Thứ Ba, 25 tháng 1, 2022

Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 56 của Đức Thánh Cha Phanxicô, 24.01.2022

Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 56 của Đức Thánh Cha Phanxicô, 24.01.2022

Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 56 của Đức Thánh Cha Phanxicô, 24.01.2022

*****

Sau đây là toàn văn Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 56 của Đức Thánh Thánh Phanxicô, sẽ được tổ chức ngày 29 tháng 5 năm 2022, với chủ đề: “Lắng nghe bằng con tim”:

___________________________________

Sứ điệp của Đức Thánh Cha

Lắng nghe bằng con tim

Anh chị em thân mến,

Năm ngoái, chúng ta đã suy tư về sự cần thiết của việc “Hãy đến và xem” để khám phá thực tế và có thể tường thuật lại nó bắt đầu từ những biến cố trải nghiệm và sự gặp gỡ mọi người. Tiếp tục với nguồn cảm hứng này, bây giờ tôi muốn hướng sự chú ý đến một từ khác, “lắng nghe”, là từ mang tính quyết định trong quy tắc ngôn ngữ truyền thông và là điều kiện để đối thoại chân thực.

Trên thực tế, chúng ta đang mất khả năng lắng nghe những người trước mặt, trong những mối tương quan hàng ngày và khi tranh luận về các vấn đề quan trọng nhất của đời sống dân sự. Đồng thời, lắng nghe đang trải qua một bước phát triển mới quan trọng trong lĩnh vực truyền thông và thông tin thông qua các bản tin ghi âm và thông điệp thu âm khác nhau có sẵn nhằm khẳng định rằng lắng nghe vẫn là điều cần thiết trong giao tiếp của con người.

Một bác sĩ đáng kính, thường chữa trị những vết thương tâm hồn, từng được hỏi rằng nhu cầu lớn nhất của con người là gì. Ông trả lời: “Khát khao vô bờ bến để được lắng nghe”. Một mong muốn thường bị che giấu, nhưng điều đó thách thức bất cứ ai được ơn gọi trở thành nhà giáo dục hoặc nhà đào tạo, hoặc những người thực hiện vai trò truyền thông: cha mẹ và các thầy cô giáo, các mục tử và nhân viên mục vụ, chuyên gia truyền thông và những người phục vụ xã hội hoặc chính trị .

Lắng nghe bằng con tim

Từ các trang Kinh thánh, chúng ta biết rằng lắng nghe không chỉ có nghĩa là tiếp nhận âm thanh, mà về bản chất được liên kết với mối tương quan đối thoại giữa Thiên Chúa và con người. “Shema’ Israel - Nghe đây, hỡi Israel” (Đnl 6:4), lời mở đầu của điều răn thứ nhất trong Ngũ kinh, liên tục được nhắc lại trong Kinh thánh, đến mức Thánh Phaolô khẳng định rằng “có đức tin là nhờ nghe giảng”. (xem Rm 10:17). Thật vậy, sáng kiến đó là của Thiên Chúa, Đấng nói chuyện với chúng ta và chúng ta đáp lại bằng cách lắng nghe Người. Sau cùng, sự lắng nghe này cũng xuất phát từ ân sủng của Người, như trường hợp của đứa trẻ sơ sinh đáp lại ánh mắt và giọng nói của mẹ hoặc cha mình. Trong năm giác quan, giác quan được Thiên Chúa ưu ái dường như là thính giác, có lẽ vì nó ít lấn át hơn, kín đáo hơn thị giác, và do đó để cho con người được tự do hơn.

Lắng nghe tương tự như phong cách khiêm nhường của Thiên Chúa. Đó là hành động cho phép Thiên Chúa mặc khải Người là Đấng, bằng cách nói, đã tạo ra người nam và người nữ theo hình ảnh của Người, và bằng cách lắng nghe, công nhận họ là người đối tác trong cuộc đối thoại của Người. Thiên Chúa yêu thương loài người: đó là lý do tại sao Người ngỏ lời với họ, và tại sao Người “nghiêng tai” để lắng nghe họ.

Ngược lại, con người có xu hướng trốn tránh mối tương quan, quay lưng lại và “bịt tai” để họ không phải lắng nghe. Việc từ chối lắng nghe thường dẫn đến thái độ hung hăng đối với người kia, như đã xảy ra với những người lắng nghe Phó tế Stêphanô, họ bịt tai lại, và nhất tề xông vào ông (xem Cv 7:57).

Vì vậy, một mặt, Thiên Chúa luôn luôn tỏ lộ chính mình bằng sự truyền đạt cách tự do; và mặt khác, con người phải chú ý, sẵn sàng lắng nghe. Thiên Chúa rõ ràng kêu gọi con người đến với giao ước tình yêu, để họ có thể trở thành chính con người của họ cách trọn vẹn: theo hình ảnh và giống Thiên Chúa trong khả năng lắng nghe, chào đón, nhường không gian cho người khác. Về cơ bản, lắng nghe là một chiều kích của tình yêu.

Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đánh giá chất lượng việc lắng nghe của họ. “Hãy để ý tới cách thức anh em nghe” (Lc 8:18): đây là điều Người dạy họ làm sau khi kể dụ ngôn người gieo giống, để mọi người hiểu rằng chỉ nghe thôi là chưa đủ, mà cần phải lắng nghe thật chăm chú. Chỉ những ai đón nhận Lời với tấm lòng “cao thượng và quảng đại” và trung thành tuân giữ thì mới sinh hoa kết quả là sự sống và ơn cứu độ (x. Lc 8:15). Chỉ bằng cách chú ý đến người mà chúng ta lắng nghe, những điều chúng ta lắng nghe và cách chúng ta lắng nghe, thì chúng ta mới có thể phát triển trong nghệ thuật giao tiếp, trọng tâm của nó không phải là một lý thuyết hay kỹ thuật, mà là “sự rộng mở tâm hồn làm cho sự gần gũi trở nên khả thi” (xem Tông huấn Evangelii Gaudium, 171).

Tất cả chúng ta đều có đôi tai, nhưng nhiều khi ngay cả những người có thính giác hoàn hảo cũng không thể nghe thấy người khác. Quả thật, có một căn bệnh điếc trong lòng còn tồi tệ hơn cả bệnh điếc thể chất. Thật vậy, việc lắng nghe liên quan đến toàn bộ con người, không chỉ là thính giác. Vị trí thật sự của sự lắng nghe là con tim. Dù còn rất trẻ, Vua Salomon đã chứng tỏ mình khôn ngoan vì ông xin Chúa ban cho ông một “tâm hồn biết lắng nghe” (xem 1 V 3:9). Thánh Augustinô đã từng khuyến khích chúng ta lắng nghe bằng con tim (corde audire), tiếp nhận những lời nói không phải bằng đôi tai ở bề ngoài, nhưng bằng tinh thần trong tâm hồn chúng ta: “Đừng đặt con tim trong tai, nhưng hãy đặt đôi tai trong con tim”. [1] Thánh Phanxicô Assisi đã khuyến khích anh em của ngài “hãy nghiêng đôi tai của tâm hồn [2]

Do đó, khi tìm kiếm sự truyền thông thật sự, hình thức lắng nghe cần được tái khám phá trước tiên là lắng nghe chính mình, lắng nghe những nhu cầu chân thật nhất của một người, những nhu cầu được ghi khắc trong hữu thể sâu thẳm của mỗi người. Và chúng ta chỉ có thể bắt đầu bằng cách lắng nghe những gì làm cho chúng ta trở nên độc nhất trong tạo vật: khát khao được ở trong mối tương quan với người khác. Chúng ta không được tạo dựng để sống như các nguyên tử, nhưng cùng với nhau.

Lắng nghe là một điều kiện của truyền thông tốt

Có một hình thức nghe nhưng không thật sự là lắng nghe, mà ngược lại: nghe lén. Thật vậy, nghe lén và dò xét, khai thác người khác cho lợi ích riêng của chúng ta, là một cám dỗ luôn tồn tại và ngày nay dường như đã trở nên gay gắt hơn trong thời đại của mạng xã hội. Đúng hơn, điều làm cho truyền thông trở nên tốt đẹp và hoàn toàn mang tính nhân văn là lắng nghe người đối diện với chúng ta, mặt đối mặt, lắng nghe người khác mà chúng ta tiếp cận với sự cởi mở công bằng, tự tin và trung thực.

Thật đáng buồn, việc thiếu sự lắng nghe mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống hàng ngày cũng thể hiện rõ trong đời sống công, nơi thay vì lắng nghe nhau, chúng ta thường “mạnh ai nấy nói.” Đây là một triệu chứng của thực tế rằng, thay vì tìm kiếm sự thật và điều tốt, người ta tìm kiếm sự đồng thuận; thay vì lắng nghe, người ta chú ý đến cử tọa. Ngược lại, truyền thông tốt không cố gắng gây ấn tượng với công chúng bằng một câu trích dẫn với mục đích chế giễu người kia, mà hãy chú ý đến lý do của người kia và cố gắng hiểu thấu được tính phức tạp của thực tế. Thật đáng buồn, ngay cả trong Giáo hội những liên kết về ý thức hệ được hình thành và sự lắng nghe biến mất, để lại sự chống đối phía sau.

Trên thực tế, trong nhiều cuộc đối thoại chúng ta không có một chút giao tiếp. Chúng ta chỉ đơn giản là đợi người kia nói xong để áp đặt quan điểm của mình. Trong những tình huống này, như nhà triết học Abraham Kaplan lưu ý, [3] đối thoại (dialogue) là một cuộc “song tấu” (duologue): một cuộc độc thoại bằng hai giọng nói. Tuy nhiên, trong giao tiếp thực sự, “tôi” và “bạn” đều “bước ra ngoài”, tiến đến với nhau.

Vì vậy, lắng nghe là thành phần đầu tiên không thể thiếu của đối thoại và truyền thông tốt. Truyền thông không thể diễn ra nếu sự lắng nghe không diễn ra, và sẽ không có báo chí tốt nếu không có khả năng lắng nghe. Để cung cấp thông tin chắc chắn, công bằng và đầy đủ, cần phải lắng nghe trong một thời gian dài. Để kể lại một biến cố hoặc mô tả trải nghiệm trong bản tin, điều cần thiết là phải biết cách lắng nghe, sẵn sàng thay đổi suy nghĩ của mình, để sửa đổi những giả định ban đầu của mình.

Chỉ bằng cách gạt bỏ những lời độc thoại sang một bên mới có thể đạt được sự hòa hợp của các tiếng nói bảo đảm cho truyền thông thật. Lắng nghe từ nhiều nguồn, “không dừng lại ở quán rượu đầu tiên” — như các chuyên gia trong lĩnh vực này dạy chúng ta — bảo đảm độ tin cậy và nghiêm túc của thông tin chúng ta truyền tải. Lắng nghe nhiều tiếng nói, lắng nghe lẫn nhau, ngay cả trong Giáo hội, giữa các anh chị em, cho phép chúng ta thực hành nghệ thuật phân định, nó luôn xuất hiện như khả năng định hướng bản thân trong một bản giao hưởng của các giọng.

Nhưng tại sao phải cố gắng lắng nghe? Một nhà ngoại giao lớn của Tòa thánh, Đức Hồng y Agostino Casaroli, đã từng nói đến việc cần phải có “sự tử đạo của lòng kiên nhẫn” để lắng nghe và được lắng nghe trong các cuộc đàm phán với các bên khó khăn nhất, để đạt được lợi ích lớn nhất có thể trong điều kiện tự do hạn chế. Nhưng ngay cả trong những tình huống ít khó khăn hơn, việc lắng nghe luôn đòi hỏi đức kiên nhẫn, cùng với khả năng cho phép bản thân ngạc nhiên trước sự thật, dù chỉ là một phần nhỏ của sự thật, nơi người mà chúng ta đang lắng nghe. Chỉ có sự ngạc nhiên mới mang lại kiến thức. Tôi nghĩ đến sự tò mò bất tận của đứa trẻ luôn nhìn thế giới xung quanh với đôi mắt mở to. Lắng nghe với trạng thái tâm trí này — sự kinh ngạc của một đứa trẻ trong nhận thức của người lớn — luôn luôn làm phong phú bởi vì sẽ luôn có một điều gì đó, dù là nhỏ, mà tôi có thể học hỏi từ người khác và cho phép đơm hoa kết trái trong cuộc sống của tôi.

Khả năng lắng nghe xã hội có giá trị hơn bao giờ hết tại thời điểm đang bị tổn thương bởi đại dịch kéo dài này. Quá nhiều sự nghi ngờ chồng chất trước đây đối với “thông tin chính thức” cũng đã gây ra một “bệnh dịch thông tin”, trong đó thế giới thông tin ngày càng phải đấu tranh để trở nên đáng tin cậy và minh bạch. Chúng ta cần phải chăm chú và lắng nghe cách sâu sắc, đặc biệt là đối với sự bất an xã hội tăng cao do sự suy thoái hoặc ngừng hoạt động của nhiều hoạt động kinh tế.

Thực tại của tình trạng di cư cưỡng bức cũng là một vấn đề phức tạp, và không ai có sẵn một đơn thuốc để giải quyết nó. Tôi xin nhắc lại rằng, để vượt qua những định kiến về người di cư và làm tan chảy sự chai đá của con tim chúng ta, chúng ta phải cố gắng lắng nghe những câu chuyện của họ. Hãy đặt cho họ mỗi người một tên gọi và một câu chuyện. Nhiều nhà báo giỏi đã làm điều này. Và nhiều người khác cũng muốn làm điều đó, nếu họ có thể. Chúng ta hãy khuyến khích họ! Chúng ta lắng nghe những câu chuyện này! Rồi mọi người sẽ tự do ủng hộ các chính sách di cư mà họ cho là phù hợp nhất đối với đất nước của họ. Nhưng trong mọi trường hợp, trước mắt chúng ta không phải là những con số, không phải những kẻ xâm lăng nguy hiểm, mà là những khuôn mặt và câu chuyện, những ánh mắt, những mong đợi và đau khổ của những con người thật để lắng nghe.

Lắng nghe trong Giáo hội

Trong Giáo Hội cũng vậy, rất cần lắng nghe và nghe lẫn nhau. Đó là món quà cuộc sống quý giá nhất mà chúng ta có thể dành cho nhau. “Người Kitô hữu đã quên rằng thừa tác vụ lắng nghe đã được giao cho họ bởi chính Người là Đấng lắng nghe vĩ đại và họ cần phải chia sẻ công việc của Người. Chúng ta phải lắng nghe bằng tai của Thiên Chúa để có thể nói lời của Chúa” [4]. Vì thế, nhà thần học Tin lành Dietrich Bonhoeffer nhắc nhở chúng ta rằng sự phục vụ đầu tiên mà chúng ta nợ người khác trong tình hiệp thông bao gồm việc lắng nghe họ. Ai không biết lắng nghe anh chị em mình thì chẳng bao lâu cũng sẽ không có khả năng lắng nghe Thiên Chúa. [5]

Nhiệm vụ quan trọng nhất trong hoạt động mục vụ là “hoạt động tông đồ của đôi tai” – lắng nghe trước khi nói, như Thánh Tông đồ Giacôbê dạy: “Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói” (1:19). Tự do dành một chút thời gian của riêng mình để lắng nghe người khác là hành động đầu tiên của đức ái.

Tiến trình thượng hội đồng vừa được bắt đầu. Chúng ta hãy cầu nguyện rằng đó sẽ là một cơ hội tuyệt vời để lắng nghe lẫn nhau. Thực ra, sự hiệp thông không phải là kết quả của các chiến lược và chương trình, nhưng được xây dựng trên sự lắng nghe lẫn nhau giữa các anh chị em. Như trong một ca đoàn, sự thống nhất không đòi hỏi sự đồng nhất, sự đơn điệu, mà là số đông và nhiều giọng khác nhau, sự đa âm. Đồng thời, mỗi giọng trong ca đoàn hát lên trong khi lắng nghe các giọng khác và dẫn đến sự hòa hợp của tổng thể. Sự hòa hợp này được hình thành bởi người sáng tác, nhưng việc thực hiện nó phụ thuộc vào sự hòa âm của từng giọng hát.

Với ý thức rằng chúng ta thông phần vào sự hiệp thông đi trước và bao gồm chúng ta, chúng ta có thể tái khám phá một Giáo hội hòa hợp, trong đó mỗi người có thể hát bằng chính giọng hát của mình, đón nhận giọng hát của người khác như một món quà để biểu lộ sự hòa hợp của tổng thể mà Chúa Thánh Thần tạo nên.

Roma, Đền thánh Gioan Lateran, 24 tháng Một, 2022, Lễ Kính Thánh Phanxicô de Sales.

Phanxicô

___________________________________________

[1] “ Nolite habere cor in auribus, sed aures in corde” ( Sermo 380, 1: Nuova Biblioteca Agostiniana 34, 568).

[2] “Lettera a tutto l’Ordine”: Fonti Francescane, 216.

[3] Cf. “The life of dialogue”, in J.D. Roslansky, ed., Communication. A discussion at the Nobel Conference, North-Holland Publishing Company, Amsterdam, 1969, pp. 89-198.

[4] D. Bonhoeffer, La vita comune, Queriniana, Brescia 2017, 76.

[5] Cf. ibid., 75.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/1/2022]


Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa


Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

I, Producer | CC BY-SA 3.0

Jordan Tourism Board N.A.

15/01/22


Trên bờ phía đông của sông Gio-đan, chỉ cách Biển Chết 9 km về phía bắc, người ta tìm thấy vị trí Chúa Giêsu chịu phép rửa.

Al-Maghtas (có nghĩa là “dìm mình” và nói rộng ra là “phép rửa” trong tiếng Ả Rập) là tên được đặt cho nơi kể từ thời kỳ Byzantine đã được coi là địa điểm chịu phép rửa của Chúa Giêsu. Đây cũng là khu vực Thánh Gioan Tẩy Giả đã sống và thi hành sứ vụ, và là nơi truyền thống cho rằng Tiên tri Êlia được đưa về trời. Al-Maghtas, còn được gọi là Bethany-Beyond-the-Jordan, rõ ràng là có bề dày kéo dài hàng ngàn năm liên quan đến Kinh thánh, truyền thống và lịch sử. Do đó, nó là thánh địa cho tất cả các tôn giáo của tổ phụ Abraham — và cho những người Kitô giáo nói riêng.

Nằm trên bờ phía đông của sông Gio-đan, chỉ cách Biển Chết 9 km về phía bắc, địa điểm này bao gồm hai vùng rộng lớn. Một là Jabar Mar-Elias, “Đồi Êlia”. Đây là nơi truyền thống cho rằng tiên tri Êlia đã được cất lên trời vào thế kỷ thứ 9 trước Chúa Giáng sinh. Sách thánh nói rằng tiên tri Êlia sẽ trở lại trước khi đấng Cứu thế đến, vì vậy khi Gioan Tẩy giả bắt đầu làm phép rửa cho người dân trong vùng, dân làng đến để hỏi xem ông có phải là đấng Cứu thế hay không. Một trong nhiều hang động gần địa điểm làm phép rửa được cho là nơi Thánh Gioan Tẩy giả đã sống. Một tu viện được xây dựng quanh địa điểm đó vào thế kỷ thứ 5, tu viện đầu tiên trên bờ phía đông của con sông.

Khu vực còn lại chính là địa điểm của phép rửa, nơi chúng ta tìm thấy nhà thờ Thánh Gioan Tẩy giả gần với con sông hơn. Đây là nơi các nhà khảo cổ tìm thấy di tích của một nhà thờ và tu viện lớn thời Byzantine, được xây dựng dưới triều đại Hoàng đế Anastasius (491-518). Theo các nguồn tư liệu lịch sử, nhà thờ từng được coi là nhà thờ kính nhớ Thánh Gioan Tẩy giả đáng chú ý nhất ở bên này sông. Các chứng thực trong đó có chứng thực của Thánh Theodosius the Cenobiarch (một tu sĩ, tu viện trưởng và vị thánh thời kỳ đầu) viết rằng:

“Cách Biển Chết 5 dặm về phía bắc tại nơi Chúa chịu phép rửa có một cây cột trụ và trên cột có gắn một cây thánh giá bằng sắt, còn có nhà thờ Thánh Gioan Tẩy giả do Hoàng đế Anastasius xây dựng”.

Mặc dù cây cột đánh dấu địa điểm này vẫn chưa được phát hiện, nhưng các di tích khảo cổ và kiến trúc phù hợp với miêu tả của Thánh Theodosius.

Chúa Giêsu chịu phép rửa là một trong những chủ đề được lặp đi lặp lại trong nghệ thuật Kitô giáo. Khó có thể tìm thấy một bậc thầy vĩ đại chưa từng miêu tả chủ đề đó, tất cả đều cố gắng tái tạo lại hầu hết các đặc điểm được tìm thấy trong bối cảnh Kinh thánh: khi Thánh Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu ở sông Giođan, bầu trời mở ra và Chúa Thánh Thần, dưới hình chim bồ câu, bay là là trên mặt nước, nhắc đến sự Tạo dựng trời đất vạn vật và Đại hồng thủy. Nước rửa tội của con sông tượng trưng cho sự hỗn loạn và một vũ trụ mới, cái chết của tội lỗi và tái sinh sự sống mới. Tại Al-Maghtas, tất cả hình ảnh trong đoạn Kinh thánh này đều trở nên sống động. Nhưng làm sao chúng ta biết đây đúng là địa điểm đó?

Truyền thống, và bản đồ Madaba nổi tiếng, có câu trả lời.


Tìm địa điểm của phép rửa

Cách thủ đô Amman của Jordan nửa giờ về phía nam, chúng ta tiến đến Madaba. Thành phố này là quê hương của cộng đoàn Kitô giáo lớn nhất cả nước, nói theo tỷ lệ: cả người Công giáo và Chính thống giáo Hy Lạp cộng lại chiếm khoảng 10% tổng dân số của thành phố. Thành phố từng nằm trên biên giới của đế quốc Moab, nhưng dưới thời cai trị của người La Mã (và sau đó là Byzantine), nó thuộc về Tỉnh Ả Rập rộng lớn, do hoàng đế Trajan thành lập để thay thế Vương quốc Nabatean. Cộng đồng Kitô giáo được thành lập trong những thế kỷ đó, từ thế kỷ thứ 2 đến thứ 7. Thật vậy, người ta đã tìm thấy “Medaba” được đề cập như một tòa giám mục sớm nhất trong các điều khoản của Công đồng Chalcedon vào thế kỷ thứ 5.

Nhà thờ Thánh George của Chính thống giáo Hy Lạp ở Madaba, Jordan, là nơi có những ảnh thánh đẹp nhất trong khu vực. Nhưng nó cũng là nơi sở hữu Bản đồ Madaba nổi tiếng, một bức tranh khảm trên sàn nhà có niên đại vào thế kỷ thứ 6. Đây là bức vẽ bản đồ lâu đời nhất về Đất Thánh được lưu giữ cho đến ngày nay. Nó bao phủ hầu như toàn khu vực, từ Li Băng đến đồng bằng sông Nile, từ Bắc xuống Nam, và từ Địa Trung Hải đến Sa mạc phía Đông, từ Tây sang Đông. Trong đó thể hiện hơn 150 thị trấn, làng mạc, thành quách và địa điểm tham quan, kể cả một số biểu tượng thú vị. Các học giả đã khám phá ra một trong những biểu tượng đó là địa điểm rửa tội.

Bản đồ này cho thấy hai con cá bơi đối diện nhau. Một con dường như đang bơi, trong sông Giođan, trở về từ phía Biển Chết, trong khi con cá kia đang bơi tiến về phía Biển Chết. Chúng ta đều biết rằng cá không thể sống sót trong Biển Chết (nó không được gọi là “Biển Chết” cách vô cớ). Hầu hết các nhà sử học và khảo cổ giải thích rằng đây là tượng trưng cho điểm gặp gỡ của người Kitô giáo (con cá tượng trưng cho Chúa Kitô trong nghệ thuật Kitô giáo thời kỳ đầu). Hai con cá trong bản đồ gặp nhau tại chính nơi diễn ra phép rửa của Chúa Giêsu: Al-Maghtas.

Độc giả xem loạt ảnh để khám phá 10 địa điểm hành hương cổ đại mà bạn có thể đến thăm ở Jordan.


Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

1. Madaba

Lái xe trên đường King’s Highway nửa giờ về phía nam của thủ đô Amman, chúng ta đến thành phố Madaba, ngày nay là quê hương của khoảng 60.000 người. Thành phố này, từng thuộc về người Moab, người Nabateans, người La Mã, Byzantine, Rashidun và Umayyad trong suốt lịch sử, hiện là nơi sinh sống của cộng đồng Kitô giáo lớn nhất ở Jordan, nói theo tỷ lệ. Nhà thờ Thánh George của Chính thống giáo Hy Lạp ở Madaba, Jordan, không chỉ là nơi có một số ảnh thánh đẹp nhất trong khu vực. Nhà thờ cũng sở hữu Bản đồ Madaba, một bức tranh khảm trên sàn nhà tinh xảo có từ thế kỷ thứ 6, là bức vẽ bản đồ lâu đời nhất về Đất Thánh được bảo tồn cho đến ngày nay.

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

2. Tel Mar Elias, nơi sinh của tiên tri Êlia

Tel Mar Elias, nơi sinh của Tiên tri Êlia, nằm ở Bắc Jordan, trong vùng Gilead trong Kinh thánh. Gần di tích Listib lịch sử (được gọi là Tít-be trong sách Các Vua 1 17: 1), hai nhà thờ Byzantine được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 6, và người ta vẫn có thể nhìn thấy một số tranh khảm còn lại. Tại đây, những người hành hương của ba tôn giáo thuộc tổ phụ Abraham buộc những dải ruy băng đỏ vào một cây sồi, bày tỏ sự tôn kính đối với vị ngôn sứ.

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

3. Bờ Biển Chết thuộc Jordan

Một trong những nét đặc biệt thú vị nhất của Bản đồ Madaba là hình ảnh cho thấy hai con cá bơi đối diện nhau. Một con dường như đang bơi, trong sông Giođan, trở vềtừ phía Biển Chết, trong khi con cá kia đang tiến về phía Biển Chết. Chúng ta đều biết rằng cá không thể sống sót trong Biển Chết. Nó không được gọi là “Biển Chết” cách vô cớ. Hầu hết các nhà sử học và khảo cổ giải thích rằng đây là tượng trưng cho điểm gặp gỡ của người Kitô giáo. Ngày nay, người thuộc mọi tín ngưỡng ở lại vài ngày thư giãn trong nhiều spa và khu nghỉ dưỡng nằm bên bờ biển.

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

4. Sa mạc Wadi Rum

Trước thời kỳ cai trị của Nhà Rashidun, sa mạc Wadi Rum ban đầu thuộc về vương quốc Nabatean, sau đó thuộc về đế quốc La Mã và cuối cùng là của người Byzantine. Rõ ràng, tên gọi hiện nay của nó có từ thời kỳ cuối cùng này: cư dân của sa mạc — chủ yếu là các bộ lạc Bedouin thờ cúng các vị thần của La Mã hoặc đã trở thành người Kitô giáo — đề cập đến các cộng đồng ẩn tu và khổ tu Kitô giáo được thành lập trong khu vực “Rum,” có nghĩa là “người Roma”, một từ ngữ áp dụng cho những người thuộc Đế quốc Đông La Mã (tức là người Byzantine) và người Hy Lạp.

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

5. Biển Đỏ

Trong khi truyền thống cho rằng ông Môsê tiến vào Jodan qua Biển Đỏ ở phía nam, và lên đường về phía bắc đến Núi Nebo, điều mà ông Môsê và anh trai Aaron của ông chẳng bao giờ mơ ước là được đi lặn biển ở Biển Đỏ, và bây giờ là một trong những lý do chính khiến du khách đổ xô đến phía nam thành phố Aqaba. Những rặng san hô tuyệt đẹp đang chờ đợi những ai lao xuống độ sâu của nó, thay vì vượt qua biển.

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

6. Đường mòn Jordan

Được chính thức ra mắt vào tháng Tư năm 2017, con đường mòn này chạy qua các tuyến đường trong Kinh thánh cổ xưa, gần như huyền thoại, cũng như tuyến đường mà người La Mã sử dụng để đi suốt con đường từ phía bắc màu mỡ của Jordan đến phía nam, bắt đầu từ Garada (Um Qais) và qua thành phố Jerash đầy ấn tượng của người La Mã, đến thành phố cảng Aqaba giàu có, ngay bên Biển Đỏ. Kéo dài 400 dặm, Đường mòn Jordan đi qua 52 ngôi làng, bốn loại cảnh quan khác nhau (từ sa mạc cát đỏ lạnh giá đến thung lũng xanh màu mỡ với các dòng nước nóng), và một số tuyến đường hành hương và thương mại cổ đại.

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

7. Petra.

Trái ngược với những gì nhiều người có thể giả định, Petra thực sự là một địa điểm trong Kinh thánh. Tuy nhiên, thành cổ Nabatean không được nhắc đến trong Kinh thánh bằng cái tên đó; đúng hơn nó được gọi bằng tên Sela (Xe-la) theo tiếng Do Thái, trong Isaia 16: 1 và 2 Các Vua 14: 7. Cả hai tên, Petra và Sela, đều có nghĩa là “đá”, rõ ràng chỉ về thực tế phần lớn ngôi thành đáng kinh ngạc này được đục đẽo vào các vách đá sa thạch. Một trong những vách đá này, Jabal Harun, được cho là mộ của ông Aaron. Theo truyền thống Kinh thánh, Petra ở trong vùng đất của người Ê-đôm, hậu duệ của Ê-sau là con trai của Isaac. Hơn 150 sách giấy cói (papyrus) từng được tìm thấy trong Nhà thờ Byzantine nổi tiếng của Petra, được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ 2. Bị hỏa hoạn phá hủy vào thế kỷ thứ 7, những di tích của ngôi nhà thờ vẫn còn rất ấn tượng.

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

8. Địa điểm của phép rửa

Được biết đến với cái tên Al-Maghtas (có nghĩa là “dìm mình” và nói rộng ra là “phép rửa” trong tiếng Ả Rập), địa điểm này từ thời Byzantine đã được coi là địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa, khu vực Thánh Gioan Tẩy giả đã sống và thừa tác vụ, và cũng là nơi Tiên tri Êlia được cất lên trời. Nằm trên bờ đông của sông Gio-đan, cách Biển Chết 9 km về phía bắc, địa điểm khảo cổ này bao gồm hai khu vực: Jabal Mar-Elias (Đồi Êlia) và khu vực nhà thờ Thánh Gioan Tẩy giả ở gần sông. Trong cả hai địa điểm, nhiều di tích của người La Mã và Byzantine được tìm thấy, bao gồm nhà thờ, nhà nguyện và các hang động mà các nhà ẩn tu từng sống.

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

9. Jabal Al-Qal’a, “The Citadel.”

Là một di tích lịch sử ở trung tâm thủ đô của quốc gia, The Citadel tọa lạc trên đỉnh một trong bảy ngọn đồi tạo nên thành phố. Đây là một trong những nơi có người sinh sống liên tục lâu đời nhất trên thế giới: có bằng chứng về con người sống ở đó từ thời kỳ đồ đá mới. Ngọn đồi sau đó trở thành thủ đô của vương quốc Ammon trong Kinh thánh, và sau đó bị chiếm đóng bởi người Babylon, người Ptolemies, người Seleukos, người La Mã, người Byzantine và người Ummayad. Ngày nay, du khách vẫn có thể tham quan những di tích còn lại của ngôi đền Hercules của La Mã chưa hoàn thiện, nhà thờ Byzantine và Cung điện Ummayad.

Khám phá lại địa điểm Chúa Giêsu chịu phép rửa

10. Machaerus

Ở phía đông Biển Chết, và cách cửa sông Jordan khoảng 16 dặm về phía đông nam, chúng ta tìm thấy đỉnh đồi nơi từng có cung điện kiên cố Mukawir (“Maxairous” trong tiếng Hy Lạp; “Machaerus” trong tiếng Latinh). Chỉ còn lại một vài cột đá cẩm thạch và những bức tường đá, nhưng từ trên đỉnh đồi, người ta có thể nhìn thấy nhiều hang động nhỏ nơi các nhà ẩn sĩ, ẩn tu, và các tu sĩ đã đục đẽo vào đá sa thạch để sống cuộc đời cầu nguyện trong khu vực gần với địa điểm Thánh Gioan Tẩy giả bị chặt đầu, theo nhà sử học Flavius Josephus.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 22/1/2022]