Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

Linh mục đầu tiên của Mông cổ sau ngàn năm nói chuyện với Aleteia

Linh mục đầu tiên của Mông cổ sau ngàn năm nói chuyện với Aleteia


Chúng tôi phỏng vấn cha Giu-se Enkhee-Baatar, linh mục đầu tiên gốc người Mông cổ sau một ngàn năm

web-father-mongolia-joseph-enkh-baatar-c2a9-asianews-it

asianews-it
Aleteia: Cha được tiến chức ở Mông cổ ngày 28 tháng 8, 2016, và cha trở thành linh mục bản xứ đầu tiên trong cả ngàn năm qua! Cha cảm thấy tầm quan trọng lịch sử của việc này như thế nào?
Cha Giu-se Enkhee-Baatar: Tôi rất vui và vinh dự được chọn để tiến chức ở Mông cổ, và góp một phần nhỏ trong sứ vụ. Những nhà thừa sai đầu tiên đến Đế Quốc Mông Cổ là những vị theo bè Nestorius. Họ đến vào khoảng đầu thế kỷ thứ 7 và thứ 8. Sau đó, một số bộ lạc Mông cổ theo Ki-tô giáo. Rồi, vào thế kỷ 13 dưới triều đại nhà Nguyên, các nhà thừa sai Công giáo đến. Theo một số tài liệu lịch sử, Đế quốc có khoảng 30.000 người Công giáo Mông cổ vào lúc đó. Giáo hội sau đó duy trì gần 100 năm dưới triều đại nhà Nguyên. Có thể lúc đó đã có một số linh mục được tiến chức, nhưng tôi chưa tìm được tài liệu lịch sử đáng tin cậy nào. Sau sự sụp đổ của nhà Nguyên, và sự trỗi dậy của nhà Minh, Ki-tô giáo biến mất khỏi đất nước.
Theo ý cha, tại sao thời gian lại trôi qua quá lâu giữa lần loan báo Tin mừng đầu tiên trong đất nước của cha cho đến lần phong chức đầu tiên này?
Có một số lý do giải thích khoảng trống giữa lần rao giảng Tin mừng đầu tiên đến sự hồi sinh hiện tại của Giáo hội. Trước hết, đó là sự nổi dậy của người Hồi giáo ở Trung đông làm cản trở các nhà thừa sai đến Mông cổ, một đất nước nằm sâu trong lục địa. Ngoài ra, đầu thế kỷ 16 và 17, Mông cổ thừa nhận Phật giáo Tibet và cuối cùng trở thành quốc giáo. Mông cổ là một quốc gia thần quyền cho đến cuộc cách mạng cộng sản. Khi đất nước trở thành quốc gia Cộng sản năm 1924, những chương trình rao giảng phúc âm của quốc gia bị bắt giữ. Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản năm 1990, những nhà thừa sai đầu tiên, có 3 vị, đến Mông cổ năm 1992. Năm tới chúng tôi sẽ kỷ niệm 25 năm sự hiện diện của Giáo hội Công giáo ở đây.
Phải mất nhiều thời gian để rao giảng Phúc âm vì đất nước của chúng tôi có nguồn gốc ảnh hưởng sâu của các pháp sư (Tengrism) và một số nền tảng khác, gần đây hơn, ảnh hưởng bởi nguồn gốc Phật giáo. Đó là lý do tại sao người dân xem Ki-tô giáo như một tôn giáo nước ngoài và đôi khi như một sự đe dọa cho truyền thống và văn hóa Mông cổ.
Mông cổ có ít người Công giáo. Liệu thực tế cha là người Mông cổ sẽ giúp việc rao giảng cho người trong nước dễ dàng hơn?
Đức Giê-su nói, “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì thiếu. Vì vậy chúng tôi cần thêm linh mục, nữ tu và các thừa sai giáo dân để làm việc phục vụ cho vương quốc của Thiên Chúa. Nếu anh phục vụ Thiên Chúa và dân Người toàn tâm toàn ý bằng lời nói, bằng việc làm và bằng đời sống của anh, quốc tịch của anh là gì sẽ không còn là vấn đề. Anh sẽ luôn là nguồn hỗ trợ tuyệt vời và là khí cụ rao giảng Tin mừng cho đất nước và cho thế giới.
Tuy nhiên, chúng tôi cần thêm nhiều linh mục gốc bản xứ vì họ biết cách áp dụng những giáo huấn của Đức Ki-tô và của Giáo hội ở đây tốt hơn. Từ đó người Mông cổ sẽ hiểu rõ hơn và chấp nhận, không phải như một giáo huấn của một tôn giáo ngoại quốc nhưng là một tôn giáo rất gần gũi với truyền thống của họ, với văn hóa và lối sống của họ.
Giáo xứ của cha có lớn không, số lượng tín hữu, tỷ lệ phần trăm người Công giáo ở Mông cổ?
Trong toàn quốc, có khoảng 1200 người Công giáo chiếm chỉ  0.04% dân số chung. Tuy nhiên, tổng số người Ki-tô hữu trong nước vào khoảng 2%. Chúng tôi có 6 giáo xứ và vài ba “họ đạo” [trong tổng số 21 tỉnh của Mông cổ, 17 tỉnh có người Công giáo hiện diện].
Những thử thách mục vụ đang chờ đợi cha trong những tháng đầu là gì?
Tôi vừa mới được tiến chức 1 tuần trước và ở trong nhà Thừa sai của Giáo hội Công giáo. Hiện tại tôi đang chờ bài sai chính thức cho biết tôi sẽ đi đâu cho công tác mục vụ đầu tiên của tôi.

[Nguồn:  aleteia]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 17/09/2016]



Tôi từ Calcutta trở về và vẫn còn những cơn ác mộng

Tôi từ Calcutta trở về và vẫn còn những cơn ác mộng


'Người nghèo nhất giữa những người nghèo’ không chỉ là một câu khẩu ngữ dễ nhớ nào đó ...


JEFFREY BRUNO

KOLKATA, INDIA - NOVEMBER 12:  Slum dwellers live by a railroad track Kolkata, India. India's slum population is projected to rise to 93.06 million by 2011, or 7.75 percent of the total population, according to a report of an expert committee set up by the housing and urban poverty alleviation ministry.  (Photo by Kuni Takahashi/Getty Images)

Kuni Takahashi/Getty Images
Tôi không muốn viết lên điều này. Có lẽ vì tôi không muốn nghĩ về nó. Từ ngày tôi từ Calcutta trở về, tôi đã cố gắng giũ bỏ khỏi mình vấn đề chính đó là sự mệt mỏi do lệch múi giờ. Tôi đã xem nó như là “buổi đi dạo ở Ấn độ” của tôi. Tôi chiến đấu với mọi sự nhọc mệt và cố gắng cười vào nó, và tôi đã phải giật mình thức dậy lúc nửa đêm vì sợ toát cả mồ hôi, kinh hoàng vì tôi vẫn còn đang ở đây. Tôi đã cố gắng tránh không nói về nó, và thậm chí không muốn lưu trữ những ảnh tôi đã chụp. Có thứ gì đó phải cắt đứt một cách nghiêm túc.
Vì vậy sáng nay, với cố gắng giũ bỏ những gì đã làm tôi khó chịu, tôi chạy đến một trong những con đường rầy xe lửa gian khổ nhất mà tôi biết. Nó phủ đầy cát, đồi dốc và đầy những chướng ngại vật luôn bảo đảm với bạn phải đổ mồ hôi, đau nhức và thỉnh thoảng cả máu. Nó là cách tốt nhất để xả căng thẳng và cũng là có cái nhìn rõ ràng về mọi thứ … và sau cỡ một dặm đường, tôi mới nhận ra vấn đề là gì.
Khi tôi đến Calcutta, một ngày kia một mình lang thang trên các đường phố, tôi bị lạc đường một đôi lần và nhìn thấy những điều mà người Tây phương không hề ngờ tới. Tôi nhìn thấy trẻ em tắm trong các vũng nước tù đầy phân, các gia đình ngủ trên những con đường chỉ có một cái chiếu và tấm bạt vải nhựa hắc ín che làm nhà, người và động vật chung nhau nhặt thức ăn trong các đống thực phẩm của những người bán rong vứt trên đường. Tôi thậm chí nghe câu chuyện một con chó bị giết và xả thịt bán.
Khi tôi bước dạo qua trên các con đường, không thể nào chịu đựng nổi những gì tôi đang nhìn thấy, tôi thậm chí không thể nhấc máy ảnh lên để chụp. Ngay cả trong những giấc ác mộng khủng khiếp nhất của tôi, tôi cũng chưa bao giờ hình dung ra mức độ cùng khổ như vầy có thể tồn tại trong thế giới hiện đại.
Tôi đã viết một loạt bài (wrote a bunch) về những hành động đáp trả mang đầy ân sủng của Dòng Thừa sai Bác ái mà không thực sự giải thích được môi trường mà dòng đang phục vụ. Việc xem phim hoặc xem ảnh về những nơi này là một chuyện, nhưng nó lại hoàn toàn khác khi đi giữa những con người cùng khốn đó. Trong hoàn cảnh này đó là sự đau khổ của tâm trí bị chết lặng, xương cốt bị xụm xuống, sự nghèo đói khốn khổ. Và đối với họ …  đây là cuộc sống.
Không có mạng lưới an toàn, không có hệ thống phúc lợi, không có con đường dẫn tới đâu cả, chẳng có đường thoát, ngoại trừ cái chết. Bây giời tôi mới nhận ra tại sao Đức Ki-tô nói “người nghèo sẽ luôn ở bên anh em …” vì tôi không nghĩ rằng một ai đó có thể lần mò tìm được cách để ‘sửa’ lại điều này.
“Vì ta đói các ngươi cho ăn, ta khát các ngươi cho uống, ta là khách lạ các ngươi cho ta chỗ ở, ta trần truồng các ngươi cho ta quần áo mặc. Ta đau yếu các ngươi đến chăm sóc. ta tù đày các ngươi đến thăm ...
“Quả thật ta nó với các ông, bất cứ điều gì các ông là cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất ở đây là các ông làm cho chính ta.”
Bây giờ tôi mới tin rằng Trái tim của Đức Ki-tô ở Calcutta, và phục vụ ở đó ĐÚNG là phục vụ Ngài. Khi Thánh Teresa Calcutta đến phục vụ “người nghèo nhất giữa những người nghèo,” đó không phải là một khẩu ngữ dễ nhớ nào đó … thực sự, đây là những người nghèo nhất trong sự thống khổ tồi tệ và đáng thương.
Bằng cách nhìn lại những trải nghiệm, tôi mới hiểu thật rõ ràng rằng Mẹ đã trên con đường nên thánh ngay từ giây phút mẹ đáp lời theo tiếng gọi, vì cần phải có ơn sủng vượt ra ngoài mọi giải pháp mới sẵn sàng đi vào những nơi này, vào một nơi mà tôi chỉ có thể mô tả là sự nghèo khổ theo không gian ba chiều, và tìm kiếm sự phục vụ Đức Ki-tô.
Một người bạn thân có lần nói với tôi “Nếu cậu không kể cả hai mặt của câu chuyện, thì nó có thể là sự tuyên truyền” … Và có thể là không đúng nếu chỉ nói về những giải thưởng đáng ngạc nhiên cho sự phục vụ cùng với dòng Thừa sai Bác ái ở Ấn độ, vì thế, khi viết đến điều này, tôi hy vọng trình bày được một ít bối cảnh.
Tình nguyện phục vụ là một trong những trải nghiệm của ơn sủng lớn nhất và tràn đầy hồng ân nhất của đời tôi. Thật ngạc nhiên khi trải nghiệm được sự thật nghiệt ngã phản chiếu nỗi đau không thể tưởng tượng nổi và sự hồi đáp của ơn sủng … một sự đấu tranh đang bùng lên ở đó có lẽ cho đến tận cùng của thế giới.
Hãy dừng một giây và tạ ơn vì tất cả những gì bạn có, những điều tốt cũng như xấu … vì trong những con hẻm nhỏ nồng nặc mùi xú uế, nóng và ẩm, và dày đặc khói kia ở Calcutta tồn tại một sự cùng khổ vượt ra ngoài những gì từ ngữ có thể miêu tả … một sự cùng khổ chỉ có thể được trả lời bằng Ơn sủng ...
Thánh Mẹ Teresa, xin hãy khơi nguồn cảm hứng cho những người đã được kêu gọi để đáp lại thử thách phục vụ Đức Ki-tô trong những nơi tối tăm nhất ở đây, để có thể sẽ có thêm nhiều thánh …

Jeffrey Bruno

Jeffrey Bruno là giám đốc nghệ thuật của Aleteia.org.

[Nguồn:  aleteia]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 16/09/2016]



Đức Thánh Cha thăm bệnh viện hộ sinh và bệnh viện chăm sóc bệnh nhân cuối đời để làm nổi bật sự tôn trọng sự sống

Đức Thánh Cha thăm bệnh viện hộ sinh và bệnh viện chăm sóc bệnh nhân cuối đời để làm nổi bật sự tôn trọng sự sống

Pope Francis visited the neonatology ward of San Giovanni in Rome, Sept. 16, 2016. Credit: L'Osservatore Romano.

Đức Thánh Cha thăm khoa sơ sinh của bệnh viện Thánh Giovanni ở Rome, 16 tháng 9, 2016. Credit: L'Osservatore Romano.




Vatican City, 16 tháng 9, 2016 / 11:19 am (CNA/EWTN News).- Thứ Sáu, Đức Thánh Cha đến thăm một bệnh viện hộ sinh và một bệnh viện cho những bệnh nhân cuối đời, nhấn mạnh đến phẩm giá sự sống con người từ lúc thụ thai đến khi chết tự nhiên.
Chuyến thăm ngày 16 tháng 9 là sáng kiến mới nhất trong loạt sáng kiến “Thứ Sáu Thương Xót” của Đức Thánh Cha, dành thời gian với nhiều nhóm người khác nhau mỗi tháng trong suốt Năm thánh Lòng thương xót.
Trong những lần trước, ngài đã làm những lần dừng chân ngạc nhiên tại những nơi như một nhà dưỡng lão, trung tâm cai nghiện và phục hồi cho người nghiện thuốc phiện và rượu, và một nhà hưu dưỡng của các linh mục hưu.
Chuyến thăm của tháng này, Đức Thánh Cha trước tiên đến thăm bệnh viện Thánh Giovanni, dừng chân tại phòng cấp cứu và khoa sơ sinh. Hiện tại có 12 em bé trong lồng kính với nhiều tình trạng khác nhau. Trong đó có 5 bé – gồm một cặp song sinh – đang trong tình trạng rất nghiêm trọng trong khu chăm sóc đặc biệt.
Một bài mô tả sự việc nói rằng Đức Thánh Cha Phanxico mặc áo mũ vệ sinh và thực hiện các hướng dẫn về vệ sinh khác, cũng giống như tất cả khách đến thăm phòng, nơi có các bé với hệ thống miễn dịch yếu.
Ngài nói chuyện với các bé trong lồng kính, và chào thăm cha mẹ các bé, cho những lời động viên an ủi.
Đức Thánh Cha Phanxico sau đó đến thăm Bệnh viện Villa Speranza dành cho bệnh nhân giai đoạn cuối đời, tại đây có 30 bệnh nhân đang ở trong giai đoạn cuối của các căn bệnh. Ngài đến chào thăm từng bệnh nhân, cũng như gia đình của họ, trong một tinh thần gặp gỡ rất cảm động.
Qua chuyến thăm, “Đức Thánh Cha muốn đưa ra một tín hiệu mạnh mẽ về tầm quan trọng của sự sống, từ giây phút thụ thai đầu tiên đến khi kết thúc tự nhiên,” Vatican nói trong một báo cáo.
“Sự thừa nhận sự sống và bảo đảm nhân phẩm ở mọi giai đoạn phát triển là những bài học được nhấn mạnh lặp đi lặp lại bởi Đức Thánh Cha Phanxico,” Vatican tiếp tục, và thêm rằng chuyến thăm hai nơi của Đức Thánh Cha là một “tín hiệu cụ thể và hữu hình” với mức độ quan trọng mà mọi người phải chú ý đến “những người đang trong những tình trạng rất mong manh và hiểm nghèo.”
pope
pope
pope
pope
pope
pope
pope
pope




[Nguồn: catholicnewsagency]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 17/09/2016]