Thứ Năm, 24 tháng 8, 2023

Tiếp kiến chung ngày 23.08.2023: Đức Thánh Cha tiếp tục loạt bài giáo lý về lòng nhiệt thành tông đồ

Đức Thánh Cha tiếp tục loạt bài giáo lý về lòng nhiệt thành tông đồ

Huấn từ Tiếp kiến chung

Tiếp kiến chung ngày 23.08.2023: Đức Thánh Cha tiếp tục loạt bài giáo lý về lòng nhiệt thành tông đồ

Vatican Media


*******

Buổi tiếp kiến chung sáng nay được tổ chức lúc 9 giờ sáng trong Khán phòng Phaolô VI.

Trong bài huấn từ, Đức Thánh Cha trở lại với loạt bài giáo lý về Nhiệt thành Rao giảng Tin mừng: lòng nhiệt thành tông đồ của người tín hữu, tập trung phân tích về chủ đề: “Loan báo bằng tiếng mẹ đẻ: Thánh Juan Diego, sứ giả của Đức Trinh Nữ Guadalupe” (Bài đọc: Mt 11:25-27).

Sau phần tóm lược bài giáo lý bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, Đức Thánh Cha ngỏ lời chào đặc biệt tới các tín hữu hiện diện.

Buổi tiếp kiến chung kết thúc bằng Kinh Lạy Cha và Phép lành Tòa Thánh.

___________________________________________


Bài Giáo lý. Nhiệt thành Rao giảng Tin mừng: lòng nhiệt thành tông đồ của người tín hữu. 18. Việc loan báo [Tin Mừng] bằng tiếng mẹ đẻ: Thánh Juan Diego, sứ giả của Đức Trinh Nữ Maria


Bài giáo lý của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Trong hành trình tìm lại lòng nhiệt thanh loan báo Tin Mừng, lòng nhiệt thành tông đồ đó; nhìn thấy lòng nhiệt huyết loan báo Tin Mừng này đã phát triển như thế nào trong lịch sử Giáo hội; trên con đường này, hôm nay chúng ta nhìn đến Châu Mỹ, nơi việc loan báo Tin mừng luôn có một nguồn cội quan trọng: Guadalupe – người Mexico thật hạnh phúc. Dĩ nhiên, Tin Mừng đã đến đó trước những lần Đức Mẹ hiện ra ở đó, nhưng đáng buồn là nó cũng bị đi kèm với những lợi ích thế gian. Thay vì con đường hội nhập văn hóa, người ta thường áp dụng cách tiếp cận vội vàng là cấy ghép và áp đặt các mô hình đã được xây dựng sẵn – chẳng hạn như Châu Âu –, thiếu sự tôn trọng các dân tộc bản địa.

Mặt khác, Đức Trinh nữ Guadalupe hiện ra trong trang phục của người dân bản địa, người bản xứ, Mẹ nói ngôn ngữ của họ, Mẹ chào đón và yêu quý văn hóa địa phương: Đức Maria là Mẹ, và dưới áo choàng của Mẹ, mọi đứa con đều tìm được một chỗ đứng. Nơi Đức Maria, Thiên Chúa đã nhập thể và qua Đức Maria, Ngài tiếp tục nhập thể vào đời sống của các dân tộc.

Thật vậy, Đức Mẹ công bố Thiên Chúa bằng ngôn ngữ thích hợp nhất; tức là tiếng mẹ đẻ. Và Đức Mẹ cũng nói với chúng ta bằng tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ mà chúng ta hiểu rõ. Tin Mừng được thông truyền qua tiếng mẹ đẻ. Và tôi muốn nói lời cảm ơn đến nhiều người mẹ và rất nhiều người bà đã truyền lại Tin Mừng cho con cháu của họ: đức tin được truyền lại trong cuộc sống; đây là lý do tại sao các bà và các mẹ là những người truyền giáo đầu tiên. [Chúng ta dành] một tràng pháo tay cho các bà và các mẹ! Và nó được truyền đạt trong sự đơn sơ, như Đức Maria cho thấy: Đức Mẹ luôn chọn những người đơn sơ, trên ngọn đồi Tepeyac ở Mexico, như ở Lộ Đức và Fatima: khi nói với họ, Mẹ nói với mọi người, bằng một ngôn ngữ thích hợp cho tất cả mọi người, bằng ngôn ngữ dễ hiểu, giống như ngôn ngữ của Chúa Giêsu.

Vậy chúng ta hãy cùng dừng lại trên chứng tá của Thánh Juan Diego, một sứ giả; ngài là thanh niên, ngài là người bản địa đã nhận được sự mặc khải của Đức Maria: sứ giả của Đức Mẹ Guadalupe. Ngài là một con người đơn sơ, một người dân bản địa: Thiên Chúa là Đấng thích thực hiện những phép lạ qua những kẻ bé mọn đã để mắt đến Thánh nhân.

Juan Diego là một người đã lập gia đình khi ngài đón nhận đức tin. Vào tháng Mười Hai năm 1531, ngài khoảng 55 tuổi. Khi đang đi, ngài nhìn thấy Mẹ Thiên Chúa trên đồi, Mẹ dịu dàng gọi ngài. Và Đức Mẹ gọi ngài là gì? “Juanito, đứa con bé bỏng yêu quý nhất của Ta” (Nican Mopohua, 23 tuổi), lấy từ cái tên Juan. Sau đó, Mẹ sai ngài đến với Đức Giám mục để yêu cầu Đức Cha xây một nhà thờ ở đó, nơi Mẹ hiện ra.

Juan Diego, đơn sơ và sẵn sàng, ra đi với tấm lòng quảng đại trong sáng của mình, nhưng phải chờ đợi rất lâu. Cuối cùng ngài được nói chuyện với Giám mục và Đức Cha không tin Juan Diego. Và giám mục chúng tôi rất thường xuyên [như thế], rất thường xuyên… Ngài gặp lại Đức Mẹ, Mẹ an ủi ngài và yêu cầu ngài cố gắng lần nữa. Người thanh niên bản địa trở lại gặp Giám mục và đối mặt rất nhiều khó khăn, nhưng Đức Giám mục sau khi lắng nghe ngài, đã đuổi ngài đi và sai mấy người đi theo ngài. Đây là sự khó khăn, thử thách của việc loan báo: mặc dù có lòng nhiệt thành, nhưng điều bất ngờ vẫn đến, đôi khi từ chính Giáo hội. Thật vậy, chỉ làm chứng tá tốt lành thôi chưa đủ, cần phải biết chịu đựng sự dữ. Chúng ta đừng quên điều này: việc loan báo Tin Mừng là điều rất quan trọng, không chỉ bằng cách làm chứng tá tốt lành mà còn bằng cách chịu đựng sự dữ. Người Kitô hữu làm điều thiện nhưng cũng chịu đựng điều ác. Cả hai đi cùng nhau; cuộc sống là vậy.

Ngay cả ngày nay, ở rất nhiều nơi, việc hội nhập Tin Mừng và các văn hóa loan báo Tin mừng đòi hỏi sự bền lòng và kiên nhẫn, không sợ xung khắc, không nản chí. Tôi đang nghĩ đến một đất nước nơi người Kitô hữu bị bách hại, bởi vì họ là Kitô hữu, và họ không thể thực hành đức tin của mình một cách dễ dàng và trong an bình. Juan Diego, chán nản vì bị giám mục đuổi đi, đã xin Đức Mẹ miễn trừ cho ngài và chỉ định một người được kính trọng hơn và có khả năng hơn ngài, nhưng ngài được kêu gọi hãy kiên vững. Luôn luôn có nguy cơ bỏ cuộc trong việc rao giảng: khi có điều gì đó không ổn và chúng ta lùi bước, trở nên chán nản và có lẽ ẩn náu trong những sự chắc chắn của bản thân, trong các nhóm nhỏ, và trong một số việc tôn sùng cá nhân. Ngược lại, Đức Mẹ an ủi chúng ta, làm cho chúng ta tiến bước về phía trước và nhờ đó cho phép chúng ta lớn lên, giống như một người mẹ giỏi, vừa theo những bước chân của con trai mình, vừa đưa nó vào những thử thách của thế giới.

Được khích lệ, Juan Diego trở lại gặp Đức Giám mục, và Đức Giám mục xin ngài một dấu hiệu. Đức Mẹ hứa với Juan một dấu hiệu và an ủi ngài bằng những lời này: “Đừng để điều gì làm con sợ hãi, đừng để điều gì làm phiền lòng con: […] Mẹ là mẹ của con, không phải Mẹ đang ở đây sao?” Thật là đẹp. Nhiều khi chúng ta cô đơn, buồn bã, gặp khó khăn, Đức Mẹ cũng nói với chúng ta điều này trong tâm hồn chúng ta: Mẹ là mẹ của con, không phải Mẹ đang ở đây sao? [Mẹ] luôn ở bên cạnh chúng ta để an ủi chúng ta và ban cho chúng ta sức mạnh để bước tiếp.

Rồi Mẹ nói ngài lên đỉnh đồi khô cằn để hái hoa. Tuy nhiên, khi đó là mùa đông, Juan Diego đã tìm thấy một số bông hoa đẹp, bỏ chúng vào áo choàng của mình và dâng lên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ mời ngài mang hoa đến cho Đức Giám mục để làm bằng chứng. Ngài đi, kiên nhẫn chờ đến lượt mình và cuối cùng, trước sự chứng kiến của Đức Giám mục, mở chiếc áo choàng (tilma) của mình – loại áo của người bản địa khoác bên ngoài – ngài mở chiếc áo tilma của mình để cho thấy những bông hoa – và kìa! Hình ảnh Đức Mẹ hiện ra trong tấm vải áo choàng, một hình ảnh phi thường và sống động mà chúng ta quen thuộc, trong mắt Mẹ những nhân vật chính của thời đó vẫn còn in dấu. Đây là điều ngạc nhiên của Chúa: khi có sự sẵn lòng và khi có sự vâng phục, Chúa có thể hoàn thành điều gì đó bất ngờ, vào thời điểm và theo những cách mà chúng ta không thể đoán trước được. Và do đó, đền thờ theo yêu cầu của Đức Trinh Nữ đã được xây dựng và thậm chí ngày nay người ta vẫn có thể đến viếng.

Juan Diego đã bỏ lại mọi sự, và với sự cho phép của Đức Giám Mục, đã hiến dâng đời mình cho đền thờ. Ngài chào đón những người hành hương và rao giảng Tin mừng cho họ.

Đây là những gì xảy ra tại các đền thánh Đức Mẹ, các địa điểm hành hương và những nơi rao giảng, nơi mọi người đều cảm thấy như ở nhà – bởi vì đó là nhà của Mẹ, nhà của Mẹ – và cảm nhận nỗi nhớ nhung quê hương, nghĩa là nỗi khao khát về nơi bạn tìm thấy Mẹ, Thiên đàng. Đức tin được chào đón ở những nơi này một cách đơn sơ, đức tin được chào đón một cách chân thực, một cách bình dân. Và như Mẹ đã nói với Juan Diego, Đức Mẹ lắng nghe tiếng khóc của chúng ta và chữa lành những nỗi sầu khổ của chúng ta (x. ibid., 32). Chúng ta cần học điều này: khi gặp khó khăn trong cuộc sống, chúng ta hãy đến với Mẹ; và khi cuộc sống hạnh phúc, chúng ta cũng hãy đến với Mẹ để chia sẻ những điều đó. Chúng ta cần tìm đến các ốc đảo an ủi và thương xót này, nơi đức tin được diễn tả bằng ngôn ngữ của tình mẫu tử; nơi chúng ta phó thác những lao nhọc của cuộc sống trong vòng tay Mẹ và trở lại cuộc sống với sự bình an trong tâm hồn, có thể là với sự an bình của những trẻ thơ.


Lời chào

Cha chào thân ái anh chị em hành hương và du khách nói tiếng Anh tham gia buổi tiếp kiến chung hôm nay, đặc biệt là các lễ sinh đến từ Malta và ca đoàn đến từ Uganda. Cha khẩn xin niềm vui và sự bình an của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đổ xuống trên anh chị em và gia đình. XIn Chúa ban phúc lành cho tất cả anh chị em!



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 24/8/2023]


Mông Cổ: điểm đến chiến lược của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Châu Á

Mông Cổ: điểm đến chiến lược của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Châu Á

Mông Cổ: điểm đến chiến lược của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Châu Á

Ulaanbaatar, capital of Mongolia

I.Media

19/08/23


Vị trí chiến lược của Mông Cổ giữa Nga và Trung Quốc khiến nó trở thành một địa điểm lý tưởng để Giáo hoàng thể hiện khả năng tương thích của Giáo hội với các nền văn hóa Châu Á.

Từ ngày 31 tháng Tám đến ngày 4 tháng Chín năm 2023, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ thực hiện chuyến tông du đầu tiên đến Mông Cổ. Trước hết, Đức Thánh Cha dự định nói chuyện với người dân Mông Cổ và cộng đồng Công giáo nhỏ bé ở địa phương. Tuy nhiên, chuyến đi của ngài đến vùng đất của các Khans, một nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa trước đây nằm giữa Nga và Trung Quốc, dường như là một bước đi chiến lược của Tòa thánh.


Di sản của Đức Gioan Phaolô II và chủ nghĩa cộng sản

Kể từ khi Bức tường Berlin sụp đổ và sự độc lập của các khối xã hội chủ nghĩa, một trong những động lực chính trong chính sách ngoại giao của Vatican là cố gắng làm cho tiếng nói của mình được lắng nghe trong khu vực rộng lớn trải dài từ vùng Balkan đến miền Đông Nam Á này. Mục đích: hỗ trợ các cộng đồng hiện hữu đang phải chịu sự bắt bớ, đồng thời đẩy mạnh truyền giáo và loan báo Tin mừng.

Di sản của Đức Gioan Phaolô II, được nhiều người coi là một trong những kiến trúc sư dẫn đến sự sụp đổ của thế giới Cộng sản, đã khiến nhiều nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa trước đây cảnh giác với sự hiện diện của Công giáo trên lãnh thổ của họ. Đây là trường hợp đáng chú ý ở Nga — một quốc gia chưa từng có vị giáo hoàng nào có thể đến thăm — và Trung Quốc — nơi Giáo hội nằm dưới sự giám sát của một Hiệp hội Yêu nước trung thành với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đây cũng là trường hợp ở Kazakhstan, Việt Nam, Lào và Mông Cổ, với các mức độ khác nhau.

Mông Cổ: điểm đến chiến lược của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Châu Á

Đức Thánh Cha Phanxicô trên xe giáo hoàng đến dâng thánh lễ tại Khu triển lãm ở thủ đô Nur-Sultan của Kazakhstan, vào ngày 14 tháng Chín năm 2022.

Tuy nhiên, quốc gia cuối danh sách gần đây đã cho thấy sự cởi mở trong việc thiết lập các mối quan hệ mới với Tòa thánh, như được thể hiện qua chuyến thăm sắp tới của Đức Thánh Cha. Trường hợp tương tự là Kazakhstan, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến thăm hồi tháng Chín năm ngoái. Ở hai quốc gia này, cả hai đều có chung biên giới với Nga và Trung Quốc, chính phủ đã thể hiện sự sẵn sàng nới lỏng sự kiểm soát của họ đối với các Giáo hội địa phương — tuy nhiên, không trao quyền tự do hoàn toàn cho các nhà truyền giáo và linh mục địa phương.


Chính sách ngoại giao ở những vùng ngoại vi

Chính sách ngoại giao của Tòa thánh đối các quốc gia này dường như là “vùng ngoại vi”, một thuật ngữ yêu quý của Đức Thánh Cha Phanxicô. Qua việc đến những vùng biên giới của Trung Quốc và Nga, Đức Thánh Cha đang cố gắng bảo đảm với họ rằng ngài có khả năng hội nhập với những thách đố về văn hóa Á Châu, và rằng ngài không phải là “tuyên úy của phương Tây” – như người ta lo ngại ở Bắc Kinh và Mátxcơva. Mối quan hệ tốt đẹp với Mông Cổ, Kazakhstan và Việt Nam, vốn có mối liên hệ chặt chẽ với các nước láng giềng lớn của họ, có thể đóng vai trò là hình mẫu cho việc nối lại mối quan hệ hữu nghị với các nước sau này trong tương lai.

Với Nga, điều này trở nên rất rõ ràng kể từ năm 2022 và khi chiến tranh bùng nổ ở Ukraine. Trên chuyến bay trở về từ chuyến đi đến Kazakhstan, Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố rằng việc đóng cánh cửa đối thoại với Nga chẳng khác nào khép lại “cánh cửa duy nhất có cơ sở dẫn đến hòa bình”. Chính sách ngoại giao của ngài tiếp tục bảo vệ lối đi này, như được thấy trong chuyến công tác gần đây của Đức Hồng Y Matteo Maria Zuppi đến Moscow.

Theo một nhà truyền giáo đã sống 10 năm ở Mông Cổ, mặc dù Nga có sự hiện diện ít hơn ở Mông Cổ so với Trung Quốc, nhưng nước này đang nhận được tình cảm mới của người dân. Do đó, Ulaanbaator có thể là một trung gian có giá trị cho các cuộc thảo luận với Moscow.


Mối quan hệ phức tạp với Trung Quốc

Với Trung Quốc, những khó khăn của Vatican dường như còn lớn hơn. Thỏa thuận lịch sử về việc bổ nhiệm giám mục, đạt được giữa hai bên vào năm 2018, cho đến nay vẫn chưa thực sự có kết quả. Trung Quốc đã tiếp tục hành động mà không hỏi ý kiến của Tòa Thánh. Trong chuyến đi Kazakhstan trước đây, Đức Giáo hoàng đã cố gắng cách vô ích để gặp gỡ chủ tịch Tập Cận Bình khi đó cũng tình cờ đi qua Astana cùng lúc với ngài. Tại Mông Cổ, Giáo hoàng sẽ tiếp tục cuộc hành trình dọc theo Con đường Tơ lụa, và cố gắng thực hiện thêm một bước đối với Bắc Kinh.

Mông Cổ từ lâu đã được Tòa Thánh coi là cửa ngõ của Giáo hội vào Trung Quốc. Trong một bài phát biểu nhân dịp Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Jozef Tomko, phụ trách các cơ quan truyền giáo, đã chào mừng các lễ rửa tội đầu tiên được cử hành tại Mông Cổ. Ngay sau đó, ngài tuyên bố, “…đồng thời, chúng ta đang chờ đợi thời khắc của Trung Hoa vĩ đại.” Ngày nay, cánh cửa này được hé mở cho các linh mục, bất chấp sự kiểm soát nghiêm ngặt của hải quan Trung Quốc.


“Tràng hạt ngọc trai”

Ở Mông Cổ, Tòa Thánh dường như đang đặt một viên đá mới theo kiểu bao quanh Trung Quốc. Đây là chiến lược “tràng hạt ngọc trai”, ám chỉ chiến lược “chuỗi ngọc trai” của Trung Quốc ở Đông Nam Á và Ấn Độ dương.

“Tràng hạt ngọc trai” này được hình thành chủ yếu từ các trung tâm Công giáo truyền thống của khu vực là Đài Loan và Hồng Kông, nơi Đức Hồng y tương lai Stephen Sau-yan Chow là trung gian quan trọng với Bắc Kinh. Tuy nhiên, vùng đất cũ của Anh và nước cộng hòa nhỏ bé Formosa cũng đã bị suy yếu do Bắc Kinh tuyên bố có ý định đặt hai nơi này dưới sự kiểm soát hoàn toàn của mình trong những năm tới. Điều này có nghĩa là ranh giới tự do làm cho hai nơi này trở thành nền tảng chiến lược cho Giáo hội bị giảm xuống — đặc biệt là việc gửi các nhà truyền giáo đến Trung Quốc.


Vai trò của Mông Cổ

Đứng trước sự suy yếu của Đài Loan và Hồng Kông, Mông Cổ, cũng như Miến Điện và Kazakhstan, đại diện cho một hình thức hiện diện Công giáo mới ngay ngưỡng cửa Trung Quốc. Và sự nồng ấm đáng chú ý trong mối quan hệ giữa Vatican và Việt Nam trong mùa hè này, với việc mở cửa quan hệ ngoại giao, là một bước tiến xa hơn theo hướng này.

Trong những năm gần đây, Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng có xung quanh mình những cố vấn có thể đóng vai trò trung gian điều đình với Trung Quốc. Đầu tiên và quan trọng nhất là ngài Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin Mừng, Đức Hồng y Luis Antonio Tagle người Philippines. Ngài là cháu của một người Trung Quốc di cư, và đã tham gia vào các nỗ lực nối lại quan hệ với Bắc Kinh do chính sách ngoại giao của Vatican dưới thời Đức Hồng y Pietro Parolin dẫn đầu. Một ví dụ khác là Đức Hồng y William Goh, Tổng Giám mục Singapore và là một thành viên của cộng đồng người Hoa đông đảo của đảo quốc này.

Tại Mông Cổ, mặc dù dân số Công giáo chiếm rất ít (ước tính dưới 1.500 người), nhưng Đức Thánh Cha đã chọn trao mũ barét hồng y cho nhà truyền giáo còn rất trẻ Giorgio Marengo. Về mặt lãnh thổ, từ góc độ giáo hội, Mông Cổ liên kết với khu vực Trung Á rộng lớn, khiến Đức Hồng y Bộ trưởng của Ulaanbaator trở thành đội tiên phong của Giáo hội trên Con đường Tơ lụa mà Trung Quốc đang cố gắng hồi sinh.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 20/8/2023]