Thứ Năm, 12 tháng 1, 2023

Tiếp Ngoại giao đoàn chính thức tại Tòa thánh chúc mừng năm mới, 01.09.2023 - Diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô

Tiếp Ngoại giao đoàn chính thức tại Tòa thánh chúc mừng năm mới, 01.09.2023 - Diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô

Tiếp Ngoại giao đoàn chính thức tại Tòa thánh chúc mừng năm mới, 01.09.2023

*******

Sáng nay, tại Khán phòng Phép lành, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp các thành viên của Phái đoàn Ngoại giao chính thức tại Tòa Thánh để chúc mừng năm mới.

Sau lời giới thiệu của Trưởng đoàn Ngoại giao, Ngài Georges Poulides, Đại sứ của Cộng hòa Síp tại Tòa thánh, Đức Thánh Cha đã có bài diễn từ sau đây:

____________________________________________

Diễn từ của Đức Thánh Cha

Thưa ngài,

Thưa quý ông quý bà,

Tôi cảm ơn sự hiện diện của quý vị tại cuộc gặp gỡ theo thông lệ của chúng ta, năm nay chúng ta muốn nó trở thành một tiếng gọi hòa bình trong thế giới đang chứng kiến những chia rẽ và các cuộc chiến tranh ngày càng gia tăng.

Tôi đặc biệt cảm ơn Ngài George Poulides, Trưởng Ngoại giao đoàn, vì những lời chúc tốt đẹp mà ngài đại diện tất cả quý vị gửi đến tôi. Tôi xin gửi lời chào đến từng người trong quý vị, tới gia đình của quý vị, các đồng nghiệp cũng như người dân và chính phủ của các quốc gia mà quý vị đại diện. Tôi cũng xin tri ân tất cả quý vị và chính quyền các quốc gia của quý vị đã gửi những lời chia buồn về cái chết của Đức Nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI và sự gần gũi thể hiện trong tang lễ của ngài.

Chúng ta vừa kết thúc mùa Giáng Sinh, trong đó người Kitô hữu kỷ niệm mầu nhiệm Con Thiên Chúa giáng sinh. Ngôn sứ Isaia đã báo trước về sự ra đời đó bằng những lời sau: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:6).

Sự hiện diện của quý vị là dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng của hòa bình và tình huynh đệ nhân loại mà đối thoại giúp xây dựng nên. Nhiệm vụ của ngoại giao chính là để giải quyết các xung đột và từ đó thúc đẩy bầu không khí hợp tác và tin tưởng lẫn nhau vì mục đích đáp ứng các nhu cầu chung. Có thể nói, ngoại giao là một bài thực hành sự khiêm nhường, vì nó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh một chút gì đó của bản thân để xây dựng mối quan hệ với người khác, để hiểu được suy nghĩ và quan điểm của họ, từ đó chống lại tính kiêu ngạo và tự cao của con người, vốn là nguyên nhân của mọi ý muốn gây chiến.

Tôi xin cảm ơn về sự quan tâm của các quốc gia của quý vị dành cho Tòa thánh, được đánh dấu trong năm vừa qua không những bởi các quyết định của Thụy Sĩ, Cộng hòa Congo, Mozambique và Azerbaijan bổ nhiệm các đại sứ thường trú tại Roma, cũng như việc ký kết các hiệp định song phương mới với Cộng hòa Dân chủ São Tomé and Príncipe và với Cộng hòa Kazakhstan.

Ở đây tôi cũng muốn đề cập rằng, trong bối cảnh của một cuộc đối thoại mang tính xây dựng và tôn trọng, Tòa Thánh và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đồng ý gia hạn thêm hai năm hiệu lực của Thỏa thuận tạm thời về việc bổ nhiệm Giám mục, được quy định ở Bắc Kinh vào năm 2018. Tôi hy vọng rằng mối quan hệ hợp tác này có thể tăng lên, vì lợi ích của đời sống Giáo hội Công giáo và người dân Trung quốc.

Tại cuộc họp mặt này, một lần nữa tôi cũng xin bảo đảm với quý vị về sự hợp tác trọn vẹn của Phủ Quốc vụ khanh Toà Thánh và các Bộ của Giáo triều Roma. Với việc ban hành Tông hiến mới Praedicate Evangelium, Giáo triều đã được cải tổ lại ở một số cơ cấu, để có thể thực hiện công việc của mình “với tinh thần Phúc âm, hoạt động vì lợi ích và phục vụ sự hiệp thông, hiệp nhất và xây dựng Giáo hội hoàn vũ, đồng thời cũng chú ý đến các tình hình của thế giới trong đó Giáo hội được kêu gọi thi hành sứ mệnh của mình”.[1]

Thưa các vị Đại sứ,

Năm nay đánh dấu kỷ niệm 60 năm Tông huấn Pacem in Terris của Thánh Gioan XXIII, được ban hành không đầy hai tháng trước khi ngài qua đời.[2]

Điều luôn hiện hữu trong tâm trí của “vị Giáo hoàng tốt lành” là mối đe dọa của chiến tranh nguyên tử, dấy lên vào tháng Mười năm 1962 bởi vấn đề được gọi là cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Nhân loại chỉ còn cách sự hủy diệt chính mình một bước chân, nếu không chứng minh được khả năng làm cho đối thoại thắng thế, đồng thời thừa nhận những hậu quả tàn phá của vũ khí nguyên tử.

Thật đáng buồn, ngày nay cũng vậy, mối đe dọa nguyên tử lại xuất hiện, và thế giới một lần nữa cảm thấy sợ hãi và đau khổ. Ở đây, tôi khẳng định lại rằng việc sở hữu vũ khí nguyên tử là phi đạo đức, bởi vì, như Đức Gioan XXIII đã nhận xét, “mặc dù thật khó tin rằng một ai đó dám nhận trách nhiệm khởi xướng sự tàn sát và hủy diệt kinh hoàng mà chiến tranh sẽ mang lại, nhưng không thể phủ nhận rằng ngòi lửa có thể được bắt đầu từ một số tình huống ngẫu nhiên và không lường trước được”.[3]

Từ quan điểm này, mối lo ngại đặc biệt nổi lên do sự bế tắc trong các cuộc đàm phán để nối lại Kế hoạch Hành động Toàn diện Chung, hay còn gọi là Thỏa thuận Hạt nhân Iran. Tôi hy vọng rằng một giải pháp cụ thể có thể đạt được càng sớm càng tốt để bảo đảm một tương lai an toàn hơn.

Ngày nay, chiến tranh thế giới thứ ba đang diễn ra trong một thế giới toàn cầu hóa, nơi các cuộc xung đột chỉ liên quan trực tiếp đến một số khu vực nhất định trên hành tinh, nhưng thực tế là liên quan đến tất cả mọi khu vực. Ví dụ gần nhất và gần đây nhất chắc chắn là cuộc chiến ở Ukraine, với hậu quả là sự chết chóc và hủy diệt, với những cuộc tấn công vào các cơ sở hạ tầng dân sự khiến nhiều người thiệt mạng không chỉ vì súng đạn và các hành động bạo lực, mà còn vì đói và rét. Hiến chế công đồng Gaudium et Spes tuyên bố rằng “mọi hành động chiến tranh nhằm phá hủy bừa bãi toàn bộ các thành phố hoặc các khu vực rộng lớn cùng với cư dân của những nơi đó là một tội ác chống lại Thiên Chúa và nhân loại đáng bị lên án mạnh mẽ và quyết liệt” (Số 80). Chúng ta cũng không được quên rằng chiến tranh ảnh hưởng cách đặc biệt đến những người yếu đuối nhất – trẻ em, người già, người tàn tật – và để lại dấu ấn không thể xóa nhòa đối với các gia đình. Hôm nay, tôi cảm thấy buộc phải nhắc lại lời kêu gọi hãy chấm dứt ngay lập tức cuộc xung đột vô nghĩa này, mà những tác động của nó ảnh hưởng đến toàn bộ các khu vực, kể cả bên ngoài Châu Âu, do hệ quả của nó đối với các lĩnh vực sản xuất năng lượng và lương thực, đặc biệt là ở Châu Phi và ở Trung Đông.

Cuộc chiến tranh thế giới thứ ba hiện đang diễn ra theo từng vùng khiến chúng ta phải xét đến các khu vực căng thẳng và xung đột khác. Một lần nữa trong năm nay, chúng ta phải nhìn về vùng đất Syria bị chiến tranh tàn phá với nỗi buồn rất lớn. Sự tái sinh của đất nước đó phải diễn ra thông qua những cải cách cần thiết, bao gồm cải cách hiến pháp, nhằm mang lại hy vọng cho người dân Syria, vốn đã bị ảnh hưởng bởi tình trạng nghèo đói ngày càng tăng cao, đồng thời bảo đảm rằng các biện pháp trừng phạt quốc tế áp đặt không ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của một dân tộc đã phải chịu quá nhiều đau khổ.

Tòa Thánh cũng lo ngại theo dõi sự gia tăng bạo lực giữa người Palestine và người Israel, và hậu quả đáng buồn là có nhiều nạn nhân và sự hoàn toàn mất lòng tin lẫn nhau. Giêrusalem, thành thánh của người Do Thái, người Kitô giáo và Hồi giáo, đặc biệt bị ảnh hưởng bởi vấn đề này. Tên thành Giêrusalem gợi lên sứ mệnh trở thành một thành phố hòa bình, nhưng thật đáng buồn, nó đã trở thành một nơi xung đột. Tôi tin tưởng rằng nó có thể tái khám phá ơn gọi này để trở thành một địa điểm và biểu tượng của sự gặp gỡ và chung sống hòa bình, đồng thời việc tiếp cận và tự do thờ phượng ở những thánh địa sẽ tiếp tục được bảo đảm và tôn trọng theo nguyên trạng. Và tôi hy vọng rằng các giới chức của Nhà nước Israel và Nhà nước Palestine có thể lấy lại can đảm và quyết tâm đối thoại trực tiếp để thực hiện giải pháp hai nhà nước trên mọi phương diện, phù hợp với với luật pháp quốc tế và tất cả các nghị quyết của Liên hợp quốc.

Như quý vị đã biết, cuối tháng này, cuối cùng tôi có thể đến được nước Cộng hòa Dân chủ Congo với tư cách là một người hành hương hòa bình, với hy vọng rằng bạo lực sẽ chấm dứt ở miền đông của đất nước, và con đường đối thoại và ý chí làm việc vì an ninh và lợi ích chung sẽ chiến thắng. Cuộc hành hương của tôi sẽ tiếp tục đến Nam Sudan, tại đây tôi sẽ được đồng hành cùng với Đức Tổng Giám mục Canterbury và Ngài Tổng Điều hành Giáo hội Trưởng lão Scotland. Chúng tôi cùng hiệp nhất với lời cầu xin hòa bình của người dân cả nước và từ đó góp phần vào tiến trình hòa giải dân tộc.

Chúng ta cũng không quên các tình huống khác vẫn còn bị đè nặng bởi những tác động của các cuộc xung đột chưa được giải quyết. Tôi đặc biệt nghĩ đến tình hình ở Nam Kavkaz. Tôi kêu gọi các bên hãy tôn trọng lệnh ngừng bắn, và tôi nhắc lại rằng việc thả các tù nhân quân sự và dân sự sẽ chứng tỏ là một bước quan trọng hướng tới một thỏa thuận hòa bình hằng được mong đợi.

Tôi cũng nghĩ đến Yemen, nơi đạt được thỏa thuận ngừng bắn vào tháng Mười vừa qua, nhưng nhiều thường dân vẫn tiếp tục bị thiệt mạng vì bom mìn, và nghĩ đến Ethiopia, quốc gia tôi tin rằng tiến trình hòa bình sẽ tiếp tục và cộng đồng quốc tế sẽ tái khẳng định cam kết ứng phó với cuộc khủng hoảng nhân đạo mà quốc gia đó đang trải qua.

Tôi cũng quan tâm sâu sắc đến tình hình ở Tây Phi, ngày càng bị tàn phá bởi các hành động bạo lực khủng bố. Tôi đặc biệt nghĩ đến hoàn cảnh bi thảm mà người dân Burkina Faso, Mali và Nigeria phải chịu đựng, và tôi bày tỏ hy vọng rằng những tiến trình chuyển đổi hiện tại ở Sudan, Mali, Chad, Guinea và Burkina Faso sẽ diễn ra trong sự tôn trọng những nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân.

Tôi đặc biệt chú ý đến tình hình của Myanmar, hai năm nay đã trải qua tình trạng bạo lực, đau khổ và chết chóc. Tôi mời gọi cộng đồng quốc tế làm việc để làm hiện thực các tiến trình hòa giải và tôi kêu gọi tất cả các bên liên quan thực hiện con đường đối thoại, để khôi phục lại niềm hy vọng cho người dân của vùng đất thân yêu đó.

Cuối cùng, tôi nghĩ đến Bán đảo Triều Tiên, và tôi bày tỏ hy vọng rằng thiện chí và cam kết hòa giải sẽ không bị giảm sút, vì mục tiêu đạt được nền hòa bình và sự thịnh vượng mà toàn thể người dân Triều Tiên rất mong muốn.

Tuy nhiên, tất cả các cuộc xung đột đều dẫn đến những hậu quả tai hại do phải liên tục dựa vào việc sản xuất vũ khí mới và ngày càng tinh vi hơn, điều mà đôi khi được biện minh bằng lập luận rằng “hòa bình không thể được bảo đảm nếu không đặt trên nền tảng cân bằng vũ trang cách bình đẳng”.[4] Cần phải thay đổi lối suy nghĩ này và tiến tới việc giải trừ quân bị toàn diện, vì không thể có hòa bình khi các công cụ giết người tăng lên quá nhiều.

Thưa các vị Đại sứ,

Khi xảy ra xung đột lớn như vậy, chúng ta không thể không tự hỏi rằng làm cách nào chúng ta có thể dệt lại những sợi chỉ hòa bình. Chúng ta bắt đầu ở đâu?

Để phác thảo một câu trả lời, tôi muốn cùng với quý vị cân nhắc một số yếu tố trong Sứ điệp Pacem in Terris, một văn bản vẫn luôn hợp thời, mặc dù bối cảnh quốc tế đã thay đổi rất nhiều. Thánh Gioan XXIII đã xác tín rằng hòa bình có thể khi có sự tôn trọng bốn điều thiện nền tảng: sự thật, công lý, đoàn kết và tự do. Những điều này đóng vai trò là rường cột điều chỉnh mối quan hệ giữa các cá nhân cũng như các cộng đồng chính trị.[5]

Những chiều kích này gặp gỡ nhau trong tiền đề cơ bản rằng “mỗi con người là một nhân vị, có bản chất được ban tặng trí thông minh và ý chí tự do. Do vậy, người đó có các quyền và nghĩa vụ phát xuất như hệ quả trực tiếp của bản chất của người đó. Những quyền và nghĩa vụ này là phổ quát và bất khả xâm phạm, và do đó hoàn toàn không thể chuyển nhượng”.[6]

Hòa bình trong sự thật

Xây dựng hòa bình trong sự thật trước hết có nghĩa là tôn trọng nhân vị với “quyền được sống và sự toàn vẹn về thân thể”[7] của họ và bảo đảm ‘quyền tự do tìm kiếm sự thật cũng như quyền tự do ngôn luận và trình bày’ của họ.[8] Điều này đòi hỏi các giới hữu trách dân sự phải “tích cực đóng góp vào việc tạo ra một môi trường tổng thể trong đó các cá nhân có thể vừa bảo vệ quyền vừa thực hiện nghĩa vụ của mình, và có thể làm như vậy một cách dễ dàng”.[9]

Cho dù đã có những cam kết của tất cả các chính phủ tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của mỗi người, nhưng ngày nay, ở nhiều quốc gia, phụ nữ vẫn bị xem là công dân hạng hai. Họ phải chịu bạo lực và lạm dụng, và bị từ chối cơ hội học tập, làm việc, sử dụng tài năng của họ, và được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc sức khỏe và thậm chí cả thực phẩm. Khi quyền con người được công nhận trọn vẹn đối với tất cả mọi người, thì phụ nữ có thể cống hiến những đóng góp đặc biệt của họ cho đời sống xã hội và trở thành những trợ thủ đắc lực của hòa bình.

Hòa bình trước hết đòi hỏi phải bảo vệ sự sống, một sự tốt lành mà ngày nay đang bị đe dọa không những bởi các cuộc xung đột, nạn đói và bệnh tật, mà còn thường xuyên bị đe dọa ngay cả khi còn trong cung lòng người mẹ, thông qua việc cổ xúy cho “quyền được phá thai”. Tuy nhiên, không ai có quyền trên sự sống của người khác, đặc biệt đối với người yếu đuối và hoàn toàn không có khả năng tự vệ. Vì lý do này, tôi kêu gọi lương tâm của những người nam nữ thiện chí, đặc biệt là những người có trọng trách chính trị, hãy cố gắng bảo vệ quyền của những người yếu đuối nhất và chống lại cái văn hóa vứt bỏ, ảnh hưởng đến người bệnh, người khuyết tật và người già. Các chính phủ có trách nhiệm chính là đảm bảo rằng người công dân được hỗ trợ trong mọi giai đoạn của cuộc sống con người, cho đến khi chết tự nhiên, và thực hiện điều đó để mỗi người cảm thấy được đồng hành và chăm sóc, thậm chí trong những thời khắc mong manh nhất của cuộc đời họ.

Quyền được sống cũng bị đe dọa ở những nơi mà án tử hình vẫn tiếp tục được áp dụng, như trường hợp ở Iran trong những ngày này, theo sau các cuộc biểu tình gần đây đòi hỏi sự tôn trọng nhiều hơn đối với phẩm giá của phụ nữ. Không thể dùng án tử hình cho công lý Nhà nước theo chủ đích, vì nó không tạo sự răn đe cũng như không mang lại công lý cho các nạn nhân, mà chỉ thúc đẩy khát khao báo thù. Vì vậy, tôi kêu gọi chấm dứt án tử hình, vốn luôn luôn không thể chấp nhận được vì nó tấn công quyền bất khả xâm phạm và phẩm giá con người, theo sự lập pháp của tất cả các quốc gia trên thế giới. Chúng ta không thể bỏ qua sự thật rằng, cho đến giây phút cuối cùng của một người, họ vẫn có thể hối cải và thay đổi.

Thật bi thảm, chúng ta ngày càng chứng kiến sự trổi lên của một “nỗi sợ hãi” sự sống, ở nhiều nơi biến thành nỗi sợ hãi về tương lai và khó khăn trong việc tạo lập gia đình và đưa con cái đi vào thế giới. Trong một số bối cảnh, chẳng hạn tôi nghĩ đến nước Ý, tỷ lệ sinh đang giảm một cách nguy cấp, một mùa đông nhân khẩu thực sự, gây nguy hiểm cho chính tương lai của xã hội. Tôi muốn một lần nữa động viên người dân Ý thân yêu hãy đương đầu với những thách thức của thời điểm hiện tại với sự ngoan cường và hy vọng bằng cách đón lấy sức mạnh từ cội nguồn tôn giáo và văn hóa của họ.

Nỗi sợ hãi được thúc đẩy bởi sự thiếu hiểu biết và định kiến, và do đó dễ biến thành xung đột. Giáo dục là thuốc giải độc cho vấn đề này. Tòa Thánh cổ vũ một tầm nhìn toàn diện về giáo dục, trong đó “việc trau dồi các giá trị tôn giáo có thể bước hòa nhịp với kiến thức khoa học và sự tiến bộ kỹ thuật không ngừng nâng cao”.[10] Công việc giáo dục luôn đòi hỏi phải thể hiện sự tôn trọng trọn vẹn đối với con người, đối với diện mạo tự nhiên của họ, và tránh áp đặt một cách nhìn mới lạ và không rõ ràng về con người. Điều này đòi hỏi phải hợp nhất các tiến trình phát triển về con người, tinh thần, trí tuệ và nghề nghiệp, từ đó cho phép con người thoát khỏi nhiều hình thức nô lệ, và trong sự tự do và trách nhiệm, đảm nhận vị trí của mình trong xã hội. Về vấn đề này, không thể chấp nhận được việc một phần dân tộc bị loại trừ khỏi giáo dục, như đang xảy ra với phụ nữ Afghanistan.

Giáo dục là nạn nhân của một cuộc khủng hoảng thậm chí còn nghiêm trọng hơn do tác động tàn phá của đại dịch và bởi kịch bản địa chính trị đầy phức tạp. Về vấn đề này, Hội nghị Thượng đỉnh về Chuyển đổi Giáo dục do Tổng thư ký Liên hợp quốc triệu tập tại New York vào tháng Chín năm ngoái đã mang đến cho các chính phủ cơ hội duy nhất để áp dụng các chính sách can đảm nhằm đối mặt với “thảm họa giáo dục” hiện nay và ban hành các quyết định cụ thể để đạt được chất lượng giảng dạy cho tất cả mọi người vào năm 2030. Cầu mong các nhà nước tìm được sự can đảm để đảo ngược mối tương quan rắc rối và không cân xứng giữa khoản tài trợ công cho giáo dục và chi tiêu cho vũ khí!

Hòa bình cũng kêu gọi sự công nhận toàn cầu về tự do tôn giáo. Điều đáng lo ngại là con người đang bị bắt bớ chỉ vì họ công khai tuyên xưng đức tin của họ, và ở nhiều quốc gia quyền tự do tôn giáo bị hạn chế. Khoảng một phần ba dân số thế giới sống trong những điều kiện này. Cùng với việc thiếu tự do tôn giáo, còn có sự đàn áp vì lý do tôn giáo. Như thống kê cho thấy, tôi không thể không đề cập rằng cứ bảy người Kitô hữu thì có một người bị đàn áp. Ở đây, tôi bày tỏ hy vọng rằng tân Đặc phái viên của Liên minh Châu Âu về thúc đẩy tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng bên ngoài EU, sẽ có thể bố trí các nguồn lực và phương tiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ cụ thể của mình một cách thích đáng.

Đồng thời, chúng ta không được bỏ qua thực tế là bạo lực và các hành vi phân biệt đối xử chống lại người Kitô hữu cũng đang gia tăng ở những quốc gia mà người Kitô hữu không phải là thiểu số. Tự do tôn giáo cũng bị đe dọa ở bất cứ nơi nào các tín hữu thấy khả năng bày tỏ niềm tin của họ trong đời sống xã hội bị hạn chế do cách hiểu sai về tính bao gồm. Tự do tôn giáo không thể thu hẹp thành tự do thờ phượng, là một trong những điều kiện tất yếu tối thiểu để có một đời sống đúng phẩm giá. Các chính phủ có nghĩa vụ bảo vệ quyền này và bảo đảm rằng mỗi người đều có cơ hội hành động theo lương tâm của họ theo cách phù hợp với lợi ích chung, kể cả trong phạm vi công và trong khi thực hiện nghề nghiệp của họ.

Tôn giáo cung cấp những cơ hội thực sự cho sự đối thoại và gặp gỡ giữa các dân tộc và các nền văn hóa khác nhau. Quốc hội Timor-Leste đã làm chứng cho điều này trong quyết định nhất trí phê duyệt Văn kiện về Tình huynh đệ Nhân loại mà tôi đã ký với Đức Đại Imam của Al-Azhar vào năm 2019 và bằng cách đưa Văn kiện vào chương trình của các tổ chức văn hóa và giáo dục của quốc gia. Cá nhân tôi đã có kinh nghiệm về điều này trong chuyến thăm Kazakhstan vào tháng Chín năm ngoái nhân dịp tham dự Đại hội lần thứ bảy của các nhà lãnh đạo các tôn giáo thế giới và truyền thống, tôi đã chia sẻ một số mối quan tâm về thế giới ngày nay và cho thấy rằng các tôn giáo “không phải là một vấn đề, nhưng là một phần của giải pháp cho một đời sống hài hòa hơn trong xã hội”.[11] Điều đặc biệt không kém là chuyến viếng thăm của tôi đến đất nước Bahrain, nơi mà một bước tiến xa hơn trong cuộc hành trình của các tín hữu Kitô giáo và tín đồ Hồi giáo đã được thực hiện.

Những cố gắng thường được đưa ra để đổ lỗi cho tôn giáo về những xung đột trong gia đình nhân loại của chúng ta, và những nỗ lực đáng trách đôi khi được thực hiện nhằm lợi dụng tôn giáo cho các mục đích thuần túy chính trị. Điều này đi ngược lại với cách hiểu của Kitô giáo xem gốc rễ của mọi xung khắc là ở tình trạng mất cân bằng hiện hữu trong tâm hồn con người: theo lời của Tin Mừng, “Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người” (Mc 7:21). Kitô giáo là một lực lượng cho hòa bình, vì Kitô giáo khuyến khích hoán cải và thực hành nhân đức.

Hòa bình trong công lý

Xây dựng hòa bình đòi hỏi phải theo đuổi công lý. Cuộc khủng hoảng năm 1962 đã được ngăn chặn nhờ sự đóng góp của những người thiện chí, họ có thể đưa ra các giải pháp phù hợp để ngăn chặn sự căng thẳng chính trị không biến thành một cuộc chiến thực sự. Đó cũng là bởi niềm vững tin rằng các tranh chấp đều có thể được giải quyết trong khuôn khổ luật pháp quốc tế, và thông qua các tổ chức đó, vai trò chính là Liên hợp quốc, được thành lập sau Đệ nhị Thế chiến và khuyến khích ngoại giao đa phương. Theo lời của Thánh Gioan XXIII, “Tổ chức Liên Hợp Quốc có mục tiêu đặc biệt là duy trì và củng cố hòa bình giữa các quốc gia, khuyến khích và hỗ trợ các mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia, dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hợp tác sâu rộng trong mọi lĩnh vực nỗ lực của con người”.[12]

Cuộc xung đột hiện nay ở Ukraine đã cho thấy rõ ràng hơn cuộc khủng hoảng từ lâu đã ảnh hưởng đến hệ thống đa phương, hệ thống này cần phải suy nghĩ lại sâu sắc nếu nó muốn đáp ứng cách thỏa đáng trước những thách thức của thời đại chúng ta. Điều này đòi hỏi một cuộc cải tổ các cơ quan cho phép hệ thống hoạt động hiệu quả, để các cơ quan có thể thực sự là đại diện cho những nhu cầu và sự nhạy cảm của các dân tộc, và tránh các thủ tục tạo thêm gánh nặng cho một số quốc gia, gây bất lợi cho những quốc gia khác. Vấn đề không phải là tạo ra các liên minh, mà là cung cấp những cơ hội cho mọi người trở thành đối tác trong cuộc đối thoại.

Có thể đạt được sự thiện hảo bằng cách làm việc cùng nhau. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những sáng kiến đáng khen nhằm giảm bớt tình trạng đói nghèo, hỗ trợ người di cư, chống biến đổi khí hậu, thúc đẩy việc giải trừ vũ khí nguyên tử và cung cấp viện trợ nhân đạo. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, các diễn đàn quốc tế khác nhau đã chứng kiến sự gia tăng tình trạng phân cực và nỗ lực áp đặt một lối suy nghĩ duy nhất, cản trở đối thoại và gạt những người có cách nhìn sự việc khác biệt ra ngoài lề. Nguy bị cuốn vào điều mà ngày càng thể hiện là chủ nghĩa chuyên chế về ý thức hệ cổ võ tính bất khoan dung đối với những người bất đồng với các quan điểm được cho là đại diện cho “sự tiến bộ”, nhưng trên thực tế có vẻ như sẽ dẫn đến sự thoái trào toàn diện của nhân loại, với sự vi phạm quyền tự do tư tưởng và tự do lương tâm.

Ngoài ra, ngày càng có nhiều nguồn lực được sử dụng để áp đặt các hình thức thực dân hóa ý thức hệ, đặc biệt là đối với các nước nghèo hơn, và kết nối trực tiếp việc cung cấp viện trợ kinh tế với việc chấp nhận các ý thức hệ đó. Điều này đã làm căng thẳng cuộc tranh luận trong các tổ chức quốc tế, ngăn trở những trao đổi hiệu quả và thường dẫn đến xu hướng giải quyết các vấn đề một cách độc lập, và do đó dựa trên cơ sở các mối quan hệ quyền lực.

Trong chuyến thăm Canada vào tháng Bảy năm ngoái, tôi đã trực tiếp có kinh nghiệm về những hậu quả của chủ nghĩa thực dân hóa, đặc biệt là trong các cuộc gặp gỡ của tôi với người dân bản địa đã phải chịu đựng các chính sách đồng hóa trong quá khứ. Những nỗ lực nhằm áp đặt lối suy nghĩ xa lạ lên các nền văn hóa khác mở đường cho sự đối đầu gay gắt và đôi khi là bạo lực.

Nhân danh sự liên đới “được sinh ra từ ý thức rằng chúng ta phải chịu trách nhiệm về sự mong manh của người khác khi chúng ta cố gắng xây dựng một tương lai chung”,[13] chúng ta phải trở lại với việc đối thoại, lắng nghe nhau và dàn xếp, đồng thời thúc đẩy trách nhiệm và hợp tác chung trong việc theo đuổi ích chung. Những cố gắng ngăn chặn hoặc phủ quyết thảo luận sẽ chỉ thúc đẩy những chia rẽ sâu xa hơn.

Hòa bình trong sự liên đới

Trong Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới thường niên của tôi, tôi lưu ý rằng đại dịch Covid-19 đã để lại “nhận thức rằng tất cả chúng ta đều cần đến nhau”.[14] Con đường hòa bình là con đường của sự liên đới, vì không ai có thể được cứu một mình. Chúng ta sống trong một thế giới được kết nối với nhau đến mức hành động của mỗi người sẽ có hệ quả cho tất cả.

Ở đây, tôi muốn hướng sự chú ý đến ba lĩnh vực mà mối liên kết này hiệp nhất gia đình nhân loại được cảm nhận cách đặc biệt ngày nay, và là những lĩnh vực rất cần đến sự liên đới nhiều hơn nữa.

Lĩnh vực đầu tiên là vấn đề di cư, liên quan đến toàn bộ các khu vực trên thế giới. Thường thì đó là vấn đề của các cá nhân tháo chạy khỏi chiến tranh và sự ngược đãi, và phải đối mặt với những mối nguy hiểm rất lớn. Và “mọi người đều có quyền tự do đi lại… di cư đến các quốc gia khác và cư trú ở đó”[15] và mọi người có thể trở về quê hương của mình.

Di cư là một vấn đề mà chúng ta không thể “xem như ngẫu nhiên”. Để hiểu điều này, chúng ta chỉ cần nhìn vào Địa Trung Hải, nơi đã trở thành một ngôi mộ khổng lồ. Những sinh mạng bị mất đó là biểu tượng của sự sụp đổ của nền văn minh, như tôi đã lưu ý trong chuyến đi đến Malta vào mùa xuân năm ngoái. Ở Châu Âu, nhu cầu cấp thiết cần có là củng cố khung pháp lý thông qua việc phê chuẩn Hiệp ước mới về Di cư và Tị nạn, để đưa ra các chính sách phù hợp nhằm tiếp nhận, đồng hành, thăng tiến và hội nhập người di cư. Đồng thời, tình liên đới đòi hỏi rằng gánh nặng của các hoạt động cần thiết nhằm hỗ trợ và chăm sóc người bị đắm tàu không thể hoàn toàn đổ lên người dân của các điểm cập bến chính.

Lĩnh vực thứ hai liên quan đến kinh tế và việc làm. Các cuộc khủng hoảng trong những năm gần đây đã làm nổi bật những giới hạn của một hệ thống kinh tế hướng đến việc tạo ra lợi nhuận cho một số ít người hơn là tạo cơ hội mang lại lợi ích cho nhiều người; một nền kinh tế tập trung vào tiền hơn là sản xuất hàng hóa hữu dụng. Vấn đề này đã tạo ra nhiều doanh nghiệp mong manh hơn và thị trường lao động bất công. Cần phải khôi phục giá trị cho doanh nghiệp và việc làm, chống lại mọi hình thức bóc lột dẫn đến việc coi người lao động như một món hàng, vì “không có công việc xứng với phẩm giá và được trả lương cách công bằng, người trẻ tuổi sẽ không thực sự trở thành người trưởng thành và sự bất bình đẳng sẽ gia tăng”.[16]

Lĩnh vực thứ ba là chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Chúng ta đang liên tục chứng kiến những hậu quả của biến đổi khí hậu và những tác động nghiêm trọng của chúng lên đời sống của tất cả các dân tộc, qua sự tàn phá mà chúng tạo ra như trường hợp của Pakistan ở những khu vực bị lũ lụt, nơi sự bùng phát dịch bệnh do nước tù đọng gây ra tiếp tục gia tăng; hoặc ở những khu vực rộng lớn của Thái Bình Dương, nơi sự nóng lên toàn cầu đã gây thiệt hại lớn cho hoạt động đánh bắt cá, vốn là nền tảng cho cuộc sống hàng ngày của toàn bộ dân cư; hay ở Somalia và toàn bộ vùng Sừng Châu Phi, nơi hạn hán đang gây ra nạn đói nghiêm trọng; và trong những ngày gần đây cũng vậy, tại Hoa Kỳ những trận bão tuyết bất ngờ và dữ dội đã làm nhiều người chết.

Mùa hè năm ngoái, Tòa Thánh đã tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, như một phương tiện hỗ trợ tinh thần cho nỗ lực của tất cả các quốc gia trong việc hợp tác, phù hợp với trách nhiệm và khả năng của họ, nhằm đưa ra một cách ứng phó hiệu quả và phù hợp với những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra. Hy vọng rằng các bước được thực hiện tại COP27 với việc thông qua Kế hoạch thực hiện Sharm el-Sheikh, tuy còn hạn chế, có thể nâng cao nhận thức của mọi người về một vấn đề cấp bách không thể bỏ qua. Tuy nhiên, các mục tiêu đầy hứa hẹn đã được thống nhất trong Hội nghị Đa dạng sinh học của Liên hợp quốc (COP15) được tổ chức tại Montreal vào tháng trước.

Hòa bình trong tự do

Cuối cùng, xây dựng hòa bình đòi hỏi không có chỗ cho “sự vi phạm quyền tự do, toàn vẹn và an ninh của các quốc gia khác, bất kể phần lãnh thổ của họ tới đâu hoặc khả năng phòng thủ của họ là gì”.[17] Điều này chỉ có thể xảy ra nếu trong mỗi cộng đồng không tồn tại thứ văn hóa áp bức và xâm lược, trong đó người thân cận của chúng ta bị coi là kẻ thù để tấn công, thay vì đó là người anh chị em để chào đón và ôm lấy.[18]

Mối lo ngại rất lớn là ở nhiều nơi trên thế giới đang có sự suy yếu về nền dân chủ và phạm vi tự do mà nó tạo ra, với tất cả những hạn chế của bất kỳ hệ thống nào của con người. Phụ nữ hoặc các nhóm sắc tộc thiểu số thường phải trả giá cho điều này, cũng như tất cả các xã hội trong đó tình trạng bất ổn dẫn đến căng thẳng xã hội và thậm chí là xung đột vũ trang.

Trong nhiều lĩnh vực, một tín hiệu của nền dân chủ bị suy yếu là sự phân cực chính trị và xã hội ngày càng tăng cao, không giúp giải quyết các vấn đề cấp bách của công dân. Tôi nghĩ đến các quốc gia ở Châu Mỹ nơi khủng hoảng chính trị đang đè nặng với những căng thẳng và các hình thức bạo lực làm trầm trọng thêm những xung đột xã hội. Đặc biệt, tôi muốn đề cập đến các sự kiện gần đây ở Peru và trong những giờ gần đây nhất ở Brazil, và tình hình đáng lo ngại ở Haiti, nơi các bước cuối cùng đang được thực hiện để giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị đã diễn ra trong một thời gian. Cần phải liên tục vượt qua những lối suy nghĩ đảng phái và làm việc để thúc đẩy lợi ích chung.

Tôi cũng theo dõi sát tình hình ở Li Băng vẫn đang chờ cuộc bầu cử Tổng thống mới của nước Cộng hòa. Tôi tin tưởng rằng các nhà lãnh đạo chính trị sẽ nỗ lực hết sức để giúp đất nước phục hồi thoát khỏi tình hình kinh tế và xã hội nặng nề mà đất nước hiện đang trải qua.

Thưa quý vị,

Thật tuyệt vời nếu chúng ta tụ họp lại, chỉ một lần thôi, để tạ ơn Chúa Toàn năng vì những ơn lành tuôn đổ liên tục của Người, mà không cần phải liệt kê tất cả những biến cố bi thảm đang hoành hành trên thế giới của chúng ta. Tôi xin một lần nữa trích dẫn những lời của Đức Gioan XXIII, “tuy nhiên, chúng ta vẫn hy vọng rằng, qua việc thiết lập sự liên lạc với nhau và một chính sách đàm phán, các quốc gia sẽ nhận thức rõ hơn về những mối quan hệ tự nhiên ràng buộc họ với nhau trong tư cách là con người. Chúng ta cũng hy vọng rằng họ sẽ nhận thức một cách công bằng hơn về một trong những nhiệm vụ chính xuất phát từ bản chất chung của chúng ta: đó là tình yêu, không phải là sợ hãi, phải chi phối mối quan hệ giữa các cá nhân và giữa các quốc gia. Đặc điểm cơ bản của tình yêu là nó đưa con người đến với nhau bằng mọi cách, hiệp nhất cách chân thành trong các mối ràng buộc tinh thần và vật chất; và đây là sự hiệp nhất mà từ đó có thể tuôn đổ muôn vàn phúc lành”.[19]

Với những tình cảm này, tôi xin gửi đến quý vị và các quốc gia mà quý vị đại diện những lời chúc chân thành tốt đẹp nhất cho năm mới.

Cảm ơn quý vị!

________________________________________


[1] Apostolic Constitution Praedicate Evangelium (19 March 2022), Art. 1.

[2] On 11 April 1963. Cf. AAS 55 (1963), 257-304.

[3] Pacem in Terris (ed. Carlen), 111.

[4] Pacem in Terris, 110.

[5] Cf. ibid., 85.

[6] Ibid., 9.

[7] Ibid., 11.

[8] Ibid., 12.

[9] Ibid., 63.

[10] Ibid., 153.

[11] Address to the Plenary Session of the VII Congress of Leaders of World and Traditional Religions, Astana, 14 September 2022.

[12] Pacem in Terris, 142.

[13] Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), 115.

[14] Message for the 2023 World Day of Peace (8 December 2022), 3.

[15] Pacem in Terris, 25.

[16] Address to Participants in the “Economy of Francesco” Event, Assisi, 24 September 2022.

[17] Pacem in Terris, 124. Cf. PIUS XII, Christmas Radio Message, 24 December 1941.

[18] Cf. Address to the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See, 22 March 2013.

[19] Pacem in Terris, 129.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 10/1/2023]