Thứ Hai, 4 tháng 9, 2023

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Mông Cổ – Gặp gỡ các Giám mục, Linh mục, các nhà Truyền giáo, Tu sĩ nam nữ và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô, 02.09.2023

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Mông Cổ – Gặp gỡ các Giám mục, Linh mục, các nhà Truyền giáo, Tu sĩ nam nữ và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô, 02.09.2023

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Mông Cổ (31 tháng Tám đến 4 tháng Chín năm 2023) – Gặp gỡ các Giám mục, Linh mục, các nhà Truyền giáo, Tu sĩ nam nữ và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô, 02.09.2023

*******

Gặp gỡ các Giám mục, Linh mục, các nhà Truyền giáo, Tu sĩ nam nữ và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô

Vào buổi chiều, Đức Thánh Cha Phanxicô rời Phủ doãn Tông tòa và lên xe đến Nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô để gặp gỡ các giám mục, linh mục, các nhà truyền giáo, tu sĩ nam nữ và nhân viên mục vụ.

Khi đến lối vào bên trong Nhà thờ Chính tòa, trước khi lên xe golf để chạy giữa các tín hữu một số vòng, Đức Thánh Cha được một phụ nữ Mông Cổ đón chào, chị dâng lên ngài một ly sữa ủ trong một chiếc khăn choàng màu xanh ở lối vào của ger (ND: lều di động của dân du mục). Sau đó, cùng với Đức Hồng Y Giorgio Marengo, I.M.C., Phủ doãn tông tòa của Ulaanbaatar, ngài tiến vào trong lều, tại đây ngài có cuộc gặp ngắn với bà Tsetsege, người phụ nữ đã tìm thấy bức tượng Đức Mẹ nhỏ bằng gỗ trong đống rác khoảng một thập kỷ trước, sau đó tượng được tôn kính trong Nhà thờ Thánh Phêrô và Phaolô, và hiện nay được tôn vinh là “Mẹ Thiên đàng”.

Vào lúc 16 giờ 25 (10 giờ 25 Roma), Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các giám mục, linh mục, các nhà truyền giáo, nam nữ tu sĩ và nhân viên mục vụ.

Sau khi được chào đón tại lối vào Nhà thờ bởi cha chánh xứ và cha phó, hai cha mang đến cho ngài cây thánh giá và nước thánh để rảy, Đức Thánh Cha tiến lên bàn thờ theo lối đi chính giữa. Tiếp theo, sau khi hát thánh ca và lời chào mừng của Đức Giám mục José Luis Mumbiela Sierra ở thành phố Almaty, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Trung Á, và tiếp theo là chứng ngôn của một nữ tu truyền giáo và một linh mục người Mông Cổ, một màn trình diễn nghệ thuật và lời chứng của một nhân viên mục vụ. Sau đó Đức Thánh Cha đã ban huấn từ của ngài.

Cuối cùng, sau khi đọc Kinh Kính Mừng, ban phép lành và hát kết, Đức Thánh Cha làm phép tượng Đức Mẹ “Mẹ Thiên Đàng”. Sau đó ngài chào các giám mục và các nhà truyền giáo hiện diện, và trước khi lên xe, ngài dừng lại ít phút trong hội trường của Nhà thờ Chính tòa để chào một nhóm tín hữu. Sau khi chụp ảnh nhóm, ngài rời Nhà thờ Chánh tòa và lên xe trở về hạt Phủ doãn Tông tòa, tại đây ngài dùng bữa tối một mình.

Theo các nhà chức trách, khoảng 2000 người đã có mặt trong khuôn viên Nhà thờ Chánh tòa.

Sau đây là huấn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong cuộc gặp gỡ với các giám mục, linh mục, các nhà truyền giáo, tu sĩ nam nữ và nhân viên mục vụ:

_______________________________________________

Huấn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô

Anh chị em thân mến, chào (buổi chiều) anh chị em!

Cảm ơn Đức Tổng vì những lời tốt đẹp của ngài. Cảm ơn Sơ Salvia, Cha Phêrô Sanjaajav và Rufina vì những chứng ngôn của ba người. Cảm ơn tất cả anh chị em vì sự hiện diện và niềm tin của anh chị em! Tôi rất vui khi được ở bên tất cả anh chị em. Niềm vui của Tin Mừng là động lực thúc đẩy anh chị em, những người nam nữ tận hiến trong đời sống tu trì và thừa tác vụ chức thánh, ở đây và cống hiến bản thân, cùng với các anh chị em giáo dân, để phục vụ Chúa và tha nhân. Tôi cảm tạ Chúa vì điều này, lấy lời ca nguyện ngợi khen tuyệt vời của Thánh vịnh 34, mà tôi sẽ rút ra để chia sẻ một vài suy nghĩ với anh chị em. Thánh Vịnh mời gọi chúng ta “hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy” (c. 9).

“Hãy nghiệm xem”, vì niềm vui và sự tốt lành của Chúa không thoáng vụt qua; chúng ở lại trong chúng ta, mang lại hương vị cho cuộc sống của chúng ta và khiến chúng ta nhìn mọi sự theo một cách mới, như Rufina cho biết trong chứng ngôn tuyệt vời của con. Vì vậy, tôi muốn “nếm thử” hương vị đức tin ở vùng đất này bằng cách gợi lên trong tâm trí trước hết tất cả mọi khuôn mặt, mọi câu chuyện và cuộc đời dành cho Tin Mừng. Dành trọn cuộc đời cho Tin Mừng. Đó là một cách tuyệt đẹp để định nghĩa ơn gọi truyền giáo của người Kitô hữu, và cách đặc biệt là ơn gọi đó đang được các Kitô hữu ở đây sống như thế nào. Dành trọn cuộc đời cho Tin Mừng!

Tôi bắt đầu bằng sự tưởng nhớ Đức Giám mục Wenceslao Selga Padilla, vị Giám quản Tông tòa đầu tiên, người tiên phong trong lịch sử đương đại của Giáo hội ở Mông Cổ, người đã xây dựng Nhà thờ Chánh tòa này. Tuy nhiên, ở đây đức tin không chỉ bắt đầu từ những năm 1990 của thế kỷ trước; nó đã có nguồn cội từ xa xưa. Các biến cố của thiên niên kỷ thứ nhất và công cuộc truyền giáo được thực hiện bởi các nhà truyền giáo theo truyền thống Syria dọc trên Con đường Tơ lụa đã được tiếp nối bằng một hoạt động truyền giáo đáng chú ý. Chúng ta không thể không nhắc đến các sứ mạng ngoại giao của thế kỷ 13, và sự quan tâm của Tòa Thánh được thể hiện qua việc bổ nhiệm Đức Gioan xứ Montecorvino làm Giám mục đầu tiên của Khanbalik vào khoảng năm 1310, chịu trách nhiệm trên toàn bộ khu vực mênh mông này của thế giới dưới triều đại nhà Nguyên của người Mông Cổ. Ngài đã cung cấp bản dịch Thánh vịnh và Tân Ước đầu tiên sang tiếng Mông Cổ. Lịch sử vĩ đại của lòng nhiệt thành đối với Tin Mừng này được tiếp tục trở lại, theo cách đặc biệt, với sự xuất hiện của các nhà truyền giáo tiên khởi thuộc Dòng Trái tim Vô nhiễm Nguyên tội Đức Maria vào năm 1992, cùng với các thành viên của các Dòng tu khác, các linh mục triều và những giáo dân truyền giáo. Trong số đó, tôi muốn nêu lên hoạt động tích cực và lòng nhiệt thành của Cha Stephen Kim Seong-hyeon. Chúng ta cũng hãy chân nhận rằng tất cả những tôi tớ trung thành của Tin Mừng ở Mông Cổ hiện đang ở đây với chúng ta và những người đã dành cả cuộc đời cho Chúa Kitô, có thể “nhìn thấy” và “nếm thử” những điều kỳ diệu mà sự tốt lành của Chúa tiếp tục được thực hiện nơi anh chị em và thông qua anh chị em. Cảm ơn anh chị em.

Tại sao người ta phải dành trọn cuộc đời cho Tin Mừng? Đó là một câu hỏi tôi đặt ra cho anh chị em. Như Rufina đã nói, đời sống Kitô giáo tiến về phía trước bằng cách đặt câu hỏi, giống như những đứa trẻ luôn hỏi những điều mới mẻ, vì ở độ tuổi của các bé, các bé chưa hiểu hết mọi điều. Đời sống người Kitô hữu kéo chúng ta đến gần Chúa và luôn đặt câu hỏi, để chúng ta hiểu Chúa hơn, hiểu rõ hơn lời dạy của Ngài. Dành trọn cuộc đời mình cho Tin Mừng bởi vì anh chị em đã “nếm thử” Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra cách hữu hình, có thể chạm tới và gặp gỡ nơi Chúa Giêsu. Đúng vậy, Chúa Giêsu là tin vui cho mọi dân tộc, là thông điệp mà Giáo hội phải không ngừng công bố, thể hiện trong đời sống của Giáo hội và “thì thầm” vào tâm hồn của mọi cá nhân và mọi nền văn hóa. Ngôn ngữ của Chúa thường là một lời thì thầm khoan thai, cần có thời gian; Chúa nói theo cách đó. Cảm nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa nơi Chúa Kitô là ánh sáng thuần khiết soi sáng và biến đổi diện mạo của chúng ta. Anh chị em thân mến, đời sống Kitô hữu sinh ra từ việc chiêm ngưỡng dung nhan của Chúa; đó là tình yêu, là sự gặp gỡ hàng ngày với Chúa trong Lời của Người và trong Bánh Hằng sống, cũng như trong khuôn mặt của tha nhân, những người thiếu thốn và nghèo khổ mà Chúa Giêsu hiện diện nơi họ. Sơ Salvia đã nhắc đến điều này trong lời chứng của Sơ. Cảm ơn Sơ! Sơ đã ở đây hơn hai mươi năm và đã học được cách nói chuyện với dân tộc này; cảm ơn Sơ.

Thưa các anh em linh mục, anh chị em tận hiến và anh chị em nhân viên mục vụ, trong 31 năm hiện diện ở Mông Cổ này, anh chị em đã bắt tay vào thực hiện nhiều sáng kiến bác ái khác nhau, tiêu hao nhiều năng lượng của anh chị em và phản ánh dung nhan lòng thương xót của Chúa Kitô, Người Samari nhân hậu. Theo một nghĩa nào đó, đây là danh thiếp của anh chị em, và nó làm cho anh chị em được tôn trọng và quý mến vì rất nhiều lợi ích mang đến cho nhiều người trong các lãnh vực khác nhau: từ trợ giúp xã hội và giáo dục, đến chăm sóc sức khỏe và thúc đẩy văn hóa. Tôi động viên anh chị em hãy tiếp tục đi theo con đường này, con đường đã tỏ ra rất hiệu quả và mang lại lợi ích cho người dân Mông Cổ thân yêu, bằng những cử chỉ yêu thương và hành động bác ái.

Đồng thời, tôi thúc giục anh chị em hãy nếm trải và chiêm ngắm Chúa, hãy trở lại với “cái nhìn” ban đầu mà mọi thứ đã được bắt đầu từ đó. Bằng không, sức mạnh của chúng ta sẽ thất bại và công việc mục vụ của chúng ta có nguy cơ trở thành một công việc phục vụ trống rỗng, một danh sách các nhiệm vụ cuối cùng chỉ đưa đến sự mệt mỏi và thất vọng. Tuy nhiên, khi chúng ta tiếp xúc với khuôn mặt của Đức Kitô, tìm kiếm Người trong Kinh thánh và chiêm ngắm Người trong việc thờ phượng thinh lặng trước Nhà tạm, chúng ta sẽ nhìn thấy Người trên khuôn mặt của những người chúng ta phục vụ và cảm nghiệm được niềm vui trong lòng, ngay cả giữa những khó khăn, mang lại sự bình an cho tâm hồn chúng ta. Đây là những gì chúng ta cần hôm nay và luôn mãi: không phải là những người chạy bôn ba thực hiện các dự án cách bận rộn và mất tập trung, nhưng cũng có lúc tỏ ra phẫn uất về cuộc sống chắc chắn không hề dễ dàng. Ngược lại, người Kitô hữu là người có khả năng tôn thờ, thờ phượng trong thinh lặng. Và rồi từ việc tôn thờ này nảy sinh hành động. Tuy nhiên, đừng quên việc tôn thờ. Chúng ta đã phần nào đó đã đánh mất ý nghĩa của sự tôn thờ trong thế kỷ thực dụng này: đừng quên sự tôn thờ và từ việc tôn thờ, hãy hành động. Chúng ta cần trở về nguồn, trở về với dung nhan của Chúa Giêsu và “nếm trải” sự hiện diện của Người, vì Người là kho tàng của chúng ta (x. Mt 13:44), là viên ngọc quý đáng được trả giá bằng tất cả (x. Mt 13:45-46). Các anh chị em Mông Cổ của chúng ta, những người có ý thức sâu sắc về tính thiêng liêng và – là nét điển hình ở Châu Á – một lịch sử tôn giáo cổ xưa và phức tạp, đang tìm kiếm chứng tá của anh chị em và có thể nhận biết nếu nó là chân thực. Đây là một chứng tá mà anh chị em phải đưa ra, bởi vì Tin Mừng không phát triển qua việc chiêu mộ tín đồ, Tin Mừng phát triển qua việc làm chứng.

Chúa Giêsu khi sai các môn đệ của Người đi vào thế gian không sai họ đi truyền bá những lý thuyết chính trị, nhưng để làm chứng bằng cuộc sống của họ cho sự mới mẻ trong mối tương quan của Người với Chúa Cha, giờ đây là “Cha của chúng ta” (x. Ga 20:17), là nguồn cội của tình huynh đệ cụ thể với mọi cá nhân và dân tộc. Giáo Hội được sinh ra từ mệnh lệnh đó là một Giáo Hội nghèo khó, được nâng đỡ bởi đức tin chân thực và bởi quyền năng không vũ trang và giải giới của Chúa Phục Sinh, và có khả năng xoa dịu những đau khổ của nhân loại bị tổn thương. Vì lý do này, các chính phủ và các tổ chức thế tục không có gì phải lo sợ trước công cuộc truyền giáo của Giáo hội, vì Giáo hội không có chương trình hoạt động chính trị nào để thúc đẩy, nhưng được nâng đỡ bởi quyền năng âm thầm của ân sủng Thiên Chúa và sứ điệp về lòng thương xót và sự thật, nhằm thúc đẩy những điều tốt đẹp cho mọi người.

Để thực hiện sứ mệnh này, Chúa Kitô đã xây dựng Hội Thánh của Người theo cách nhắc nhở chúng ta về sự hòa hợp giữa các chi thể khác nhau của thân thể con người. Người là đầu, là Đấng không ngừng hướng dẫn chúng ta, tuôn đổ vào thân thể của Người – tức là vào chúng ta – Thần Khí của Người, hoạt động trên hết trong những dấu chỉ của sự sống mới đó là các bí tích. Để bảo đảm tính xác thực và hiệu quả của điều này, Người đã thiết lập hàng linh mục, được ghi dấu bằng sự kết hiệp mật thiết với Ngài là Vị Mục tử Nhân lành, Đấng đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Cha Phêrô, Cha được kêu gọi thực hiện sứ mệnh này, và tôi cảm ơn Cha đã chia sẻ kinh nghiệm của Cha với chúng tôi. Tương tự như vậy, Dân thánh Chúa ở Mông Cổ cũng có được đầy đủ các hồng ân thiêng liêng. Từ tầm nhìn đó, tôi mời gọi anh chị em hãy nhìn nơi vị giám mục của mình, không phải là một máng cỏ mà là biểu tượng sống động của Chúa Kitô Mục tử Nhân lành, Đấng quy tụ và hướng dẫn dân của Người; một người môn đệ tràn đầy đặc sủng tông đồ trong việc xây dựng tình huynh đệ trong Chúa Kitô và bén rễ sâu trong quốc gia này và trong di sản văn hóa cao quý của đất nước. Vì vậy, việc Đức Giám mục của anh chị em trở thành Hồng y là một dấu hiệu gần gũi thậm chí còn lớn hơn: tất cả anh chị em dù xa cách về mặt thể lý nhưng lại vô cùng gần gũi với trái tim của Thánh Phêrô. Và ngược lại, toàn thể Giáo hội gần gũi với anh chị em và cộng đoàn của anh chị em, một cộng đoàn thực sự là Công giáo, phổ quát, và hướng tình yêu của tất cả anh chị em chúng ta trên khắp thế giới đến Mông Cổ, trong sự tuôn đổ tình hiệp thông lớn lao của Giáo hội.

Tôi xin nhấn mạnh từ ngữ đó: hiệp thông. Không thể hiểu Giáo hội theo nghĩa chức năng đơn thuần. Không, Giáo hội không phải là một doanh nghiệp, Giáo hội không phát triển nhờ việc chiêu mộ tín đồ, như tôi đã đề cập. Giáo Hội là khác. Từ “hiệp thông” giải thích rõ Giáo hội là gì. Trong thân thể này của Giáo hội, giám mục không phải là người quản lý các yếu tố đa dạng của nó, thậm chí cả trên nguyên tắc đa số, nhưng dẫn dắt trên cơ sở của nguyên tắc thiêng liêng, qua đó chính Chúa Giêsu hiện diện nơi con người của giám mục để bảo đảm sự hiệp thông trong Nhiệm thể của Người. Nói cách khác, sự hiệp nhất trong Giáo hội không phải là trật tự và tôn trọng, cũng không đơn thuần là một chiến lược tốt để “làm việc nhóm”; đó là đức tin và tình yêu đối với Thiên Chúa, là lòng trung thành với Người. Do đó, điều quan trọng là tất cả các thành phần trong hội thánh phải duy trì sự hiệp nhất vững chắc với giám mục, người đại diện cho Chúa Kitô sống động giữa Dân Ngài, và xây dựng tình huynh đệ đồng nghị mà chúng ta rao giảng và hỗ trợ rất nhiều cho việc hội nhập văn hóa của đức tin.

Thưa các nhà truyền giáo, hãy “nếm thử và nhìn xem” món quà là chính anh chị em, hãy nếm thử và nhìn xem vẻ đẹp của việc hiến thân trọn vẹn cho Đức Kitô, Đấng mời gọi anh chị em trở thành chứng nhân cho tình yêu của Người ở Mông Cổ này. Hãy tiếp tục thực hiện điều này bằng cách vun trồng sự hiệp thông. Hãy thực hiện việc đó bằng sự đơn sơ của một cuộc sống thanh đạm, noi gương Chúa, Đấng cưỡi lừa vào Giêrusalem và thậm chí bị lột đến cả chiếc áo choàng trên thập giá. Ước mong anh chị em luôn gần gũi với mọi người, với sự gần gũi là đường lối của Thiên Chúa. Thiên Chúa thì gần gũi, thương xót và dịu dàng. Gần gũi, thương xót và dịu dàng: hãy cư xử với mọi người như vậy, quan tâm cách riêng đến họ, học ngôn ngữ của họ, tôn trọng và yêu quý nền văn hóa của họ, không để mình bị cám dỗ bởi những hình thức an toàn của thế gian, nhưng vẫn kiên định với Tin Mừng qua đời sống đạo đức và tinh thần gương mẫu. Đơn sơ và gần gũi! Đừng bao giờ mệt mỏi trong việc mang đến cho Chúa Giêsu những khuôn mặt và những hoàn cảnh, những vấn đề và mối quan tâm mà anh chị em gặp. Hãy dành thời gian để cầu nguyện hàng ngày, điều này sẽ giúp anh chị em kiên trì trong công việc phục vụ và nhận được sự an ủi từ “Thiên Chúa hằng ủi an” (2Cr 1:3), và nhờ đó mang đến niềm hy vọng cho tâm hồn của tất cả những người đau khổ.

Anh chị em thân mến, như Thánh Vịnh 34 nói với chúng ta rằng sự gần gũi với Chúa bảo đảm với chúng ta, “những ai kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn chi...; ai tìm kiếm Chúa chẳng thiếu của gì” (c. 10-11). Chắc chắn, những lỗi lầm và các vấn đề trong cuộc sống cũng ảnh hưởng đến các tín hữu, và người rao giảng Tin Mừng cũng không được miễn trừ khỏi gánh nặng của những lo lắng vốn là một phần của thân phận con người chúng ta. Tác giả Thánh vịnh không ngần ngại nói về sự dữ và những kẻ làm ác, nhưng ông nhắc nhở chúng ta rằng Chúa nghe thấy tiếng kêu của những kẻ khiêm nhường và “giải thoát họ khỏi mọi cơn nguy khốn”, vì Người “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, và cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (c. 18-19). Vì lý do này, Giáo hội thể hiện mình trước thế giới như một tiếng nói liên đới với tất cả những người nghèo khó và thiếu thốn; Giáo hội không im lặng trước sự bất công và âm thầm làm việc để thăng tiến phẩm giá của mỗi con người.

Anh chị em rất thân yêu, trong hành trình làm những người môn đệ truyền giáo của anh chị em, anh chị em có một sự hỗ trợ vững chắc: Mẹ trên Thiên đàng của chúng ta, Đấng mong muốn mang đến cho anh chị em một dấu hiệu hữu hình về sự hiện diện dịu dàng và đầy quan tâm của Mẹ – và tôi rất vui mừng khi khám phá ra điều này! – qua việc cho phép người ta tìm thấy hình ảnh của Mẹ trong bãi rác. Bức tượng Đức Mẹ Vô nhiễm xinh đẹp này đã xuất hiện ở một nơi dành cho rác rưởi. Tự do và không bị vương tội lỗi, Mẹ muốn gần gũi với chúng ta đến mức đi xuống đến tận cùng của xã hội, để từ đống rác rưởi bẩn thỉu, sự thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa, Mẹ trên Thiên đàng của chúng ta, tỏa rạng. Tôi cũng được biết về truyền thống đáng yêu của người Mông Cổ về suun dalai ijii, người mẹ có trái tim bao la như một đại dương sữa. Theo Lịch sử Huyền bí của người Mông Cổ, ánh sáng từ lỗ thông phía trên của lều ger đã làm thụ thai nữ hoàng thần thoại Alungoo; tuy nhiên, anh chị em hãy chiêm ngưỡng hoạt động của ánh sáng Thiên Chúa nơi vai trò làm mẹ của Đức Trinh Nữ Maria, từ trên cao, hằng ngày đồng hành với những bước đi của Giáo hội của anh chị em.

Khi ngước mắt ngắm nhìn Đức Maria, anh chị em tìm thấy sự nghỉ ngơi khi biết rằng nhỏ bé không phải là một vấn đề mà là một nguồn tài nguyên. Thiên Chúa yêu sự nhỏ bé và qua đó Người thích thực hiện những điều lớn lao, như chính Đức Maria làm chứng (x. Lc 1:48-49). Thưa anh chị em, đừng lo lắng về những con số nhỏ bé, sự thành công hạn chế hoặc tính không phù hợp bên ngoài. Đó không phải là cách Thiên Chúa làm việc. Chúng ta hãy hướng mắt chăm chú nhìn lên Đức Maria, Đấng mà sự nhỏ bé của Mẹ con cao hơn các tầng trời, vì nơi Mẹ đã cưu mang Đấng mà các tầng trời và trời cao thăm thẳm cũng không thể chứa nổi (x. 1 V 8:27). Thưa anh chị em, chúng ta hãy phó thác cho Mẹ, cầu xin lòng nhiệt thành đổi mới và một tình yêu nồng cháy luôn hân hoan làm chứng cho Tin Mừng cách không mệt mỏi. Hãy tiến bước! Can đảm, không mệt mỏi trong việc tiến về phía trước. Cảm ơn chứng tá của anh chị em! Chính Chúa đã chọn anh chị em và tin tưởng anh chị em; tôi ở bên anh chị em và tôi nói điều này với anh chị em từ tận đáy lòng: cảm ơn anh chị em; cảm ơn vì chứng tá của anh chị em, cảm ơn vì đời sống của anh chị em làm chứng cho Tin Mừng! Hãy kiên trì, kiên trì cầu nguyện và sáng tạo trong đức ái, kiên vững trong tình hiệp thông, vui tươi và hiền lành trong mọi việc và với mọi người. Tôi chúc phúc cho anh chị em và tôi sẽ luôn nhớ đến anh chị em trong lời cầu nguyện. Và tôi xin anh chị em không quên cầu nguyện cho tôi. Cảm ơn anh chị em.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 3/9/2023]


Chế độ Ortega cấm các tu sĩ dòng Tên, tịch thu mọi tài sản

Chế độ Ortega cấm các tu sĩ dòng Tên, tịch thu mọi tài sản

Chế độ Ortega cấm các tu sĩ dòng Tên, tịch thu mọi tài sản

L'université centraméricaine du Nicaragua, dirigée par la Compagnie de Jésus.

Daniel Esparza

25/08/23


Chính quyền Nicaragua vừa cấm toàn bộ Dòng Tên không được hiện diện trong đất nước và ra lệnh tịch thu tất cả tài sản của dòng này, cho rằng họ không tuân thủ việc báo cáo thuế.

Sau khi đóng cửa Đại học Trung Mỹ (một trường đại học tư thục của Dòng Tên được thành lập năm 1960), trục xuất cộng đoàn linh mục Dòng Tên khỏi nơi ở riêng của họ gần trường đại học ở Managua và tịch thu tài sản của trường đại học vào hôm thứ Tư, ngày 23 tháng Tám, chính quyền Nicaragua vừa ra lệnh cấm toàn bộ Dòng Tên không được ở lại trong đất nước và ra lệnh tịch thu toàn bộ tài sản của dòng, cho rằng họ không tuân thủ việc báo cáo thuế.

Việc ông Daniel Ortega bịt miệng những tiếng nói bất đồng chính kiến ở Nicaragua đã nhắm vào Giáo hội Công giáo một cách có hệ thống trong ít nhất 5 năm qua.

Dòng Tên không phải là dòng tu đầu tiên bị cấm ở Nicaragua. Năm ngoái, Dòng Thừa sai Bác ái đã bị trục xuất khỏi đất nước. Chế độ của Ortega cáo buộc rằng các nhà truyền giáo không được “Bộ Gia đình công nhận để hoạt động như một trung tâm mẫu giáo phát triển tuổi thơ, nhà cho thiếu nhi nữ và nhà cho người già,” cũng như “họ không có giấy phép hoạt động của Bộ Giáo dục” để thực hiện việc giáo dục phục hồi cho sinh viên” và “báo cáo tài chính của họ gửi về Bộ Nội vụ không phù hợp” với các tài liệu khác được đưa ra để xem xét.

Từ tháng 11 năm 2018 đến nay, chế độ độc tài Ortega đã sung công hàng hóa và tài sản của khoảng 3.321 tổ chức phi chính phủ. Chẳng hạn, một Tu viện Dòng Trappist hiện thuộc sở hữu của Viện Công nghệ Nông nghiệp Nicaragua (INTA), theo thông tin của các nữ tu Dòng Trappist cung cấp cho truyền thông địa phương.

Một báo cáo được thực hiện bởi chị Martha Patricia Molina Montenegro, một thành viên của Observatorio Pro Transparencia y Anticorrupción gọi Nicaragua là Một Giáo hội bị bách hại? (2018-2022), cho thấy Giáo hội Công giáo bị chế độ Ortega nhắm mục tiêu một cách có hệ thống, đã phát động một “cuộc đàn áp bừa bãi nhắm vào các giám mục, linh mục, chủng sinh, tu sĩ, các nhóm giáo dân cũng như mọi điều và mọi người có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với Giáo hội Công giáo.”


Sau đó, những người biểu tình đã xuống đường phản đối một loạt cải cách mà chế độ Ortega thực hiện đối với hệ thống an sinh xã hội, tăng thuế và giảm phúc lợi. Theo báo cáo, chính phủ đã dùng bạo lực để đối phó với những cuộc biểu tình này, khiến ít nhất 355 người thiệt mạng.

Chị Montenegro giải thích rằng, trước tháng Tư năm đó, những sự ngược đãi chống lại Giáo hội diễn ra rời rạc. Nhưng sau các cuộc biểu tình, sự thù địch gia tăng.

Trường đại học Dòng Tên là trung tâm của các cuộc biểu tình chống lại cuộc cải cách gây tranh cãi của Tổng thống Daniel Ortega đối với hệ thống an sinh xã hội quốc gia năm 2018. Ngày 16 tháng Tám năm ngoái, chế độ này thông báo rằng tài sản của trường đại học đã bị chính quyền Nicaragua tịch thu với lý do là “trung tâm khủng bố”.

Một thông cáo do Vatican News công bố giải thích rằng trường đại học “đã bác bỏ cáo buộc là hoàn toàn ‘vô căn cứ’ và gọi việc chiếm hữu là một cú đấm mạnh vào giới học thuật ở Nicaragua.”

Cha Arturo Sosa, SJ, Bề trên Tổng quyền Dòng Tên đã cùng với Tỉnh Dòng Trung Mỹ của Dòng Tên lên án việc đóng cửa trường đại học bằng những lời lẽ mạnh mẽ nhất.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 1/9/2023]