Thứ Sáu, 10 tháng 9, 2021

Tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 08 tháng 09, 2021

Tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 08 tháng 09, 2021

Tiếp kiến chung của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 08 tháng 09, 2021


Buổi Tiếp kiến chung sáng nay diễn ra trong Khán phòng Phaolô VI, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các nhóm hành hương và tín hữu từ nước Ý và khắp nơi trên thế giới.

Trong huấn từ bằng tiếng Ý Đức Thánh Cha tiếp tục loạt bài giáo lý về Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Galát, tập trung vào chủ đề: “Chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Bài đọc Kinh Thánh: Gl 3: 26-29).

Sau phần tóm lược bài giáo lý bằng một số ngôn ngữ, Đức Thánh Cha gửi lời chào đặc biệt đến các tín hữu. Sau đó ngài đưa ra lời kêu gọi cho Ethiopia, quốc gia sẽ mừng năm mới vào ngày 11 tháng Chín này, và nhắc lại sự gần gũi của ngài với những người dân bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng đang xảy ra trong nước.

Buổi Tiếp kiến chung kết thúc với Kinh Lạy Cha và Phép Lành Tòa Thánh.

*****

Giáo lý về Thư gửi tín hữu Galát - 8. Chúng ta là con cái Thiên Chúa

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Chúng ta hãy tiếp tục hành trình đào sâu đức tin – đức tin của chúng ta - dưới ánh sáng của Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Galát. Thánh Tông đồ quả quyết với những Kitô hữu để họ không quên sự mới mẻ trong mặc khải của Thiên Chúa đã được công bố cho họ. Hoàn toàn đồng ý với Thánh sử Gioan (xem 1 Ga 3: 1-2), Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô cho phép chúng ta thật sự trở thành con cái Thiên Chúa và cũng là người thừa kế của Người. Người Kitô hữu chúng ta thường coi thực tế là con cái Thiên Chúa này là một sự đương nhiên. Tuy nhiên, thật là tốt khi ghi nhớ với lòng biết ơn giây phút mà chúng ta được trở thành con cái Chúa, giây phút chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội, để sống món quà tuyệt vời mà chúng ta đã đón nhận với ý thức sâu sắc hơn.

Nếu hôm nay cha hỏi anh chị em: “Ai trong anh chị em biết chính xác ngày Rửa Tội của mình?” Cha nghĩ sẽ không có quá nhiều cánh tay giơ lên…. Tuy nhiên, đó là ngày mà chúng ta được cứu thoát, đó là ngày mà chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Bây giờ, những ai không biết ngày đó hãy hỏi cha mẹ đỡ đầu, cha mẹ đẻ, chú bác, dì của họ: “Con được rửa tội khi nào”? Và ngày đó phải được ghi nhớ hàng năm: đó là ngày mà chúng ta trở thành con cái của Chúa. Anh chị em đồng ý chứ? Tất cả anh chị em sẽ làm điều này chứ? [Phản hồi từ đám đông.] Dạ, lời “xin vâng” vậy vậy thôi. [Tiếng cười lớn]. Chúng ta cứ tiến bước.

Thật vậy, khi “đức tin đến” trong Chúa Giêsu Kitô (câu 25), một điều kiện hoàn toàn mới đã được tạo ra đưa đến quyền làm con cái Thiên Chúa. Quyền làm con cái mà Thánh Phaolô nói đến không còn là quyền chung chung liên quan đến tất cả mọi người nam và nữ trong vai trò họ là những người con của một Đấng Tạo Hóa duy nhất. Không, trong trích đoạn chúng ta đã nghe, ngài khẳng định rằng đức tin cho phép chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa “trong Đức Kitô” (câu 26). Đây là điểm mới. “Trong Đức Kitô” là điều tạo nên sự khác biệt. Không chỉ là con cái của Thiên Chúa, giống như tất cả mọi người: tất cả mọi người nam và nữ đều là con cái Thiên Chúa, tất cả họ, không phân biệt chúng ta theo tôn giáo nào. Nhưng “trong Đức Kitô”, đây là điều tạo nên sự khác biệt giữa những người Kitô hữu, và điều này chỉ xảy ra khi tham dự vào ơn cứu chuộc của Đức Kitô, và trong chúng ta trong Bí tích Rửa tội: đây là sự khởi đầu. Chúa Giêsu đã trở thành anh em của chúng ta, và qua cái chết và sự phục sinh của Ngài, Ngài đã hòa giải chúng ta với Chúa Cha. Bất cứ ai đón nhận Đức Kitô trong đức tin, qua Bí tích Rửa tội, đều đã “mặc lấy” Đức Kitô và phẩm giá làm con của Ngài (xem câu 27). Đây là điều được nói trong câu 27.

Trong các Thư của mình, Thánh Phaolô đề cập đến bí tích rửa tội nhiều lần. Với ngài, được rửa tội cũng tương đương với sự tham gia một cách hiệu quả và đích thực vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Chẳng hạn, trong Thư gửi tín hữu Rôma, ngài thậm chí còn đi xa đến mức nói rằng trong Bí tích Rửa tội, chúng ta đã chết với Đức Kitô và được chôn với Người để được sống với Người (xem 6: 3-14). Chết với Đức Kitô, được chôn với Người để được sống với Người. Đây là ân sủng của Bíc tích Rửa tội: tham dự vào cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Vì vậy, Bí tích Rửa không chỉ đơn thuần là một nghi thức bên ngoài. Những người lãnh nhận Bí tích được biến đổi từ bên trong, trong hữu thể sâu thẳm của họ, và có đời sống mới, đó chính là điều cho phép họ hướng về Thiên Chúa và kêu cầu Người với tên gọi “Abba”, tức là “ba ơi”. Có phải là “Thưa người cha”? Không: là “ba ơi” (xem Gl 4: 6).

Thánh Tông đồ xác nhận một cách táo bạo rằng căn tính nhận được khi chịu Phép Rửa là hoàn toàn mới nên nó vượt trên những khác biệt tồn tại trên bình diện sắc tộc-tôn giáo. Tức là, ngài giải thích như sau: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp,” thậm chí trên bình diện xã hội, “không phân biệt nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà” (Gl 3:28). Chúng ta thường đọc những cách diễn đạt này quá nhanh, mà không nắm bắt được giá trị mang tính cách mạng của chúng. Đối với Thánh Phaolô, khi viết cho người Galát rằng trong Đức Kitô “không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp” là một sự đảo lộn hoàn toàn trong lãnh vực tôn giáo-dân tộc. Bởi vì thuộc về một dân tộc được chọn, người Do Thái có đặc ân hơn người ngoại giáo (xem Rm 2:17-20). – như trong Thư gửi tín hữu Rôma, chương 2, câu 17 đến câu 20; chính Thánh Phaolô đã khẳng định điều này (xem Rm 9:4-5). Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi lời giảng dạy mới này của Thánh Tông đồ nghe có vẻ như lạc giáo. “Cái gì, mọi người đều bình đẳng? Chúng ta khác nhau chứ!” Nghe có vẻ hơi lạc giáo, phải không?

Thậm chí với nhóm bình đẳng thứ hai, giữa những người “tự do” và những người “nô lệ”, đã đưa ra một viễn cảnh gây sốc. Sự phân biệt giữa nô lệ và công dân tự do là yếu tố sống còn trong xã hội cổ đại. Theo luật, các công dân tự do được hưởng mọi quyền, trong khi nhân phẩm của người nô lệ không được công nhận. Điều này thậm chí xảy ra ngay hôm nay. Có rất nhiều người trên thế giới, rất nhiều, hàng triệu người không có quyền được ăn, không có quyền được học hành, không có quyền làm việc. Họ là những nô lệ mới. Họ là những người sống bên lề, bị mọi người bóc lột. Chế độ nô lệ vẫn tồn tại cho đến ngày nay – chúng ta hãy suy nghĩ một chút về điều này. Nhân phẩm của những người này bị phủ nhận. Họ là nô lệ.

Cuối cùng, sự bình đẳng trong Đức Kitô đã vượt qua những khác biệt xã hội giữa hai giới tính, thiết lập một sự bình đẳng giữa nam và nữ, điều mang tính cách mạng vào thời đó và ngay cả ngày nay cần phải được tái khẳng định. Điều này cần được khẳng định lại ngay cả ngày hôm nay. Đã bao lần chúng ta nghe thấy những câu nói chê bai phụ nữ! Chúng ta thường nghe: “Không, đừng làm gì cả, đó là những điều của phụ nữ”. Nhưng, đàn ông và phụ nữ đều có phẩm giá như nhau. Và nó đã xảy ra trong lịch sử, thậm chí ngày nay, một hình thức nô lệ đối với phụ nữ: phụ nữ không có cơ hội như nam giới. Chúng ta phải đọc những gì Thánh Phaolô nói: chúng ta bình đẳng trong Chúa Giêsu Kitô.

Như chúng ta có thể thấy, Thánh Phaolô khẳng định sự hiệp nhất sâu xa tồn tại giữa tất cả những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, trong bất kỳ điều kiện nào ràng buộc họ, dù là nam hay nữ – đều bình đẳng vì mỗi người đều là tạo vật mới trong Đức Kitô. Mọi sự phân biệt đều trở thành thứ yếu so với phẩm giá làm con cái Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra một sự bình đẳng thực sự và căn bản nhờ tình yêu thương của Người. Tất cả mọi người, nhờ ơn cứu chuộc của Đức Kitô và Phép Rửa mà chúng ta đã lãnh nhận, tất cả chúng ta đều bình đẳng: là con cái của Chúa. Bình đẳng.

Vì vậy, thưa anh chị em, chúng ta được kêu gọi để sống một đời sống mới theo cách tích cực hơn, thể hiện trong cách là con cái của Thiên Chúa. Bình đẳng bởi vì chúng ta là con cái của Chúa; và là con cái của Thiên Chúa vì Đức Kitô đã cứu chuộc chúng ta và chúng ta đạt được phẩm giá nhờ Bí tích Rửa tội. Ngay cả đối với tất cả chúng ta ngày nay, nó là điều quyết định cho chúng ta là khám phá lại vẻ đẹp của quyền làm con cái Thiên Chúa, trở thành anh chị em với nhau, bởi vì chúng ta đã được hiệp nhất trong Đức Kitô, Đấng đã cứu chuộc chúng ta.

Những khác biệt và tương phản mà sự phân cách tạo ra không được tồn tại nơi những người tin vào Đức Kitô. Và một Thánh Tông đồ, trong Thư của Thánh Giacôbê đã nói điều này: “Hãy thận trọng trước những sự khác biệt, vì thật không đúng đắn khi một người nào đó bước vào nơi hội họp (tức là Thánh lễ) mà đeo nhẫn vàng và mặc đẹp đẽ, ‘À , mời ông lên đây, mời ông lên đây!', và dành cho anh ta một chỗ ngồi ở hàng đầu. Sau đó, một người khác bước vào, vẻ ngoài nghèo nàn, hình thức bên ngoài bạn thấy anh ta nghèo, nghèo, nghèo nàn, ‘Ồ, ông đi qua đó ở phía sau’.” Chúng ta tạo ra những khác biệt này một cách vô thức như vậy. Không, chúng ta bình đẳng! Đúng hơn, ơn gọi của chúng ta là làm cho lời kêu gọi hiệp nhất toàn thể nhân loại trở nên cụ thể và rõ ràng (xem Conc. Ecum. Vat. II, Cost. Lumen gentium, 1). Mọi thứ làm rõ thêm sự khác biệt giữa mọi người, thường gây ra sự kỳ thị – trước mặt Thiên Chúa, tất cả những điều này không còn cơ sở nào nữa, nhờ ơn cứu chuộc đã thực hiện trong Đức Kitô. Điều quan trọng là hành động theo con đường hiệp nhất là do Chúa Thánh Thần chỉ dẫn. Và trách nhiệm của chúng ta là dứt khoát tiến bước trên con đường bình đẳng này, là một sự bình đẳng được nâng đỡ, được tạo ra bởi sự cứu chuộc của Chúa Giêsu. Và khi về nhà, anh chị em đừng quên: “Con đã chịu phép Rửa khi nào?” Hãy hỏi về ngày đó, để luôn ghi nhớ ngày đó trong đầu. Và khi đến ngày này có thể kỷ niệm. Cảm ơn anh chị em.


Lời chào bằng tiếng Anh

Cha thân ái chào anh chị em tín hữu nói tiếng Anh. Suy nghĩ của cha đặc biệt hướng về các học sinh sinh viên sẽ tựu trường trong những tuần sắp tới. Các con thanh thiếu niên thân yêu, ước mong năm học này sẽ trở thành một thời gian phát triển giáo dục và đào sâu tình bằng hữu cho tất cả các con. Cha khẩn xin sự khôn ngoan và niềm vui của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta tuôn đổ xuống trên chúng con và gia đình. Xin Chúa chúc lành cho các con!


Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha

Vào ngày 11 tháng Chín sắp tới, Ethiopia sẽ mừng Năm Mới. Tôi xin gửi lời chào thân ái và chân thành nhất đến người dân Ethiopia, đặc biệt những người đang chịu đau khổ vì cuộc khủng hoảng đang diễn ra và tình hình nhân đạo nghiêm trong do nó gây ra. Ước mong đây sẽ là thời khắc của tình huynh đệ và đoàn kết để niềm khát khao hòa bình của mọi người có thể được nghe thấy.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 9/9/2021]


Khi Mẹ Teresa dũng cảm nói với một Tổng thống Hoa Kỳ rằng phá thai là giết người

Khi Mẹ Teresa dũng cảm nói với một Tổng thống Hoa Kỳ rằng phá thai là giết người

Khi Mẹ Teresa dũng cảm nói với một Tổng thống Hoa Kỳ rằng phá thai là giết người

Robert Giroux | AFP

Mẹ Teresa, phát biểu trước Tổng thống Bill Clinton của Hoa Kỳ, lên tiếng chỉ trích nghiêm khắc những người ủng hộ sự phá thai.

Zelda Caldwell

04/09/21


Năm năm sau khi Mẹ được tuyên phong thánh, bây giờ những lời nói dũng cảm của Thánh Teresa Calcutta là cần thiết hơn bao giờ hết.

Với việc thông qua luật mới của Texas cấm phá thai sau khi phát hiện tim thai, vấn đề liệu quyền phá thai có tồn tại theo Hiến pháp hay không đã trở thành chủ đề tranh luận gay gắt.

Thật phù hợp khi vào dịp kỷ niệm 5 năm ngày Mẹ được phong thánh, chúng ta cùng hướng về những lời của Mẹ Teresa, người đã từng đưa vấn đề ra theo cách thuyết phục nhất, trước sự hiện diện của một tổng thống Hoa Kỳ, đó là phá thai — luật của đất nước Hoa Kỳ — là sự dữ.

Tại Chương trình National Prayer Breakfast ở Thủ đô Washington, DC, vào ngày 5 tháng Hai năm 1994, Mẹ Teresa đứng trước Tổng thống và Bà Bill Clinton, Phó Tổng thống và Bà Al Gore, cùng với 4.000 người tham dự khác, và gọi phá thai là “giết người”.

Đây là những gì Mẹ nói:

“Tôi cảm thấy rằng kẻ phá hủy hòa bình lớn nhất ngày nay là sự phá thai, bởi vì nó là cuộc chiến tranh chống lại trẻ em, trực tiếp giết chết đứa trẻ vô tội, sát hại bởi chính người mẹ. Và nếu chúng ta chấp nhận rằng một người mẹ có thể giết ngay cả đứa con của mình, thì làm sao chúng ta có thể bảo những người khác không được giết lẫn nhau? Làm cách nào để chúng ta thuyết phục một người phụ nữ không phá thai? Như mọi lúc, chúng ta phải thuyết phục cô ấy bằng tình yêu và chúng ta phải nhắc nhở bản thân rằng yêu thương có nghĩa là sẵn sàng trao hiến cho đến khi đau đớn. Chúa Giêsu đã hiến mạng sống của Ngài vì yêu thương chúng ta. Vì vậy, một người mẹ đang nghĩ đến việc phá thai cần được giúp đỡ để biết yêu thương, nghĩa là cho đến khi nó làm đau đớn các chương trình của cô ấy, hoặc thời gian rảnh rỗi của cô ấy, để tôn trọng sự sống của đứa con của mình. Cha của đứa trẻ đó, dù là ai, cũng phải trao hiến đến khi nó làm đau đớn.

“Khi phá thai, người mẹ không học cách yêu thương mà giết ngay cả chính đứa con của mình để giải quyết vấn đề của bản thân. Và khi phá thai, người cha được cho biết rằng anh ta không phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào đối với đứa con mà anh ta đã đưa vào thế giới. Người cha đó có thể sẽ tiếp tục đưa những người phụ nữ khác vào cùng một rắc rối. Vì vậy phá thai dẫn đến việc phá thai nhiều hơn. Bất kỳ quốc gia nào chấp nhận việc phá thai là không dạy người dân của họ biết yêu thương, nhưng là sử dụng mọi hình thức bạo lực để đạt được điều họ muốn. Đây là lý do tại sao kẻ hủy diệt lớn nhất của tình yêu thương và hòa bình là phá thai”.

Mẹ kết thúc bài phát biểu với những lời hy vọng, và một lời nhắc nhở rằng chúng ta được kêu gọi để sử dụng sự tự do của mình cho những mục đích cao cả hơn là việc giết người:

“Nếu chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta, và chúng ta có thể yêu thương người khác như Người yêu thương chúng ta, thì nước Mỹ có thể trở thành một dấu hiệu hòa bình cho thế giới. Từ nơi đây, một dấu hiệu của sự chăm sóc cho những sinh linh yếu đuối nhất — đứa trẻ chưa chào đời — đi vào thế giới. Nếu các bạn trở thành ánh đèn rực sáng của công lý và hòa bình trên thế giới, thì các bạn sẽ thực sự sống đúng với những gì mà những vị sáng lập của đất nước này đã thúc đẩy. Xin Chúa chúc lành cho các bạn!”

Quý vị xem video toàn bài phát biểu của Mẹ:





[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 9/9/2021]