Cha đã nhận được các bản sao của các chứng ngôn khoảng một tháng trước. Chúng để lại ấn tượng sâu đậm với cha, và hôm nay cha được nghe lại một lần nữa. Không chỉ đơn thuần là cảm xúc, cha có cảm thức mạnh mẽ đến từ việc được gặp gỡ cái đẹp của sự thật. Chúa Giêsu đã xúc động như thế khi kêu lên: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11:25). Cha cũng dâng lời ngợi khen Cha trên trời vì điều này đang xảy ra hôm nay, ở đây và trên khắp thế giới. Thiên Chúa đang cho thấy Vương quốc của Người, Vương quốc của tình yêu, công lý và hòa bình, cho những người bé mọn.

Sau khi nghe các con nói, chúng ta hiểu rõ hơn tất cả sức mạnh tiên tri của lời Chúa, qua lời của Thánh Tông đồ Phaolô nói với chúng ta: “Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa” (Êp 2,19). Những lời đó được gửi đến những người Kitô hữu ở Êphêsô nhiều thế kỷ trước, nơi cách đây không xa, nhưng những lời đó vẫn phù hợp hơn bao giờ hết, như thể chúng được viết cho chúng ta ngày nay: “Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương”. Đây là lời tiên tri của Giáo hội: một cộng đồng, với tất cả những giới hạn của con người, là hiện thân cho ước mơ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cũng ước mơ, giống như con, Mariamie, đến từ Cộng hòa Dân chủ Congo, con đã mô tả mình là “người đầy những ước mơ”. Giống như con, Thiên Chúa mơ ước về một thế giới hòa bình, trong đó tất cả con cái của Người sống như anh chị em. Thiên Chúa muốn điều này, Thiên Chúa mơ ước điều này. Chúng ta lại là những người không muốn điều đó.

Thưa các anh chị em di cư, sự hiện diện của anh chị em có ý nghĩa rất lớn cho buổi cử hành này. Những lời chứng của anh chị em giống như một “tấm gương” soi cho chúng ta, cho các cộng đoàn Kitô chúng ta. Khi Thamara, đến từ Sri Lanka, nói với chúng ta rằng mọi người thường hỏi, “Bạn là ai?”: Kinh nghiệm đau đớn của cuộc di cư khiến thân phận của chúng ta bị nghi ngờ. “Đây có phải là tôi không? Tôi không biết… Nguồn cội của tôi ở đâu? Tôi là ai?” Khi con đặt những câu hỏi này, con nhắc chúng ta rằng đôi khi chúng ta cũng được hỏi cùng một câu hỏi: “Bạn là ai?” Và thật đáng buồn, thường thì ngụ ý thật sự được hỏi là: “Bạn đứng về phe nào?”, “Bạn thuộc nhóm nào?” Tuy nhiên, như con đã nói, chúng ta không phải là những con số, những cái tên trên một danh sách; chúng ta là “anh chị em”, là “bạn bè”, là “người có lòng tin”, là “hàng xóm” của nhau. Tuy nhiên, khi những lợi ích phe nhóm hoặc chính trị, bao gồm cả lợi ích của các quốc gia, bắt đầu thúc đẩy, nhiều người trong chúng ta cuối cùng bị gạt sang một bên và dù không muốn, vẫn trở thành nô lệ. Vì lợi ích luôn đưa vào vòng nô lệ, nó luôn tạo ra những nô lệ. Tình yêu, trải rộng và nghịch lại với thù hận, làm cho chúng ta tự do.

Khi Maccolins, người đến từ Cameroon, nói với chúng ta rằng trong suốt chặng đường đời, con đã bị “thương tổn bởi sự thù ghét”, con nói về điều này, về những vết thương do lợi ích gây ra: và con nhắc nhở chúng ta rằng sự thù ghét cũng đã đầu độc các mối tương quan giữa chúng ta là những người Kitô hữu. Và điều này như con đã nói, làm chúng ta thay đổi; nó để lại dấu ấn sâu sắc và lâu dài. Nó là một chất độc. Đúng, con đã khiến chúng tôi cảm nhận được điều này bởi cảm xúc mạnh khi con nói. Thù ghét là một liều thuốc độc khó loại bỏ, một quan niệm xấu xa, thay vì cho phép chúng ta coi mình như anh chị em, lại khiến chúng ta coi nhau là kẻ thù, là đối thủ, hoặc thậm chí là những đồ vật để bán hoặc bóc lột.

Khi Rozh, đến từ Iraq, nói rằng con là người “đang trên một hành trình”, con nhắc nhở chúng ta rằng bản thân chúng ta là một cộng đồng đang trên hành trình; chúng ta đang đi từ xung đột đến kết hợp. Trên con đường dài và có những thăng trầm này, chúng ta không nên e ngại sự khác biệt của chúng ta, nhưng hãy sợ tư tưởng khép kín và định kiến ​​có thể cản trở chúng ta không thật sự gặp nhau và cùng nhau lên đường. Tư tưởng khép kín và thành kiến ​​đã dựng lại bức tường chia rẽ, sự thù địch giữa chúng ta, mà Đức Kitô đã phá đổ (x. Ep 2:14). Hành trình của chúng ta hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn chỉ có thể tiến tới khi chúng ta cùng nhau chăm chú nhìn vào Chúa Giêsu, vào Đấng là “sự bình an của chúng ta” (sđd), “đá tảng góc tường” (c. 20). Chính Chúa Giêsu, Đấng mà chúng ta gặp trên khuôn mặt của những anh chị em bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị loại bỏ. Đứng trước những người di cư bị khinh miệt, bị từ chối, bị nhốt vào lồng, bị bóc lột… Nhưng đồng thời – như con nói – khuôn mặt của người di cư đang hành trình đến một mục tiêu, đến một niềm hy vọng, đến tình bằng hữu con người lớn hơn …

Trong những cách này, Chúa nói với chúng ta qua những giấc mơ của các con. Điều nguy hiểm đó là nhiều khi chúng ta không để cho ước mơ xuất hiện, thà ngủ chứ không mơ. Rất dễ để nhìn theo hướng khác. Và trong thế giới này, chúng ta đã quá quen với một văn hóa thờ ơ, một văn hóa nhìn theo hướng khác và từ đó ngủ yên. Tuy nhiên, cách đó không thể mơ ước. Chúa nói qua giấc mơ của các con. Chúa không nói qua những người không có ước mơ, vì họ có tất cả hoặc vì trái tim họ chai đá. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta không bằng lòng với một thế giới bị chia rẽ, bằng lòng với các cộng đoàn Kitô giáo bị chia rẽ, nhưng hành trình xuyên suốt lịch sử theo ước mơ của Người: ước mơ về một nhân loại được giải thoát khỏi các bức tường chia rẽ, thoát khỏi sự thù địch, nơi không còn những người xa lạ, nhưng chỉ là những người đồng hương, như chúng ta đã nghe Thánh Phaolô nói trong trích đoạn cha vừa đề cập. Những người đồng hương đa dạng, nhưng tự hào về sự đa dạng và tính cách riêng đó, đó là những món quà của Chúa. Đa dạng, tự hào là đa dạng, nhưng luôn hòa thuận, luôn là anh chị em.

Cầu mong cho hòn đảo này, bị đánh dấu bởi sự chia rẽ đau đớn – tôi có thể nhìn thấy bức tường đó từ đây – nhờ ân sủng của Chúa sẽ trở thành một xưởng xây dựng tình huynh đệ. Tôi cảm ơn tất cả những người đang làm việc để biến điều đó thành hiện thực. Chúng ta phải nhận ra rằng hòn đảo này rất hào phóng, nhưng nó không thể làm được tất cả mọi việc, vì số lượng người đến nhiều hơn khả năng tiếp nhận, hội nhập, đồng hành và thăng tiến. Sự gần gũi về địa lý của nó có thể làm cho nó dễ dàng hơn ... nhưng không phải là dễ dàng. Chúng ta phải hiểu các giới hạn mà các nhà lãnh đạo của hòn đảo bị ràng buộc. Nhưng trên đảo này, và tôi đã thấy điều này ở những nhà lãnh đạo mà tôi gặp một cam kết trở thành, nhờ ơn Chúa, trở thành xưởng xây dựng tự do. Và nó sẽ xảy ra, nếu hai điều sau có thể xảy ra. Thứ nhất, sự công nhận hữu hiệu phẩm giá của mỗi con người (xem Tông huấn Fratelli Tutti, 8). Phẩm giá của chúng ta không phải để bán; nó không thể cho thuê; cũng không được phung phí nó. Hãy ngẩng cao đầu và nói: Tôi là con của Chúa; Tôi có phẩm giá của tôi. Việc công nhận phẩm giá này cách hữu hiệu là nền tảng đạo đức, một nền tảng phổ quát, cũng là cốt lõi của giáo lý xã hội Kitô giáo. Thứ hai, sự mở lòng tin cậy Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người; đây là “men bột” mà người tín hữu chúng ta được kêu gọi để dâng lên (xem sđd, 272).

Nếu hai điều này có thể xảy ra, giấc mơ có thể chuyển thành một hành trình hàng ngày, được tạo thành từ những bước đi cụ thể từ xung đột đến kết hiệp, từ thù ghét đến yêu thương, từ trốn tránh đến gặp gỡ. Một hành trình kiên trì, từng ngày từng ngày dẫn chúng ta đến vùng đất mà Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta. Vùng đất mà khi mọi người hỏi “Bạn là ai?”, anh chị em có thể dễ dàng trả lời, “Xem này, tôi là người anh em, người chị em của bạn. Bạn không nhận ra tôi sao?” Và sau đó, đi theo con đường của bạn trong hòa bình.

Khi tôi lắng nghe anh chị em nói và nhìn thấy khuôn mặt của anh chị em, tôi được nhắc nhở về một điều khác: sự đau khổ của anh chị em. Anh chị em đã đến đây, nhưng còn bao nhiêu người anh em chị em khác vẫn đang tiếp tục cuộc hành trình? Bao nhiêu người tuyệt vọng đã lên đường trong những điều kiện khó khăn, bấp bênh nhưng không đến được đích? Chúng ta hãy nghĩ về vùng biển này, nơi đã trở thành một nghĩa trang khổng lồ. Nhìn vào anh chị em, tôi thấy những đau khổ do cuộc hành trình gây ra; tôi thấy tất cả những người đã bị bắt cóc, bị bán, bị bóc lột… và những người vẫn đang trên hành trình, chúng ta không biết ở đâu. Chúng ta đang nói về tình trạng nô lệ, về sự nô dịch chung. Chúng ta thấy những gì đang xảy ra, và điều tồi tệ nhất là chúng ta đang trở nên quen với nó. “Ồ vâng, hôm nay một chiếc thuyền khác bị lật… rất nhiều sinh mạng đã mất….” Việc “trở nên quen” với mọi thứ này là một căn bệnh trầm kha, một căn bệnh rất nghiêm trọng, và không có thuốc kháng sinh cho nó! Chúng ta phải chống lại việc quen đọc về những thảm kịch này trên báo chí hoặc nghe về chúng trên các phương tiện truyền thông khác.

Nhìn vào anh chị em, tôi cũng nghĩ đến tất cả những người đã phải quay về vì họ bị ngoảnh mặt đi và kết thúc trong các trại tập trung, trại tập trung thực sự, nơi phụ nữ bị bán, và đàn ông bị tra tấn và làm nô lệ…

Chúng ta kinh sợ khi đọc những câu chuyện về các trại tập trung của thế kỷ trước, của Đức Quốc xã hay của Stalin, và chúng ta nói: “Làm sao điều này có thể xảy ra được?” Thưa anh chị em, nó đang xảy ra ngày hôm nay, trên các bờ biển gần đó! Những nơi nô dịch. Tôi đã xem một số lời chứng ngôn được ghi hình về điều này: những nơi tra tấn và buôn người. Tôi nói tất cả những điều này bởi vì trách nhiệm của tôi là giúp mở mắt mọi người trước thực tại này. Di cư cưỡng bức không phải là một loại hình “du lịch”! Và tội lỗi của chúng ta khiến chúng ta nghĩ: “Những con người tội nghiệp đó, những con người đáng thương đó!”, và với những từ đó, “những người đáng thương”, chúng ta xóa sạch mọi thứ. Đây là cuộc chiến tranh của ngày nay: nỗi đau khổ của những người anh chị em của chúng ta, mà chúng ta không thể im lặng làm ngơ. Những người anh chị em đã bỏ lại tất cả để lên một con thuyền, trong đêm tối, và sau đó… không biết họ có tới bến bờ được không. Và tất cả những người đã bị quay mặt làm ngơ và kết thúc trong các trại tập trung, những nơi tra tấn và nô dịch thật sự.

Đó là câu chuyện của nền văn minh phát triển mà chúng ta gọi là phương Tây này. Và rồi – thứ lỗi cho tôi, nhưng ở đây tôi muốn nói những điều trong lòng của tôi, ít nhất là để chúng ta có thể cầu nguyện cho nhau và làm điều gì đó – và rồi có hàng rào thép gai. Chúng ta thấy nó ở đây: nó là một phần của cuộc chiến tranh hận thù chia cắt một đất nước. Tuy nhiên, ở những nơi khác, hàng rào thép gai được dựng lên để ngăn chặn lối vào của những người tị nạn, những người đến để tìm kiếm tự do, lương thực, sự trợ giúp, tình huynh đệ, niềm vui, những người chạy trốn khỏi sự hận thù nhưng rồi lại thấy mình đang đứng trước một dạng thù ghét được gọi là dây thép gai. Xin Chúa đánh thức lương tâm của tất cả chúng ta trước những thực tại này.

Xin lỗi nếu tôi đã nói về mọi thứ đúng như thực tế của chúng, nhưng chúng ta không thể im lặng và nhìn về hướng khác giữa cái văn hóa thờ ơ này.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em! Cảm ơn anh chị em.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 7/12/2021]