Thứ Ba, 31 tháng 8, 2021

Liên Hợp quốc tôn vinh Mẹ Teresa bằng một con tem bưu chính

Liên Hợp quốc tôn vinh Mẹ Teresa bằng một con tem bưu chính

Con tem in một câu nói nổi tiếng của Thánh Teresa Calcutta: “Không phải tất cả chúng ta đều có thể làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ bé với tình yêu lớn lao”.

Liên Hợp quốc tôn vinh Mẹ Teresa bằng một con tem bưu chính

Con tem bưu chính của LHQ tôn vinh Mẹ Teresa Calcutta (photo: United Nations Postal Administration)


Ines Murzaku

Blogs

26 tháng Tám, 2021


Một tem bưu chính của Liên Hợp quốc để tôn vinh một vị thánh Công giáo?

Đúng. Vào ngày 12 tháng Tám, Liên Hợp Quốc đã phát hành một con tem kỷ niệm để tôn vinh Mẹ Teresa, một trong những người phụ nữ và nhà thừa sai Công giáo nổi tiếng nhất trong thế kỷ 20. Ở bên phải con tem xuất hiện một trong những câu nói nổi tiếng nhất của Mẹ Teresa: “Không phải tất cả chúng ta đều có thể làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ bé với tình yêu lớn lao”.


“Trong hơn 45 năm, Mẹ đã phục vụ người nghèo, người bệnh, trẻ mồ côi và người hấp hối, đồng thời dẫn dắt việc mở rộng của Dòng Thừa sai Bác ái, đầu tiên là ở Ấn Độ và sau đó ở các quốc gia khác, bao gồm cả việc xây dựng các nhà tế bần và nhà ở cho người nghèo và người vô gia cư.”

Liên Hợp quốc là tổ chức phi chính phủ duy nhất trên thế giới có đặc quyền phát hành tem thư riêng. Kể từ năm 1951, Cơ quan Bưu chính của LHQ đã phát hành tem bưu chính, theo đề xuất năm 1947 của Argentina. Một thỏa thuận đã đạt được với các cơ quan bưu chính của Hoa Kỳ yêu cầu tem phải có mệnh giá bằng tiền của Hoa Kỳ và được sử dụng duy nhất tại Trụ sở Liên Hợp quốc.

Các thỏa thuận sau đó giữa Liên Hợp quốc, Thụy Sĩ và Áo đã cho phép tem của Liên Hợp quốc được phát hành bằng đồng franc Thụy Sĩ và đồng schilling của Áo (sau này là đồng Euro). Do đó, Liên Hợp quốc là cơ quan bưu chính duy nhất phát hành tem bằng ba loại tiền tệ khác nhau — đồng Mỹ kim, đồng franc Thụy Sĩ và đồng Euro.

Tem bưu chính của LHQ là những sứ giả, dựa trên những mục tiêu của LHQ, các chủ đề phổ quát hoặc các ngày kỷ niệm của những người nam và nữ, những người đã có ảnh hưởng đến lịch sử.

Đây không phải là lần đầu tiên LHQ tôn vinh Mẹ Teresa vì đã phục vụ người nghèo nhất trong số những người nghèo. Năm 2012, Liên Hợp quốc đã chọn Ngày 5 tháng Chín là Ngày Bác ái Quốc tế, tập trung vào việc giúp đỡ những người gặp khó khăn thông qua các hoạt động từ thiện và thiện nguyện. Việc lựa chọn ngày đó không phải là ngẫu nhiên, LHQ giải thích:

“Ngày 5 tháng Chín được chọn để kỷ niệm ngày qua đời của Mẹ Teresa Calcutta… Trong hơn 45 năm, Mẹ đã phục vụ người nghèo, người bệnh, trẻ mồ côi và người hấp hối, đồng thời dẫn dắt việc mở rộng của Dòng Thừa sai Bác ái, đầu tiên là ở Ấn Độ và sau đó ở các quốc gia khác, bao gồm cả việc xây dựng các nhà tế bần và nhà ở cho người nghèo và người vô gia cư. Công cuộc của Mẹ Teresa đã được công nhận và ca ngợi trên khắp thế giới và Mẹ đã nhận được một số giải thưởng và danh hiệu, trong đó có giải Nobel Hòa bình. Mẹ Teresa qua đời vào ngày 5 tháng Chín năm 1997, hưởng thọ 87 tuổi.”

Hai sự công nhận của Liên Hợp quốc đối với Mẹ Teresa — tem thư “Làm những việc nhỏ bé với tình yêu lớn lao” và sự công nhận Ngày Bác ái Quốc tế — bổ sung cho nhau. Tôi xin giải thích.

Đối với Mẹ Teresa, yếu tố quan trọng nhất chính là tình yêu và sự dấn thân mà một người kiên trì trên con đường đi theo tiếng gọi của mình, và đây là điểm then chốt của thông điệp và công cuộc trong cuộc sống của Mẹ. Cho dù có một tiếng gọi với những cách thức diễn đạt khác nhau, nhưng phương châm của Mẹ vẫn luôn là một — làm những việc nhỏ bé với một tình yêu lớn lao, và sống theo tiếng gọi của bạn mọi lúc mọi nơi với sự dấn thân nhiệt thành. Mẹ đã trải qua cơn khát mãnh liệt đó với một tình yêu tương tự — tình yêu của mẹ dành cho những người nghèo nhất trong số những người nghèo, những người chị em, những người anh em và các thành viên trong gia đình Mẹ thật mãnh liệt. Mẹ đã yêu cho đến khi đau đớn, và trong cuộc đời của mẹ, mẹ đã làm thỏa mãn tất cả những sự yêu thương này bằng cách phản chiếu lại mẫu gương ban đầu là Chúa Giêsu.

Phương châm “Làm những việc nhỏ bé với tình yêu lớn lao” nhắc đến sự dấn thân trọn đời của Mẹ theo gương Thánh Têrêsa thành Lisieux (1873-1897), vị thánh cùng tên của Mẹ Teresa. Con đường nhỏ bé của Thánh Têrêsa — nhắc nhở chúng ta rằng những điều bình thường trong cuộc sống, khi được thực hiện bằng tình yêu phi thường, sẽ được biến đổi thành một điều gì đó phi thường — đã trở thành nguyên tắc của Mẹ Teresa trong cuộc sống. Mẹ luôn sẵn sàng đóng góp phần nhỏ bé của mình để giảm bớt đau khổ và vác thập giá, như mẹ đã nói trong chuyến thăm Ethiopia bị nạn đói hoành hành năm 1984. Mẹ không ngần ngại thực hiện phần việc nhỏ bé của mình để giúp đỡ quốc gia đói khát nhất thế giới:

“Ethiopia là một đồi Canvê rộng mở, không phải là một địa ngục mở. Bạn và tôi có thể thực hiện phần việc nhỏ bé của mình và rồi sự sống sẽ được cứu thoát.”

Khi làm “những việc nhỏ bé với tình yêu lớn lao,” Mẹ Teresa đã trở thành một trong những người bảo vệ mạnh mẽ nhất cho quyền con người, mà đối với mẹ bắt đầu từ quyền được sống, đó quyền cơ bản nhất trong số các quyền con người. Đối với Mẹ, Chúa Giêsu đã đồng hóa với những người nghèo, người bị gạt ra bên lề, người bị bệnh phong, các thai nhi chưa sinh, những người bé mọn và không có tiếng nói — Mẹ là người ở tuyến đầu để bảo vệ quyền của những người này. Vì vậy, sự bảo vệ mạnh mẽ của Mẹ đối với sự sống từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên là một vấn đề nhân phẩm và nhân quyền mang tính Kitô luận sâu sắc và lấy Đức Kitô làm trung tâm. Mẹ biết rằng người nam, người nữ và trẻ em (đã được sinh ra và chưa được sinh ra) được tạo dựng cho những điều tuyệt vời — để yêu thương và được yêu thương — và Chúa Giêsu Kitô là nền tảng và là nguồn gốc của mọi quyền.

Danh hiệu quán quân về nhân quyền và phẩm giá con người của Mẹ Teresa đã đưa đến cho mẹ một vị trí danh dự tại Cổng vòm Nhân quyền của Nhà thờ Chính tòa Quốc gia (Episcopal) ở Washington D.C. Cổng vòm Nhân quyền của Nhà thờ Chính tòa dành để tôn vinh những cá nhân “đã có những hoạt động quan trọng, sâu sắc, và thay đổi cuộc sống trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền, sự công bằng xã hội, quyền công dân và phúc lợi của con người”.

Ngoài ra, nhân đức bác ái thần học là một bước đi tiến tới sự hoàn thiện của người Kitô hữu. Yêu thương và bác ái luôn song hành cùng nhau. Bác ái là tình yêu của Thiên Chúa, trong đó con người tham gia vào các hoạt động của Thiên Chúa, hoặc yêu thương như tình yêu của Thiên Chúa.

Nếu phương châm của Mẹ Teresa áp dụng vào đức ái, thì Mẹ đã làm những việc nhỏ bé với lòng bác ái cao cả, yêu thương những người mẹ phục vụ và noi gương tình yêu hy sinh và vị tha của Chúa Kitô. Mẹ yêu mến Thiên Chúa trên tất cả mọi sự và yêu thương con người vì Chúa. Mọi người đều có thể trở thành nhà thừa sai bác ái bằng tình yêu thương và sự phục vụ khiêm nhường, khám phá ra dung nhan của Chúa Giêsu dưới hình hài đau khổ của những người thiếu thốn. Do đó, yêu thương và bác ái gắn kết với nhau và trở thành dấu ấn xác định sứ mệnh của Thánh Teresa Calcutta là làm những việc nhỏ bé với tình yêu và lòng bác ái lớn lao. Cả cuộc đời Mẹ luôn trung thành với hai điều này.

Tem thư kỷ niệm của LHQ đưa ra cho thế giới một cơ hội — vốn đang rất cần những điều nhỏ bé được thực hiện với tình yêu thương và lòng bác ái cao cả — phản ánh phương châm và Sứ mệnh của Mẹ Teresa. Có lẽ con tem bưu chính sẽ giúp đánh thức chúng ta thoát khỏi sự tự mãn và làm những việc nhỏ bé — nhỏ bé như viết một lá thư, dán tem lên thư và gửi nó đi — với tình yêu thương lớn lao.


[Nguồn: ncregister]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 31/8/2021]


Lịch sử thú vị của các loài chim và các giáo hoàng

Lịch sử thú vị của những loài chim và các đức giáo hoàng

Lịch sử thú vị của các loài chim và các giáo hoàng

OSSERVATORE ROMANO | AFP

I.Media for Aleteia

24/08/21


Theo bước chân của Thánh Phanxicô, Đức Giáo hoàng Phanxicô đang thực hiện một truyền thống độc đáo.

Vào ngày 13 tháng Ba năm 2013. Các nhà báo từ khắp nơi trên thế giới đổ dồn đôi mắt hướng về ống khói của Nhà nguyện Sistine để tìm kiếm làn khói trắng nổi tiếng. Các vị Hồng y từ khắp nơi trên thế giới đã thận trọng cân nhắc suốt hơn 20 giờ. Đột nhiên, vào khoảng 4:30 chiều, một con mòng biển trắng đậu trên nắp ống đồng đỏ. Con chim trắng nhanh chóng được thay thế bằng con thứ hai, lớn hơn một chút. Từ chỗ đậu của nó, con vật dường như nhìn xuống đám đông.

Một nhà báo trên tài khoản Twitter của mình nói vui rằng: “Chúa Thánh Thần đang ngự đến với mật nghị hồng y. Đó là tất cả những gì cần thiết để Vatican chọn con chim trở thành điềm lành cho cuộc bầu chọn này. Trong vòng vài phút, một tài khoản Twitter (@SistineSeagull) được tạo ra và ngay lập tức đã có gần 4.000 người đăng ký. Mạng xã hội “tweet” không ngừng.

Liệu sự có mặt của loài chim này vài giờ trước khi công bố việc bầu chọn Đức Giáo hoàng Phanxicô, một người yêu quý Tạo vật và là tác giả của tông huấn nổi tiếng Laudato si’, thuần túy là một sự tình cờ? Một số người cảm thấy thích thú vì sự trùng hợp này. Vào tối ngày 13 tháng Ba năm 2013, AICA, một hãng thông tấn Công giáo từ quê hương của Đức Giáo hoàng, đề cập đến một mối liên hệ rất nghiêm túc giữa con chim và ngài Bergoglio. Các phương tiện truyền thông của Argentina lập luận rằng con chim của mật nghị hồng y là một con mòng biển thuộc loài Larus argentatus, giải thích rằng thuật ngữ argentatus nhắc đến tên quốc gia quê hương của vị giáo hoàng thứ 266.


Chim bồ câu, dấu hiệu của cuộc bầu cử

Câu chuyện này, mang đến một nụ cười, không thể không nhắc chúng ta về mối liên kết tồn tại — lần này đã được chứng minh rõ ràng — giữa các giáo hoàng và một loài chim cao quý hơn: đó là chim bồ câu. Trong cuốn Lịch sử Giáo hội, nhà sử học Eusebius kể câu chuyện vào thế kỷ thứ 3, khi Đức Giáo hoàng Fabian đã được loài chim trong Kinh thánh này chọn để lãnh đạo Giáo hội. Nhà sử học viết, “Đột nhiên, một con chim bồ câu từ Trời bay xuống và đậu trên đầu của Đức [Fabian], (…) tái hiện lại sự ngự xuống của Chúa Thánh Thần trên Đấng Cứu Thế dưới hình dạng một con chim bồ câu,” và nói thêm rằng, “tất cả mọi người (…) hô vang lên rằng ngài là xứng đáng, và không chút chậm trễ (…) ngài đã được chọn ngồi vào ghế giám mục.”

Đức Fabian, một con người đơn sơ đến từ vùng nông thôn, không phải là người duy nhất theo ý Đấng Quan phòng được nâng lên hàng giáo hoàng theo cách này. Trong cuốn sách The Bestiary of the Pope (“Il bestiario del papa”), nhà viết sử Agostino Paravicini Bagliani giải thích rằng, theo nhiều nguồn khác nhau, Thánh Severus, Thánh Pôlycarpô, và có thể cả Thánh Zêphyrinô có thể đã được chọn bằng cách này. Nhà sử học người Ý cũng chỉ ra rằng những báo cáo của các mật nghị đề cập đến loài chim biểu tượng của Chúa Thánh Thần đáp xuống trong trường hợp có các sự bầu chọn bất ngờ — chọn những người đơn sơ hoặc những người vẫn còn xa lạ với thế giới Rôma.

Chim bồ câu cũng là biểu tượng của một vị giáo hoàng nổi tiếng: Đức Grêgôriô I, cũng còn được gọi là “Đức Grêgôriô Cả”. Trong cuốn tiểu sử của vị thánh thuộc thế kỷ thứ 8, tu sĩ Paul the Deacon đã kể lại nguồn gốc của sự kết hợp này. Một người đang theo dõi Đức Grêgôriô khi ngài đọc những chú giải của ngài về sách Êdêkien cho người khác viết, được cho là đã nhìn thấy một trong những con chim này bay lượn trên vai của vị giáo hoàng thứ 64. Khi ngài ngừng đọc, con vật đặt mỏ của nó vào giữa hai môi của ngài để gợi ý một chú giải mới. Từ đời giáo hoàng này đến giáo hoàng khác, chim bồ câu trở thành biểu tượng của Giáo hội và giáo tông. Nhiều biểu trưng của nó có ở Quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma — không dưới 500 — chứng thực điều này.


Đại bàng, biểu tượng quyền bính của giáo hoàng

Tuy nhiên, loài chim biểu tượng của hòa bình không phải là loài chim duy nhất chiếm vị trí trên các bức tường của thành phố Rôma. Bằng một sắc thái khác, nhà sử học thế kỷ 13 Gilles of Rome đã sử dụng chim đại bàng để xác định chức năng của giáo hoàng. Theo ông, loài chim oai phong này rõ ràng là biểu tượng cho quyền bính của giáo hoàng đối với Giáo hội hoàn vũ. Có khả năng bảo vệ “mọi thứ” nhờ đôi cánh lớn của nó, đại bàng có “đầy đủ lông vũ, nghĩa là có đầy đủ đức tính tốt,” và do đó, giống như các Giáo hoàng có quyền tối thượng, ông nói.

Được biết đến nhiều hơn vì sự huyên thuyên hơn là sự khôn ngoan, loài vẹt cũng đã có một vị trí vinh dự với các giáo hoàng. Câu chuyện về tình bạn giữa loài vật đầy màu sắc này và các giáo hoàng bắt đầu vào thế kỷ 11, khi một người cai trị — có thể là vua Stephen I, Vua của Croatia và Dalmatia — gửi một con vẹt đến cho Đức Giáo hoàng Leo IX. Con vật không những có thể lặp lại câu “Tôi sẽ đến gặp Giáo hoàng” mà còn cả tên của Đức Giáo hoàng là Leo. Khi Đức Giáo hoàng mệt mỏi và chán nản, con chim đã trao “sức mạnh nội tâm mới” cho vị giáo hoàng có lai lịch nước ngoài này, người đã lãnh đạo trong tình hình rất khó khăn.

Vào thế kỷ 13, việc tái phát hiện La Mã cổ đại và biểu tượng của nó đã thúc đẩy sự quan tâm của Giáo triều đối với loài động vật oai phong này. Tuy nhiên, phải đến thời kỳ Avignon thì sự có mặt thường xuyên của loài chim này với các giáo hoàng, thậm chí trong phòng ngủ của các ngài, mới được chú ý. Hai vị giáo hoàng cuối cùng của Avignon — Đức Urban V và Đức Gregory XI — trở về Rôma với một con vẹt. Kể từ đó, truyền thống về “con vẹt của Giáo hoàng”, một con vật được mang theo trong các chuyến đi của người kế vị Thánh Phêrô, được tiếp tục cho đến thế kỷ 15.


“Căn phòng vẹt”

Vào năm 1420, lần đầu tiên một tài liệu cho biết về sự tồn tại của một “căn phòng vẹt” trong Điện Tông Tòa, trong đó giáo hoàng tập trung các hồng y trong thượng hội đồng và chuẩn bị trước khi tham gia các nghi lễ trọng thể. Là một ranh giới giữa không gian riêng tư và công cộng, căn phòng này cũng thường được sử dụng để tiếp đón các đại sứ.

Dưới thời Đức Leo X, biểu tượng con vẹt ở Vatican đạt đến đỉnh điểm của nó: để tôn vinh giáo hoàng thuộc dòng tộc Medici, họa sĩ Raphael đã vẽ Thánh Gioan Tẩy Giả đang nhìn một con vẹt Nam Mỹ nhỏ. Lấy truyền thống của La Mã và trung cổ mô tả con chim báo tin cho hoàng đế, họa sĩ đã liên kết Thánh Gioan với một con vẹt để công bố giáo hoàng là vị đại diện của Chúa Kitô trên Trái đất.


Chim Hoàng yến của Đức Piô XII

Rất lâu sau đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đưa những con chim trở lại khung ảnh trong một buổi tiếp kiến vào năm 2014. Khi đi qua đám đông ở Quảng trường Thánh Phêrô, một con vẹt đã bay đến đậu trên ngón tay của ngài. Bức ảnh huyền thoại đã lan truyền đi khắp thế giới và tạo ra những bình luận trìu mến. Là một người con tinh thần của Thánh Phanxicô, vị giáo hoàng thứ 266 đã nói với chủ nhân của con vật: “Đó là một món quà rất đẹp của Chúa”. Sự dịu dàng này đối với con chim cũng không ngăn cản ngài đưa ra lời cảnh báo với các tín hữu trước nguy cơ cầu nguyện như vẹt, tức là một cách máy móc.

Trong lịch sử của triều đại giáo hoàng gần đây, đấng kế vị Thánh Phêrô yêu thích loài chim là Đức Piô XII. Đức Giáo hoàng trong Đệ Nhị Thế chiến có một tình cảm đặc biệt với một con chim hoàng yến nhỏ mà ngài thích cho đậu trên ngón tay của mình. Và nếu các thành viên của Giáo triều La Mã đôi khi có thể chọc ghẹo con chim nhỏ này — một con thú cưng khác lạ đối với một giáo hoàng — thì vị thư ký của ngài, Sơ Pascalina, chăm sóc rất kỹ con chim này để mang lại cảm giác thoải mái cho một người với gánh nặng rất lớn trên vai.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/8/2021]