Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

Câu chuyện ly kỳ về việc tìm kiếm xương của Thánh Phê-rô

Câu chuyện ly kỳ về việc tìm kiếm xương của Thánh Phê-rô

29 tháng Mười, 2018
Câu chuyện ly kỳ về việc tìm kiếm xương của Thánh Phê-rôAlessia Giuliani | CPP

Đức Thánh Cha Phanxico hôn thánh tích của Thánh Tông đồ Phê-rô trên bàn thờ trong một Thánh Lễ tại Quảng trường Thánh Phê-rô ở Vatican



O’Neill mô tả, “Khi các công nhân đào sâu hơn tìm về lịch sử của khu nghĩa trang bên dưới Roma, họ “đang đi trở về với quá khứ.”

Năm 1941 — khi các làn mưa bom trút xuống London, các xe tăng của Đức gầm rú ở Liên Xô, và hầu như toàn bộ lục địa Châu Âu đều phấp phới cờ của Đức Quốc Xã hoặc đồng minh của họ — một trong những cuộc tìm kiếm thuộc khảo cổ học lớn nhất trong lịch sử đang diễn ra ngay giữa lòng những hỗn loạn đó.

Sâu dưới lòng Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô, các công nhân bắt đầu tìm kiếm xương của vị giáo hoàng đầu tiên đã tử đạo và được chôn ở đó, theo truyền thống của Giáo hội.

Tất cả đều bắt đầu do sự tình cờ.

Năm 1939, những công nhân đang đào dưới nền trong các hang phía dưới bàn thờ Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô để lấy không gian cho một nhà nguyện nơi Đức Giáo hoàng quá cố Piô XI yêu cầu được chôn cất tại đó. Bất ngờ, nền sụp xuống, lộ ra một nhà xác Roma cổ với những bức bích họa trên tường rất đáng chú ý và mộ của một người nữ Ki-tô hữu trẻ — tất cả đều bị che lấp và không được nhìn thấy trong suốt hơn một thiên niên kỷ.

Khi được thông tin về sự khám phá, Đức Giáo hoàng Piô XII đứng trước một lựa chọn. Truyền thống Giáo hội khẳng định rằng vị giáo hoàng đầu tiên đã chịu tử đạo và được chôn ở Roma. Tiếp tục việc khai quật có thể thẩm định được truyền thống đó, nhưng về mặt khác nếu thất bại trong việc tìm kiếm thánh tích sẽ “gây hoang mang” cho vị thế của Roma là ngai tòa của giáo hoàng, như nhà văn John O’Neill giải thích trong quyển sách gần đây của ông, The Fisherman’s Tomb (Ngôi mộ của người ngư phủ), kể câu truyện việc tìm kiếm mộ Thánh Phê-rô. Tuy nhiên Đức Piô XII chọn quyết định mà nhiều người bên ngoài xem như là một canh bạc vì ngài “tin chắc chắn rằng Thánh Phê-rô ở đó.” (Trình thuật được trình bày ở đây dựa theo sách của O’Neill’s.)

Công việc khai quật bắt đầu từ một manh mối cho biết vị trí có thể là nơi an nghỉ của Thánh Phê-rô. Một trong những gia tài của Thư viện Vatican, quyển Sách về các Giáo hoàng 1500 tuổi, mô tả chi tiết vị trí chôn giấu xương của Thánh Phê-rô — trong một quan tài nhỏ bằng đồng thau đặt trong hòm đá cẩm thạch nằm chung với kho báu khác. Một bia kỷ niệm gọi là Trophy of Gaius được cho là điểm đánh dấu vị trí.

Công việc khai quật là một công trình khổng lồ, buộc phải xây những trụ cột đặc biệt chống đỡ cho vương cung thánh đường và tạo điểm tựa cho các tòa nhà Vatican nằm phía trên — cấu trúc mà O’Neill mô tả là “một trong những công trình kiến trúc lớn nhất và nặng nhất trên trái đất.” Theo lệnh của đức giáo hoàng, công trình phải được thực hiện trong sự bí mật tuyệt đối, vì vậy việc sử dụng những máy móc công cụ lớn và mạnh đều bị cấm. Tất cả công trình này đều dựa vào sự hỗ trợ tài chính của một ông chủ khai thác dầu mỏ Texas và là một người Công giáo nhiệt thành tên George Strake, ông cũng giúp giữ kín câu chuyện.

O’Neill mô tả, khi các công nhân đào sâu hơn tìm về lịch sử của khu nghĩa trang bên dưới Roma, họ “đang đi ngược về quá khứ.” Khi những lớp bụi bị quét sạch thì thế giới Roma cổ đại hiện ra. Các ngôi mộ của những gia đình ngoại giáo hiện lên, cùng với nhiều tượng và những bích họa về anh hùng Hercules và thần Pluto. 

Cho đến lúc đó, những người khai quật chỉ nhìn thấy một dấu hiệu duy nhất liên quan đến Thánh Phê-rô — một bức tranh vẽ Đức Ki-tô và Thánh Phê-rô cùng với những dòng chữ khắc lời cầu nguyện của thánh tông đồ.

Sau đó nhóm khai quật — dẫn đầu là linh mục Antonio Ferrua của Vatican và là một nhà khảo cổ — lại tìm được một khu khác: họ tình cờ phát hiện được một ngôi mộ khác dưới lòng đất, phủ đầy những tấm ảnh Ki-tô giáo mô tả Chúa Ki-tô sống lại, Người Mục tử Nhân lành, và tiên tri Giô-na và con cá voi.

Phấn khởi vì khám phá mới, nhóm khai quật lại tiếp tục công việc. Khi họ đào sâu vào trong lịch sự họ tìm thấy một bàn thờ được xây dựng trong thời Phục hưng và hai bàn thờ khác có niên đại thời kỳ thập tự chinh. Họ cũng tìm thêm được hai bức tường — Bức tường Đỏ từ thời của Hoàng đế Marcus Aurelius năm 160 và một bức tường khác, được gọi là Bức tường Graffiti, năm 250. Bức tường thứ hai sau đó là chứng minh quan trọng cho mục đích họ, nhưng lúc đó thì công việc khai quật vẫn tiếp tục.

Cuối cùng vào năm 1942, các nhà khai quật tìm được thứ mà họ cho là Trophy of Gaius. Mặc dù không có hòm quách hay quan tài, nhưng họ tìm được những khúc xương trong một hộp mở nhỏ trong Bức tường Đỏ. Bác sĩ riêng của giáo hoàng kiểm tra và công bố đó là xương của một người đàn ông 65 tuổi. Thế giới khi đó hoàn toàn không hay biết gì về khám phá cho mãi đến 7 năm sau — khi một nhà báo Ý tiết lộ câu chuyện.

Nhưng công việc tìm kiếm xương của Thánh Phê-rô chỉ vừa bắt đầu.

Trước hết, Vatican phải bảo đảm làm sao Roma thoát khỏi cuộc tàn phá đang san phẳng các thành phố khác của Châu Âu. Hoa kỳ giảm bớt những cuộc ném bom và ngăn chặn các cuộc tấn công vào Roma, nhờ các nỗ lực ngoại giao của ba linh mục Vatican — Đức ông Giovanni Montini, Walter Carroll, và Joseph McGeough (vị đầu tiên sau đó trở thành Giáo hoàng Phaolo VI; hai vị sau là người gốc Mỹ.) Vatican cũng tìm được cách thuyết phục người Đức rút quân để giữ cho Roma bình yên sau khi họ rút.

Roma thoát khỏi Đệ nhị Thế chiến và xương của Thánh Phê-rô cũng thoát, cho đến khi tin tức về sự khám phá được công bố rộng rãi năm 1949. Một năm sau một nhà khảo cổ học nổi tiếng người Ý, Margherita Guarducci, được mời đến để kiểm tra khu nghĩa trang được khai quật dưới lòng Vatican. Bà phát hiện thấy rằng nhóm khai quật không tuân thủ chặt chẽ “những quy trình khảo cổ căn bản,” O’Neill nói. Bà thông báo cho Đức Giáo hoàng Piô XII, và ngài trao trách nhiệm thực hiện dự án cho bà.

Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của bà là giải mã những dòng chữ khắc bí ẩn trên Bức Tường Graffiti mà trước đó không được chú ý. Trong số các ký tự mang tính biểu trưng đậm nét Ki-tô giáo như P thay cho Peter (Phê-rô), R cho Resurrection (Phục sinh), và T thay cho thập giá. Và sau đó bà Guarducci tìm thấy một manh mối vô cùng rõ ràng — một dòng chữ khắc “Gần Phê-rô.” Bên cạnh đó là một dòng chữ trước đó bà đã thoáng thấy “Phê-rô ở bên trong.”

Một nhà nhân chủng học y khoa sau đó kiểm tra các xương trước đó được cho là xương của Thánh Phê-rô và khẳng định rằng những phát hiện đó là sai. Ông thẩm định tính xác thực của những xương được phát hiện lần hai. Năm 1965, Vatican phát hành một báo cáo của bà Guarducci tiết lộ những phát hiện mới.

Nhưng nhà khảo cổ Ferrua — người tiền nhiệm của bà Guarducci — phát động chiến dịch đánh lạc hướng thách đố tính xác thực của công trình của bà Guarducci. Sau khi Đức Piô VI qua đời năm 1978, bà Guarducci bị mất một trong những đồng minh quan trọng cuối cùng trong Vatican. Với vị trí là hiệu trưởng Học việc Giáo hoàng Khảo cổ Ki-tô giáo, linh mục Ferrua có thể gạt bà Guarducci ra ngoài và thu lấy các xương từ trong Bức tường Graffiti. Kết quả là sự thật về các xương của Thánh Phê-rô vẫn mơ hồ giữa những tranh cãi trong suốt nhiều thập niên.

Cuối cùng, Đức Giáo hoàng Benedict XVI ra lệnh xem xét lại vấn đề, và sau đó được kết luận dưới triều Đức Thánh Cha Phanxico. Việc xem xét lần này khẳng định những kết luận của bà Guarducci, và ngày 5 tháng Mười Hai, 2013, Đức Thánh Cha Phanxico rước các xương trở về nơi an nghỉ ban đầu.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 31/10/2018]


Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ bế mạc của Đại Hội đồng chung Thông thường của Thượng Hội đồng Giám mục về Giới trẻ, Đức tin, và Sự Phân định ơn gọi

Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ bế mạc của Đại Hội đồng chung Thông thường của Thượng Hội đồng Giám mục về Giới trẻ, Đức tin, và Sự Phân định ơn gọi
Thánh Lễ Bế mạc - Thượng Hội đồng 2018

Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ bế mạc của Đại Hội đồng chung Thông thường của Thượng Hội đồng Giám mục về Giới trẻ, Đức tin, và Sự Phân định ơn gọi

‘Xin Chúa chúc phúc cho những bước đi của chúng ta, để chúng ta có thể lắng nghe người trẻ, trở thành người anh em của họ, và làm chứng tá cho họ về Chúa Giê-su, là niềm vui của cuộc đời chúng ta’

28 tháng Mười, 2018 11:14

Lúc 10 giờ sáng nay, 28 tháng Mười, 2018, Đức Thánh Cha Phanxico chủ tế Thánh Lễ trong Vương cung Thánh đường Thánh Phê-rô bế mạc Đại hội chung Thông thường của Thượng Hội đồng Giám mục về “Giới trẻ, Đức tin, và sự phân định ơn gọi.” Dưới đây là bản dịch (tiếng Anh) của Vatican bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxico trong Thánh Lễ:


***


Trình thuật Tin mừng chúng ta vừa nghe là trình thuật cuối cùng của Thánh sử Mác-cô kể về sứ vụ rao giảng qua mọi miền của Chúa Giê-su, Người đang chuẩn bị về Giê-ru-sa-lem để chịu chết và sống lại. Vì vậy Ba-ti-mê là người cuối cùng theo Chúa Giê-su trên đường đi: từ một người hành khất trên con đường dẫn đến Giê-ri-khô, anh trở thành một môn đệ cùng đồng hành với những môn đệ khác trên con đường về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta cũng vậy, chúng ta đã cùng đồng hành với nhau; chúng ta đã trở thành một “hội nghị chung”. Tin mừng hôm nay in dấu ba bước đi nền tảng trên hành trình đức tin.

Trước tiên, chúng ta cùng xét đến Ba-ti-mê. Tên của anh có nghĩa là “con của ông Ti-mê.” Đó là cách Tin mừng mô tả về anh: “Ba-ti-mê, con ông Ti-mê” (Mc 10:46). Tuy nhiên, thật trớ trêu, chẳng tìm thấy cha của anh ở đâu. Ba-ti-mê nằm một mình bên vệ đường, rất xa nhà và không có cha. Anh ta không được yêu thương, nhưng bị bỏ rơi. Anh ta bị mù và chẳng ai lắng nghe tiếng nói của anh. Chúa Giê-su đã nghe tiếng kêu xin của anh. Khi anh ta đến với Ngài, Ngài để cho anh lên tiếng. Cũng chẳng khó khăn để chúng ta đoán xem Ba-ti-mê muốn điều gì: rõ ràng, một người mù thì chắc chắn muốn lấy lại được khả năng nhìn. Nhưng Chúa Giê-su muốn dành thời gian; Ngài dành thời gian để lắng nghe anh. Đây là bước đi đầu tiên trong việc trợ giúp trên hành trình đức tin: lắng nghe. Nó là tác vụ tông đồ của đôi tai: lắng nghe trước khi nói.

Thay vì vậy, nhiều người cùng đi với Chúa Giê-su ra lệnh cho Ba-ti-mê phải im lặng (x. c. 48). Đối với những môn đệ như vậy, thì một người thiếu thốn trên đường trở thành sự phiền toái cho họ, nó nằm ngoài ý muốn và không có kế hoạch trước. Họ thích cái thời gian biểu của riêng họ còn hơn là của Thầy, họ thích nói chuyện riêng của họ hơn lắng nghe người khác. Họ đi theo Chúa Giê-su, nhưng họ lại vạch cho họ những kế hoạch riêng trong tâm trí. Đây là một sự nguy hiểm mà chúng ta phải liên tục canh chừng. Nhưng đối với Chúa Giê-su, tiếng kêu của những người đang van xin sự giúp đỡ không phải là một sự phiền toái nhưng là một thách đố. Lắng nghe cuộc sống là một điều vô cùng quan trọng đối với chúng ta! Những người con của Cha trên trời phải quan tâm chú ý đến những anh chị em của họ, không phải là chuyện phiếm vô bổ, nhưng là những nhu cầu của người anh em. Họ lắng nghe một cách kiên nhẫn và đầy yêu thương, cũng như Chúa lắng nghe chúng ta và những lời cầu nguyện của chúng ta, bất kể là lời đó được lặp đi lặp lại bao nhiêu lần. Chúa không bao giờ biết mệt mỏi; Người luôn vui sướng khi chúng ta đi tìm Người. Cả chúng ta nữa hãy xin ơn để có được một tâm hồn biết lắng nghe. Đại diện cho tất cả những người lớn, cha muốn nói với các bạn trẻ rằng: hãy tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta thường xuyên không lắng nghe chúng con, nếu, thay vì phải mở rộng tâm hồn chúng ta, thì chúng ta lại bắt chúng con phải nghe quá nhiều. Là Giáo hội của Đức Ki-tô, chúng ta muốn lắng nghe chúng con với tình yêu thương, chắc chắn vì hai điều: cuộc sống của chúng con vô cùng quý giá trước mặt Thiên Chúa, vì Thiên Chúa luôn luôn trẻ trung và yêu thương người trẻ, và cuộc sống của chúng con vô cùng quý giá trước mắt chúng ta nữa, và quả thật cần phải tiến bước.

Sau khi lắng nghe, một bước thứ hai trên hành trình đức tin là trở thành người anh em. Chúng ta hãy nhìn đến Chúa Giê-su: Ngài không ủy quyền cho một người nào đó trong “đám đông” đang theo Ngài, nhưng chính Ngài trực tiếp đến gặp Ba-ti-mê. Ngài hỏi anh ta, “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 51). Anh muốn … –

Chúa Giê-su dành toàn thời gian cho Ba-ti-mê; Ngài không cố tìm cách tránh anh ta … tôi làm gì – không chỉ nói đơn thuần, nhưng làm một điều gì đó … cho anh – không phải theo những ý tưởng đã định trước của tôi, nhưng cho anh, cho trường hợp đặc biệt của anh. Đó là cách hoạt động của Thiên Chúa. Ngài can thiệp một cách riêng tư với một tình yêu đặc biệt dành cho mỗi con người. Bằng những hành động của Người, Người chuyển tải thông điệp của Người. Từ đó đức tin trổ hoa trong cuộc sống.

Đức tin truyền đạt qua cuộc sống. Khi đức tin chỉ quan tâm thuần túy đến công thức giáo lý, nó có nguy cơ chỉ nói với trí óc nhưng lại không chạm đến được con tim. Và khi nó chỉ quan tâm duy nhất đến hoạt động, nó có nguy cơ biến thành việc dạy đời và công việc xã hội. Thay vì vậy, đức tin là cuộc sống: nó là việc sống trong tình yêu của Thiên Chúa Đấng đã biến đổi cuộc đời của chúng ta. Chúng ta không thể chọn lựa giữa giáo lý và chủ nghĩa hành động. Chúng ta được kêu gọi thực hiện công việc của Thiên Chúa theo cách của Thiên Chúa: bằng sự gần gũi, bằng sự trung thành với Ngài, trong tình hiệp nhất với nhau, cùng với những anh chị em của chúng ta. Sự gần gũi: đó là bí mật chuyển tải trọng tâm của đức tin, chứ không phải là khía cạnh thứ yếu.

Là một người anh em có nghĩa là đem tính mới mẻ của Thiên Chúa vào trong cuộc sống của anh chị em chúng ta. Nó trở thành một liều thuốc giải độc cho cám dỗ tìm kiếm những câu trả lời dễ dàng và những cách sửa chữa nhanh chóng. Chúng ta hãy tự chất vấn mình là những Ki-tô hữu, chúng ta có khả năng trở thành những người anh em không, có khả năng bước ra khỏi quỹ đạo của mình và ôm lấy người không phải là “một người thuộc chúng ta,” những người Chúa đang miệt mài đi tìm hay không. Một sự cám dỗ thường được tìm thấy trong các Sách Thánh vẫn luôn ở đó: cám dỗ rửa tay của mình. Đó là hành động của đám đông trong Tin mừng hôm. Đó là điều Cain đã làm với Aben, và Phi-la-tô làm với Chúa Giê-su: họ rửa tay của họ. Nhưng chúng ta phải bắt chước Chúa Giê-su, và cũng như Người, hãy để đôi tay chúng ta lấm bẩn. Người là đường (x. Ga 14:6), Đấng đã dừng lại trên đường đi vì Ba-ti-mê. Người là ánh sáng của thế gian (x. Ga 9:5), Đấng đã cúi xuống để cứu giúp một người mù. Chúng ta phải nhận ra rằng Chúa đã phải lấm bẩn đôi tay của Người vì mỗi chúng ta. Chúng ta hãy nhìn lên thập giá, hãy bắt đầu từ đó và nhớ rằng Thiên Chúa đã trở thành người anh em của tôi trong tội và sự chết. Người đã trở thành người anh em của tôi: tất cả đều bắt đầu từ đó. Và nhờ tình yêu của Người, chúng ta lại trở nên người anh em, chúng ta trở nên những người mang đến sự sống mới. Không phải là thầy dạy cho mọi người, không phải là chuyên gia trong sự thánh thiêng, nhưng là những chứng nhân của tình yêu cứu rỗi.

Bước thứ ba là làm chứng tá. Chúng ta xét đến các môn đệ, khi Chúa Giê-su yêu cầu, họ tiến đến lên tiếng gọi Ba-ti-mê. Họ không tiến lại người hành khất bố thí cho một đồng xu để anh ta im miệng, hoặc cho lời khuyên. Các ông bước đến nhân danh Chúa Giê-su. Quả thật, các ông chỉ nói có ba từ với anh ta, và cả ba từ đó đều là lời của Chúa Giê-su: “Cứ yên tâm; đứng dậy, người đang gọi anh đấy” (c. 49). Rất nhiều chỗ khác trong Tin mừng, chỉ một mình Chúa Giê-su nói, “Hãy yên tâm”, vì chỉ mình Ngài mới “làm phấn khởi” những người lắng nghe Ngài. Trong Tin mừng, chỉ một mình Chúa Giê-su nói “Hãy đứng dậy,” và chữa lành tâm hồn và thân xác. Chỉ một mình Chúa Giê-su lên tiếng gọi, biến đổi cuộc đời của những người theo Ngài, giúp nâng dậy những người vấp ngã, đem ánh sáng của Thiên Chúa đến những vùng đen tối của cuộc đời. Quá nhiều trẻ em, quá nhiều người trẻ, như Ba-ti-mê, đang đi tìm ánh sáng cho cuộc đời của họ. Họ đang đi tìm tình yêu thật sự. Và cũng giống như Ba-ti-mê, một người lẫn giữa đám đông khổng lồ, lên tiếng kêu xin một mình Chúa Giê-su, họ cũng đang đi tìm sự sống, nhưng thường chỉ tìm được những lời hứa suông và rất ít người thật sự quan tâm.

Đây vẫn chưa phải là thái độ người Ki-tô hữu nếu chỉ mong chờ anh chị em, những người đang miệt mài đi tìm, phải đến gõ cửa nhà chúng ta; chúng ta phải tiến đến với họ, không chỉ mang bản thân của chúng ta đến nhưng là đem Chúa Giê-su đến. Ngài sai chúng ta đến để động viên người khác và nâng họ dậy nhân danh Ngài, cũng như các môn đệ. Ngài sai chúng ta tiến bước để nói với mỗi con người rằng: “Thiên Chúa đang kêu gọi bạn hãy để cho bản thân bạn được yêu thương bởi Người”. Không biết bao nhiêu lần, thay vì mang thông điệp cứu độ giải thoát này, thì chúng ta lại mang đến chính con người của mình, “những công thức” của riêng mình và “dán nhãn” của Giáo hội! Không biết bao nhiêu lần, thay vì lấy Lời Chúa làm lời của riêng mình, thì chúng ta lại lấy ý kiến riêng của mình như là Lời của Người! Không biết bao nhiêu người cảm thấy gánh nặng của những hội đoàn của chúng ta hơn là sự hiện hữu thân thiết của Chúa Giê-su! Trong những trường hợp này, chúng ta hoạt động rất giống như một tổ chức phi chính phủ, một cơ quan của nhà nước điều hành, chứ không phải là một cộng đoàn những người đã được giải thoát đang ngụ cư trong niềm vui của Thiên Chúa.

Lắng nghe, là một người anh em, làm chứng tá. Hành trình đức tin trong Tin mừng hôm nay kết thúc bằng hình ảnh rất đẹp và đầy ngạc nhiên khi Chúa Giê-su nói “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!” (c. 52). Ba-ti-mê đã chẳng có lời tuyên xưng đức tin hoặc chẳng có công cuộc tốt lành nào; anh ta chỉ van xin lòng thương xót. Cảm nhận bản thân đang cần ơn cứu độ là bước khởi đầu của đức tin. Nó là con đường trực tiếp đến gặp gỡ Chúa Giê-su. Niềm tin đã cứu Ba-ti-mê chẳng có gì liên quan đến việc anh ta có những ý tưởng rành mạch về Thiên Chúa hay không, nhưng liên quan đến việc đi tìm Ngài và khát khao gặp gỡ Ngài. Đức tin gắn liền với sự gặp gỡ, không phải là lý thuyết. Trong sự gặp gỡ, Chúa Giê-su truyền ban; trong sự gặp gỡ, trái tim của Giáo hội rộn lên nhịp đập. Rồi không phải vì lời nói của chúng ta, nhưng chính chứng tá cuộc sống của chúng ta sẽ chứng minh hiệu quả.

Cha xin gửi lời cảm ơn đến tất cả anh chị em đã tham gia vào “cuộc đồng hành” này vì chứng tá của anh chị em. Chúng ta đã làm việc trong tình hiệp nhất, với sự chân thành và khát khao phục vụ Dân Chúa. Xin Chúa chúc phúc cho những bước đi của chúng ta, để chúng ta có thể lắng nghe người trẻ, trở thành anh em của họ, và làm chứng tá cho họ về Chúa Giê-su, là niềm vui của cuộc đời chúng ta

[Văn bản chính: tiếng Ý] [Bản dịch (tiếng Anh) của Vatican]



[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 29/10/2018]