Thứ Ba, 5 tháng 4, 2022

Bài giảng ở Malta: Đức Thánh Cha Phanxicô chống lại ‘con sâu đạo đức giả’ [TOÀN VĂN]

Bài giảng ở Malta: Đức Thánh Cha Phanxicô chống lại ‘con sâu đạo đức giả’ [TOÀN VĂN]

Bài giảng ở Malta: Đức Thánh Cha Phanxicô chống lại ‘con sâu đạo đức giả’ [TOÀN VĂN]

© Vatican Media

I.Media for Aleteia 

03/04/22


“Chúng ta luôn có nguy cơ không hiểu Chúa Giêsu, kêu tên Ngài trên môi miệng nhưng chối bỏ Ngài qua cách chúng ta sống.”

“Lòng mộ đạo cá nhân và cộng đoàn của chúng ta có thể che đậy con sâu của thói đạo đức giả và sự thôi thúc chỉ ngón tay vào người khác,” Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh báo trong Thánh lễ duy nhất được cử hành trong thời gian ngài ở Malta, trong khu vực thủ đô Valletta, vào ngày 3 tháng Tư năm 2022. Đám đông, ước tính có khoảng 20.000 người, là đại diện cho sự đa dạng của xã hội Malta.

Những gương mặt người Philippines hoặc Ấn Độ, các gia đình, người về hưu, nhiều giáo dân tham gia phục vụ và một cuộc rước ấn tượng gồm 200 linh mục đồng tế trong thánh lễ xung quanh đấng kế vị thánh Phêrô: Thánh Lễ được tổ chức tại Quảng trường Attic, ở Floriana, là một cơ hội để thể hiện sức mạnh của Giáo hội Công giáo ở Malta, một quốc gia mặc dù có một số người đã rời bỏ việc thực hành tôn giáo, nhưng sự nổi tiếng của Giáo hoàng vẫn rất cao.

Mark Laurence Zammit, một nhà báo làm việc cho tờ Times of Malta, nhật báo độc lập hàng đầu của đất nước, nói với I.MEDIA: “Mọi người đến đây để chạm vào giáo hoàng, bởi vì bằng cách này họ cảm thấy như đang chạm vào Chúa Giêsu.”

Phân tích về bài Tin mừng trong ngày kể lại việc giảng dạy của Chúa Giêsu trong Đền thờ, Đức Giáo hoàng nhấn mạnh trong bài giảng của ngài, “trực giác của dân Chúa không thỏa mãn với đền thờ bằng đá, nhưng tập trung đông đảo xung quanh con người của Chúa Giêsu”.

“Trong trích đoạn này, chúng ta có thể thấy người tín hữu của mọi thời đại, dân thánh của Thiên Chúa. Ở đất nước Malta này, dân tộc đó rất đông đảo và sống động,” vị giáo hoàng 85 tuổi nói và ca ngợi một dân tộc “trung thành tìm kiếm Chúa qua một đức tin cụ thể và sống động.

Tuy nhiên, khi đề cập đến đoạn Tin Mừng về người phụ nữ ngoại tình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tố cáo thói đạo đức giả của “những người có học thức và đạo đức”, những người “thể hiện như những chuyên gia về Thiên Chúa” nhưng “không nhận biết Chúa Giêsu” và thậm chí coi ngài là “kẻ thù cần phải loại bỏ”.

Vị Giám mục Roma tố cáo những người “biến đức tin thành một phần mặt tiền của họ; họ trình bày một vẻ bên ngoài đầy ấn tượng và trang trọng, nhưng họ thiếu sự nghèo nàn bên trong là kho tàng lớn nhất của tâm hồn con người.” Ngài kêu gọi các tín hữu Malta hãy nhận biết lòng thương xót của Thiên Chúa “luôn luôn dành chỗ cho cơ hội thứ hai; Người luôn có thể tìm thấy những con đường dẫn đến sự giải thoát và cứu rỗi”.

Đức Phanxicô nói: “Không có tội lỗi hay vấp ngã nào mà chúng ta mang đến trước mặt Người lại không thể trở thành cơ hội để bắt đầu sống một cuộc sống mới và khác biệt dưới biểu ngữ của lòng thương xót.”

Một Thánh Lễ bằng tiếng Malta, tiếng Latinh và tiếng Ý

George và Angela Xuereb, những người hưu trí tham dự thánh lễ xúc động nói: “Chúng tôi hy vọng rằng những lời của Đức Giáo Hoàng sẽ thấm đẫm trong tâm hồn.” Các giáo dân này tham gia rất tích cực vào tình đoàn kết, hy vọng rằng chuyến thăm của Đức Giáo hoàng tới Malta sẽ thúc đẩy một “công cuộc truyền bá phúc âm mới” mà họ cảm thấy hòn đảo của họ đang cần, mặc dù số liệu thống kê vẫn còn đáng ghen tị so với các quốc gia Châu Âu khác.

Thánh lễ được cử hành bằng tiếng Malta, tiếng Latinh và tiếng Ý. Sau đó, Đức Giáo hoàng sẽ đến Tòa Khâm sứ, trước khi đến thăm một trung tâm dành cho người di cư vào cuối buổi chiều, điểm dừng chân cuối cùng trong chuyến tông du hai ngày của ngài tới Malta.

Bài giảng ở Malta: Đức Thánh Cha Phanxicô chống lại ‘con sâu đạo đức giả’ [TOÀN VĂN]



Toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô

“Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người” (Ga 8:2). Những lời này giới thiệu câu chuyện của người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình. Bối cảnh thật thanh bình: vào buổi sáng ở thánh địa, ở trung tâm của Giêrusalem. Trung tâm là dân Chúa đang tìm kiếm Thầy Giêsu trong sân đền thờ: họ muốn lắng nghe Ngài, vì những lời Ngài nói thật sâu sắc và làm ấm lòng. Không có gì trừu tượng trong lời giảng dạy của Ngài; nó đụng chạm, giải thoát, biến đổi và đổi mới cuộc sống thực. Ở đây chúng ta nhìn thấy “trực giác” của dân Chúa; họ không thỏa mãn với đền thờ bằng đá, nhưng tập trung đông đảo xung quanh con người của Chúa Giêsu. Trong trích đoạn này, chúng ta có thể thấy người tín hữu của mọi thời đại, dân thánh của Thiên Chúa. Ở đất nước Malta này, dân tộc đó rất đông đảo và sống động, trung thành tìm kiếm Chúa qua một đức tin cụ thể và sống động.Tôi xin cảm ơn tất cả anh chị em vì điều này.

Trước sự có mặt của những người đó, Chúa Giêsu dành thời gian của Ngài: Tin Mừng cho chúng ta biết rằng, “Người ngồi xuống giảng dạy họ” (câu 2). Tuy nhiên, còn có những chỗ trống trong trường học đó của Chúa Giêsu. Người vắng mặt là người phụ nữ và những người tố cáo chị ta. Không như những người khác, họ không đến gặp Chúa. Tất cả đều có lý do của họ: các kinh sư và người Pharisêu nghĩ rằng họ đã biết hết mọi sự và không cần đến lời dạy bảo của Chúa Giêsu; mặt khác, người phụ nữ lạc lối và lúng túng, một người lầm đường lạc lối tìm kiếm hạnh phúc ở những nơi sai lầm. Họ vắng mặt vì những lý do khác nhau, và câu chuyện sẽ kết thúc cách khác nhau với mỗi người. Chúng ta cùng suy ngẫm về những “người vắng mặt” này".

Trước hết, chúng ta hãy xét đến những người tố cáo người phụ nữ. Nơi họ chúng ta nhìn thấy sự phản chiếu của tất cả những người tự hào mình là người công chính, những người tuân thủ luật pháp của Thiên Chúa, những người đứng đắn và đáng kính. Họ không đếm xỉa đến lỗi phạm của mình, nhưng họ rất quan tâm đến lỗi phạm của người khác. Họ đến với Chúa Giêsu: không phải với tấm lòng rộng mở để lắng nghe lời Ngài, nhưng “để thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người” (câu 6). Điều này tiết lộ những suy nghĩ bên trong của những con người có học thức và đạo đức này, những người biết rõ Kinh thánh và đến đền thờ, nhưng làm việc này vì tư lợi của họ và không chống lại những ý nghĩ xấu xa đang ấp ủ trong lòng họ. Trong mắt mọi người, họ thể hiện là những chuyên gia về Thiên Chúa, nhưng họ không nhận biết Chúa Giêsu; thực ra, họ xem Ngài như một kẻ thù cần phải loại bỏ. Để đạt được điều này, họ đặt trước mặt Ngài một người mà họ khinh bỉ gọi là “người đàn bà này”, coi cô ta như một đồ vật, và công khai tố cáo cô ngoại tình. Họ kêu gọi để người phụ nữ bị ném đá, và đổ lên đầu cô ấy tất cả sự thù địch của họ đối với lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu. Và họ làm như vậy dưới tấm áo khoác danh giá là những người nhiệt thành và mộ đạo.

Thưa anh chị em, những nhân vật này trong Tin mừng nhắc nhở chúng ta rằng bất cứ lúc nào Lòng mộ đạo cá nhân và cộng đoàn của chúng ta cũng có thể che đậy con sâu của thói đạo đức giả và sự thôi thúc chỉ ngón tay vào người khác. Chúng ta luôn có nguy cơ không hiểu Chúa Giêsu, kêu tên Ngài trên môi miệng nhưng chối bỏ Ngài qua cách chúng ta sống. Ngay cả khi chúng ta giơ cao những biểu ngữ in hình thánh giá. Vậy làm thế nào có thể chứng minh được chúng ta có phải là những người môn đệ thật sự của Chúa? Chúng ta làm việc đó qua cách chúng ta nhìn đến người lân cận và cách chúng ta nhìn nhận bản thân như thế nào. Đây là một điểm quan trọng trong cách xác định chúng ta là ai.

Bằng cách chúng ta nhìn đến người lân cận: chúng ta làm việc này với cái nhìn thương xót như Chúa Giêsu cho chúng ta thấy hôm nay, hay với cái nhìn phán xét, thậm chí khinh bỉ như những người tố cáo trong Tin mừng, những người tự cho mình là người bảo vệ Thiên Chúa nhưng lại không nhận ra rằng họ đang chà đạp lên chị em mình. Những người tin rằng họ đang gìn giữ đức tin bằng cách chỉ ngón tay vào người khác có thể có một “lòng mộ đạo” nào đó, nhưng họ đã không thấm nhuần tinh thần của Tin mừng, vì họ xem nhẹ lòng thương xót là trái tim của Chúa.

Để hiểu chúng ta có phải là những người môn đệ đích thực của Chúa hay không, chúng ta cần phải suy nghĩ về cách chúng ta nhìn nhận bản thân. Những người tố cáo người phụ nữ tin rằng họ không có gì để học. Vẻ ngoài của họ là hoàn hảo, nhưng họ thiếu sự thật của tâm hồn. Họ đại diện cho những người tín hữu ở mọi thời đại biến đức tin thành một phần mặt tiền của họ; họ trình bày một vẻ bên ngoài đầy ấn tượng và trang trọng, nhưng họ thiếu sự nghèo nàn bên trong là kho tàng lớn nhất của tâm hồn con người. Đối với Chúa Giêsu, điều thực sự quan trọng là sự mở lòng và vâng nghe của những người không xem mình là vững vàng, nhưng nhận biết họ cần ơn cứu độ. Do đó, thật tốt lành cho chúng ta, bất cứ khi nào chúng ta cầu nguyện, cũng như bất cứ khi nào chúng ta tham gia vào các cử hành tôn giáo, hãy tự vấn bản thân xem chúng ta có thật sự hòa hợp với Chúa hay không. Chúng ta có thể hỏi Người cách thẳng thắn, “Lạy Chúa Giêsu, con ở đây với Chúa, nhưng Người muốn điều gì nơi con? Chúa muốn thay đổi điều gì trong tâm hồn con, trong đời sống của con? Chúa muốn con nhìn nhận người khác như thế nào?” Cầu nguyện như thế sẽ rất tốt cho chúng ta, vì Chúa không bằng lòng với những hình thức bên ngoài; Người tìm kiếm sự thật của tâm hồn. Khi chúng ta mở lòng với Người trong sự thật, Người có thể làm những điều kỳ diệu trong chúng ta.

Chúng ta thấy điều này nơi người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình. Tình cảnh của chị ta tưởng như vô vọng, nhưng rồi một chân trời mới đầy bất ngờ đã mở ra trước mắt. Chị đã bị sỉ nhục và đang chờ sự phán xét tàn nhẫn và sự trừng phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, vô cùng ngạc nhiên, chị thấy mình được Chúa tha tội, Ngài chỉ cho chị ta đến một tương lai mà chị không hề đoán trước: “Không ai lên án chị sao?” – Chúa Giêsu nói với chị ấy – “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu; Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (câu 10,11). Thật vô cùng khác biệt giữa Chúa và những người tố cáo người phụ nữ! Họ viện dẫn Kinh thánh để kết án chị ấy; Chúa Giêsu, chính là Lời của Thiên Chúa, đã hoàn toàn phục hồi người phụ nữ, khôi phục lại hy vọng cho chị. Từ câu chuyện này, chúng ta học được rằng bất kỳ sự phán xét nào không được truyền cảm hứng và thúc đẩy bởi đức ái sẽ chỉ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn cho những người nhận nó. Ngược lại, Chúa luôn luôn dành chỗ cho cơ hội thứ hai; Người luôn có thể tìm thấy những con đường dẫn đến sự giải thoát và cứu rỗi.

Sự tha thứ đã thay đổi cuộc đời của người phụ nữ đó. Lòng thương xót và sự đau khổ ôm lấy. Lòng thương xót và sự đau khổ gặp nhau ở đó, và cuộc đời của người phụ nữ đã thay đổi. Chúng ta thậm chí có thể suy đoán rằng sau khi được Chúa Giêsu tha thứ, về phần mình chị ấy có thể tha thứ cho người khác. Thậm chí chị ấy có thể nhìn những người đã tố cáo chị không phải là những con người tàn nhẫn và xấu xa nữa, mà như phương tiện đã đưa chị đến gặp Chúa Giêsu. Chúa cũng muốn chúng ta, những người môn đệ của Người, Hội Thánh của Ngài, đã được Ngài tha thứ thì cũng trở thành những chứng nhân hòa giải không mệt mỏi. Những chứng nhân của một Thiên Chúa mà nơi Người không tồn tại chữ “không thể cứu rỗi”, một Thiên Chúa luôn tha thứ. Chúa luôn tha thứ. Chúng ta mới là những người cảm thấy mệt mỏi khi cầu xin tha thứ. Thiên Chúa của chúng ta là Đấng không bao giờ ngừng tin tưởng vào chúng ta và luôn cho chúng ta cơ hội để bắt đầu lại. Không có tội lỗi hay vấp ngã nào mà chúng ta mang đến trước mặt Người lại không thể trở thành cơ hội để bắt đầu sống một cuộc sống mới và khác biệt dưới biểu ngữ của lòng thương xót. Không có tội lỗi nào mà không được đối xử theo cách này. Chúa tha thứ tất cả. Người tha thứ mọi tội lỗi.

Đây là Chúa Giêsu. Chúng ta thực sự biết Ngài khi chúng ta cảm nhận được sự tha thứ của Ngài, và như người phụ nữ trong Tin Mừng, khi chúng ta khám phá ra rằng Chúa đến với chúng ta qua vết thương trong lòng của chúng ta. Đó chính là nơi Chúa rất yêu thích tỏ mình ra, vì Người đến không phải vì người khỏe mạnh mà là vì người đau ốm (x. Mt 9:12). Hôm nay, người phụ nữ đó, người đã tìm thấy lòng thương xót trong lúc khốn khổ của mình và bước đi được chữa lành bởi sự tha thứ của Chúa Giêsu, mời gọi chúng ta, trong vai trò là Giáo hội, trở lại với trường học của Tin Mừng, học từ Thiên Chúa của hy vọng, Đấng không ngừng làm chúng ta ngạc nhiên. Nếu noi gương Ngài, chúng ta sẽ không có khuynh hướng tập trung vào việc lên án tội lỗi, nhưng tập trung vào việc lên đường với tình yêu thương để tìm kiếm những tội nhân. Chúng ta bằng lòng với những người đã có mặt, nhưng sẽ đi tìm những người vắng mặt. Chúng ta sẽ không quay lại việc chỉ ngón tay, nhưng sẽ bắt đầu lắng nghe. Chúng ta sẽ không loại bỏ những người bị khinh miệt, nhưng xem những người mà người khác coi là hèn mọn nhất trở thành những người trước hết. Thưa anh chị em, đây là điều hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta qua mẫu gương của Ngài. Chúng ta hãy cho phép Ngài làm chúng ta ngạc nhiên. Chúng ta hãy hân hoan chào đón tin vui mà Ngài mang đến.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 5/4/2022]


Từ hang động của Thánh Phaolô, Đức Thánh Cha kêu gọi ‘lửa mừng chào đón’ người di cư

Từ hang động của Thánh Phaolô, Đức Thánh Cha kêu gọi ‘ngọn lửa chào đón’ người di cư

Từ hang động của Thánh Phaolô, Đức Thánh Cha kêu gọi ‘lửa mừng chào đón’ người di cư

© Vatican Media

I.Media for Aleteia 

03/04/22


“Lạy Cha nhân lành, xin ban cho chúng con ơn có trái tim nhân hậu với nhịp đập bằng tình yêu thương đối với anh chị em của chúng con.”

“Những người đang vật lộn giữa sóng biển,” là trọng tâm trong lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha Phanxicô trong chuyến thăm của ngài tới Hang động của Thánh Phaolô ở thành phố Rabat. Đức Thánh Cha liên kết lòng hiếu khách của người Malta dành cho Thánh Tông đồ Phaolô với thái độ hiện tại của họ đối với những người di cư đang mắc kẹt trên đảo, cửa ngõ vào Liên minh Châu Âu.

Sau cuộc gặp riêng với các tu sĩ Dòng Tên địa phương tại Tòa Khâm sứ, Đức Giáo hoàng Phanxicô tiếp tục ngày thứ hai ở Malta bằng việc theo bước các đấng tiền nhiệm của ngài là Đức Gioan Phaolô II và Đức Benedict XVI đã đến vào các năm 1990 và 2010, hai ngài cũng đã đến viếng hang động nơi Thánh Tông đồ lánh nạn sau vụ đắm tàu trong thời gian ba tháng ở Malta.

“Người muốn Thánh Tông đồ Phaolô công bố tình yêu của Người cho những cư dân của Malta, những người chưa biết Chúa,” Đức Giáo hoàng nhắc lại trong một lời cầu nguyện nhắc đến chương này có từ năm 60, và được tường thuật trong sách Tông đồ Công vụ.

“Được cứu thoát từ vụ đắm tàu, Thánh Phaolô và những người bạn đồng hành của ngài đã tìm thấy nơi này chào đón họ, những người ngoại giáo có tấm lòng nhân hậu, những người đã đối xử với họ bằng tình người hiếm có, nhận ra rằng họ đang cần giúp đỡ,” vị Giám mục Roma nói trong hang động chật hẹp dưới một vương cung thánh đường.

Khi đề cập đến những lo ngại hiện tại về sự xuất hiện của người nước ngoài, ngài lưu ý trong lời cầu nguyện rằng đối với người Malta thời Thánh Phaolô, “Không có thời gian cho các cuộc thảo luận, cho các phán xét, phân tích và tính toán: chỉ có thời gian để đưa bàn tay giúp đỡ.”

“Lạy Cha nhân lành, […] Xin giúp chúng con nhận ra từ xa những người đang gặp khó khăn, đang vật lộn giữa sóng biển, lao vào những dãy đá ngầm của các bờ biển vô định,” đức giáo hoàng dâng lời nguyện xin. Ngài dự kiến đến thăm một trung tâm tiếp nhận người di cư ở phía nam của hòn đảo vào buổi chiều.

Đấng kế vị Thánh Phêrô mời gọi hãy thắp sáng “ngọn lửa chào đón” để quan tâm đến tất cả mọi người, những người Thiên Chúa yêu thương “không phân biệt.” Ngài dâng lời nguyện xin, “Trong đêm đen, xin hãy thắp sáng con đường dẫn đến vương quốc tình yêu và hòa bình của Người.”

Ngoài giờ cầu nguyện, Đức Thánh Cha đã chào những người bệnh và những người được Caritas chăm sóc, và các nhà lãnh đạo tôn giáo, tập trung tại Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô.

Ngày thứ hai trong chuyến thăm Malta của Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục với một thánh lễ tại Quảng trường Granary ở Floriana, dự kiến bắt đầu lúc 10:15 sáng.

Từ hang động của Thánh Phaolô, Đức Thánh Cha kêu gọi ‘lửa mừng chào đón’ người di cư


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 5/4/2022]