Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada – Kinh chiều với các giám mục, linh mục, phó tế, người tận hiến, các chủng sinh và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Đức Bà Québec, 28.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada – Kinh chiều với các giám mục, linh mục, phó tế, người tận hiến, các chủng sinh và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Đức Bà Québec, 28.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada – Kinh chiều với các giám mục, linh mục, phó tế, người tận hiến, các chủng sinh và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Đức Bà Québec, 28.07.2022

*******

Chiều nay, Đức Thánh Cha Phanxicô rời Tòa Tổng Giám mục và di chuyển bằng xe hơi đến Nhà thờ Chánh tòa Đức Bà Québec (Notre-Dame de Québec). Tại đây ngài chủ tế giờ Kinh Chiều với các giám mục, linh mục, người tận hiến, các chủng sinh, và nhân viên mục vụ lúc 17g15 (23.15 giờ Roma).

Khi đến nơi, ngài được Đức Hồng y Gérald Cyprien Lacroix, Tổng giám mục Québec, và Đức cha Raymond Poisson, chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Canada, đón rước. Sau đó, các ngài tiến vào nhà thờ chánh tòa trong tiếng ca của một bài thánh ca.

Sau lời chào ngắn gọn của ngài chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Canada là cử hành giờ Kinh chiều. Sau đó, Đức Giáo Hoàng có bài giảng.

Cuối cùng, Đức Hồng Y Gérald Cyprien Lacroix, tổng giám mục Québec, đã tháp tùng Đức Thánh Cha Phanxicô đến mộ Thánh François de Laval, nơi các ngài dừng lại cầu nguyện trong thinh lặng. Các thánh tích của nhiều vị thánh Canada cũng được trưng bày.

Sau đó Đức Thánh Cha trở về tòa tổng giám mục bằng xe hơi, và ngài dùng bữa tối riêng.

Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha trong giờ cử hành Kinh Chiều:

______________________________________

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Thưa các huynh đệ Giám mục, thưa các linh mục và phó tế, anh chị em tận hiến, các chủng sinh và nhân viên mục vụ, xin chào buổi tối!

Tôi xin cảm ơn Đức cha Poisson vì những lời chào mừng của ngài và tôi xin chào tất cả anh chị em, đặc biệt là những anh chị em đã phải đi một chặng đường dài để đến đây. Khoảng cách ở trong đất nước của anh chị em quả thật rất lớn! Cảm ơn anh chị em! Tôi thật hạnh phúc khi được ở đây với anh chị em!

Thật ý nghĩa khi chúng ta ở trong Vương cung Thánh đường Đức Bà Québec, Nhà thờ Chánh tòa đặc biệt này và là tòa Giám mục đầu tiên của Canada, với vị Giám mục tiên khởi là Thánh François de Laval, đã mở Chủng viện vào năm 1663 và cống hiến trọn vẹn thừa tác vụ của ngài cho việc đào tạo linh mục. Bài đọc ngắn mà chúng ta đã nghe nói với chúng ta về “các kỳ mục”, tức là những thầy tư tế. Thánh Phêrô thúc giục chúng ta: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ” (1 Pr 5:2). Là Dân tộc của Chúa quy tụ tại đây, chúng ta hãy nhớ rằng Chúa Giêsu là vị Mục Tử của cuộc đời chúng ta, là Đấng chăm sóc chúng ta vì Ngài thực sự yêu thương chúng ta. Là những mục tử của Giáo hội, chúng ta được yêu cầu thể hiện sự quảng đại đó qua việc chăm sóc đoàn chiên, để biểu lộ sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với mọi người và lòng trắc ẩn của Ngài đối với vết thương của mỗi người.

Chính vì chúng ta là dấu chỉ của Đức Kitô, Thánh Phêrô Tông đồ thúc giục chúng ta chăm sóc cho đoàn chiên, dẫn dắt đoàn chiên, đừng để đoàn chiên lạc lối trong khi chúng ta bận rộn lo việc riêng. Chăm sóc đoàn chiên bằng sự tận tâm và tình yêu thương dịu dàng. Thánh Phêrô bảo chúng ta làm điều này vì “lòng nhiệt thành tận tụy”, không vì bắt buộc, không phải là nhiệm vụ, không phải là những nhân viên tôn giáo “hành nghề”, những công chức thiêng liêng, nhưng nhiệt thành và với tấm lòng của một người mục tử. Nếu chúng ta nhìn vào Đức Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, trước khi nhìn vào chính mình, chúng ta sẽ khám phá ra rằng chính chúng ta được “chăm sóc” bằng tình yêu thương xót; chúng ta sẽ cảm nhận được sự gần gũi của Chúa. Đây là nguồn mạch niềm vui của thừa tác vụ và trên hết là niềm vui của đức tin. Nó không phải là tất cả những gì chúng ta có thể hoàn thành, nhưng biết được rằng Thiên Chúa luôn ở gần chúng ta, rằng Người đã yêu thương chúng ta trước và Người luôn đồng hành với chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta.

Thưa anh chị em, đây là niềm vui của chúng ta. Nó không phải là một niềm vui rẻ tiền, giống như niềm vui mà thế gian có lúc đề xuất, làm lóa mắt chúng ta bằng pháo hoa. Niềm vui này không phải là về sự giàu có, tiện nghi hay sự an toàn. Nó thậm chí không cố gắng thuyết phục chúng ta rằng cuộc sống sẽ luôn tốt đẹp, không có thập giá và các vấn đề. Niềm vui của người Kitô hữu là kinh nghiệm của sự bình an trong tâm hồn chúng ta, ngay cả khi chúng ta đang bị những thử thách và đau khổ tấn công, vì khi đó chúng ta biết rằng chúng ta không đơn độc, nhưng được Thiên Chúa đồng hành, là Đấng không thờ ơ với phận đời của chúng ta. Khi biển động: giông bão luôn cuồn cuộn trên mặt nhưng dưới tầng biển sâu vẫn êm đềm và bình yên. Niềm vui của người Kitô hữu cũng như vậy: nó là một món quà nhưng không, biết chắc rằng chúng ta được Chúa Kitô yêu thương, nâng đỡ và đón nhận trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Bởi vì Ngài là Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự ích kỷ và tội lỗi, khỏi nỗi buồn cô đơn, khỏi nỗi trống vắng và sợ hãi trong lòng, và cho chúng ta một cái nhìn mới về cuộc sống và lịch sử: “Với Đức Kitô, niềm vui luôn được tái sinh” (Tông huấn Evangelii Gaudium, 1).

Vì vậy, chúng ta hãy tự hỏi mình câu này: Chúng ta đang làm như thế nào để có được niềm vui? Giáo hội của chúng ta có bày tỏ niềm vui của Tin Mừng không? Trong các cộng đoàn của chúng ta có niềm tin có thể tạo sự cuốn hút bởi niềm vui mà nó chuyển tải không?

Nếu muốn đi vào gốc rễ của những câu hỏi này, chúng ta cần suy ngẫm về những gì đang đe dọa niềm vui của đức tin trong thế giới hôm nay, và từ đó có nguy cơ làm sa sút niềm tin và ảnh hưởng đến đời sống người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta có thể nghĩ ngay đến sự tục hóa, nó ảnh hưởng rất nhiều đến lối sống của con người đương thời, đẩy Thiên Chúa vào hậu trường. Dường như Thiên Chúa đã biến khỏi chân trời, và Lời của Ngài dường như không còn là chiếc la bàn hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, những quyết định cơ bản của chúng ta, các mối quan hệ con người và xã hội của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta cần phải rõ ràng về một điều. Khi chúng ta xét đến nền văn hóa xung quanh, và sự đa dạng của các ngôn ngữ và biểu tượng của nó, chúng ta phải cẩn thận để không trở thành con mồi của chủ nghĩa yếm thế hoặc phẫn uất, chuyển ngay sang những phán xét tiêu cực hoặc sự hoài niệm viển vông. Chúng ta có thể có hai cách nhìn đối với thế giới mà chúng ta đang sống: tôi gọi một cách nhìn là “cách nhìn tiêu cực”, và cách nhìn kia là “cách nhìn phân định”.

Trước hết là cách nhìn tiêu cực, thường xuất phát từ một niềm tin cảm thấy bị tấn công và coi đó như một loại “áo giáp” bảo vệ chúng ta trước thế giới. Cách nhìn này cay đắng phàn nàn rằng “thế giới là xấu xa; tội lỗi đang ngự trị”, và từ đó có nguy cơ khoác lên cho mình một “tinh thần thập tự chinh”. Chúng ta phải cẩn thận, bởi vì đây không phải là Kitô giáo; quả thật đó không phải là đường lối của Thiên Chúa, – như Tin Mừng đã nhắc nhở chúng ta – là Đấng “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Thiên Chúa ghê tởm tính thế gian và có cái nhìn tích cực về thế gian. Ngài chúc phúc cho cuộc sống của chúng ta, nói tốt về chúng ta và hoàn cảnh của chúng ta, và nhập thể vào hoàn cảnh lịch sử, không phải để lên án, nhưng làm cho hạt giống Nước Trời phát triển ở những nơi mà bóng tối dường như chiến thắng. Tuy nhiên, nếu chúng ta bị giới hạn trong cách nhìn tiêu cực, thì cuối cùng chúng ta sẽ phủ nhận sự nhập thế: chúng ta sẽ trốn chạy khỏi thực tại, thay vì làm cho nó nhập thể trong chúng ta. Chúng ta sẽ tự thu mình lại, than thở về những mất mát của mình, không ngừng kêu ca phàn nàn và rơi vào sự u ám và bi quan, đây là điều không bao giờ đến từ Thiên Chúa. Thay vì vậy, chúng ta được kêu gọi có cái nhìn giống như cái nhìn của Chúa, Đấng phân biệt điều gì là tốt và kiên trì tìm kiếm nó, nhìn thấy nó và nuôi dưỡng nó. Đây không phải là một cái nhìn ngây thơ, mà là một cái nhìn phân định thực tế.

Để thanh luyện sự phân định của chúng ta về thế giới tục hóa, chúng ta hãy lấy cảm hứng từ những lời của Thánh Phaolô VI viết trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi, một Tông huấn vẫn còn rất phù hợp cho ngày nay. Ngài hiểu sự thế tục là “một cố gắng tự nó là đứng đắn và chính đáng không hề nghịch với đức tin và đạo lý” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi, 55) để khám phá các quy luật chi phối thực tại và cuộc sống con người do Đấng Tạo Hóa ghi khắc. Thiên Chúa không muốn chúng ta là những nô lệ, nhưng trở thành những người con; Người không muốn đưa ra quyết định cho chúng ta, hoặc áp chế chúng ta bằng một quyền lực thiêng liêng, thực thi trong một thế giới được điều hành bởi các luật lệ tôn giáo. Không! Người tạo dựng nên chúng ta để được tự do, và Ngài muốn chúng ta trở thành những con người trưởng thành và có trách nhiệm trong cuộc sống cũng như trong xã hội. Thánh Phaolô VI đã phân biệt tính thế tục với chủ nghĩa tục hóa, một quan niệm sống hoàn toàn tách rời sự liên kết với Đấng Tạo dựng, để Thiên Chúa trở nên “thừa và là sự phiền toái”, và tạo ra “những hình thức vô thần mới” tinh tế và đa dạng: “một nền văn minh tiêu thụ, nâng chủ nghĩa khoái lạc lên thành giá trị tối thượng, một ý muốn tham quyền thống trị, những kỳ thị đủ loại” (sđd). Trong vai trò là Giáo hội, và trên hết là những người mục tử của Dân Chúa, là những người tận hiến, chủng sinh và những người làm công tác mục vụ, chúng ta phải thực hiện những phân biệt này, thực hiện sự phân định này. Nếu chúng ta đầu hàng cái nhìn tiêu cực và đánh giá vấn đề một cách hời hợt, chúng ta có nguy cơ gửi đi một thông điệp sai lầm, như thể sự chỉ trích tính thế tục của chúng ta là để khỏa lấp cho sự hoài niệm về một thế giới thánh hóa, một xã hội đã qua, trong đó Giáo hội và các thừa tác viên của Giáo hội có quyền bính và ảnh hưởng xã hội lớn hơn. Và đây là một cách nhìn nhận sai lầm.

Thay vào đó, như một trong những học giả lớn của thời đại chúng ta đã nhận xét, vấn đề thực sự của tính thế tục đối với người Kitô hữu chúng ta không phải là sự ảnh hưởng xã hội của Giáo hội bị giảm đi hay mất mát của cải vật chất và các đặc quyền. Đúng hơn, tính thế tục đòi hỏi chúng ta phải suy tư về những thay đổi trong xã hội đã ảnh hưởng đến cách con người suy nghĩ và tổ chức cuộc sống của họ. Nếu chúng ta xem xét khía cạnh này của vấn đề, chúng ta nhận ra rằng điều đang gặp khủng hoảng không phải là đức tin, mà là một số hình thức và cách thức chúng ta trình bày nó. Do đó, tính thế tục trình bày một thách đố cho khả năng sáng tạo mục vụ của chúng ta, nó là “một cơ hội để tái cấu trúc đời sống tinh thần theo những hình thức mới và cho những lối sống mới” (C. Taylor, A Secular Age, Cambridge 2007, 437). Theo cách này, trong khi thừa nhận những khó khăn mà chúng ta đang phải đối mặt trong việc truyền đạt niềm vui của đức tin, một cái nhìn phân định thúc đẩy chúng ta, đồng thời phát triển lòng nhiệt thành rao truyền tin mừng mới, tìm kiếm những ngôn ngữ và hình thức diễn đạt mới, để thay đổi những ưu tiên mục vụ và tập trung vào các yếu tố trọng yếu.

Anh chị em thân mến, Tin Mừng cần được công bố nếu chúng ta muốn thông truyền niềm vui đức tin cho con người ngày nay. Tuy nhiên, sự công bố này không thuần túy là lời nói, mà là chứng tá đầy tình yêu thương nhưng không, vì đó là cách của Thiên Chúa đối với chúng ta. Một sự công bố phải được định hình trong lối sống của các cá nhân và hội thánh có thể khơi dậy lòng khao khát Chúa, nuôi dưỡng hy vọng và thể hiện sự tín thác và tính khả tín. Ở đây, trong tinh thần huynh đệ, cho phép tôi gợi lên ba thách đố có thể định hình việc cầu nguyện và phục vụ mục vụ của anh chị em.

Thách đố đầu tiên là làm cho Chúa Giêsu được biết đến. Trong những sa mạc thiêng liêng của thời đại chúng ta, được tạo ra bởi sự tục hóa và thờ ơ, chúng ta cần trở lại cách loan báo ban đầu. Tôi xin nhắc lại: cần phải trở lại cách loan báo ban đầu. Chúng ta không thể cứ thông đạt niềm vui của đức tin bằng cách trình bày những khía cạnh thứ yếu cho những người chưa đón nhận Chúa trong đời sống của họ, hoặc bằng cách đơn giản là lặp lại những cách thực hành hoặc sao chép những hình thức cũ của công tác mục vụ. Chúng ta phải tìm ra những cách thức mới để loan báo trọng tâm của Tin Mừng cho những người chưa gặp gỡ Đức Kitô. Điều này đòi hỏi tính sáng tạo mục vụ có khả năng tiếp cận với mọi người ở nơi họ đang sống – không phải đợi họ tìm đến – tìm cơ hội để lắng nghe, đối thoại và gặp gỡ. Chúng ta cần trở lại với sự đơn sơ và nhiệt thành của Tông đồ Công vụ, với nét đẹp khi nhận ra rằng chúng ta là những khí cụ sinh hoa trái của Thần Khí ngày nay. Chúng ta cần trở về Galilê. Có một cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa Giêsu Phục Sinh: việc trở lại Galilê – xin anh chị em cho phép tôi sử dụng cách diễn đạt này – là bắt đầu lại sau vấp ngã. Mỗi người chúng ta đều có “Galilê” của riêng mình, là nơi công bố ban đầu. Chúng ta cần khám phá lại ký ức này.

Tuy nhiên, để loan báo Tin Mừng, chúng ta cũng phải trở nên khả tín. Đây là thách đố thứ hai: làm chứng. Tin Mừng được rao giảng một cách hữu hiệu khi chính cuộc sống nói lên và vén mở sự tự do giải phóng cho người khác, lòng trắc ẩn không đòi được đền đáp, lòng thương xót âm thầm giới thiệu Đức Kitô. Giáo hội Canada đã đi trên một con đường mới, sau khi bị tổn thương và tàn phá bởi sự dữ do một số con cái gây ra. Tôi đặc biệt nghĩ đến sự lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương, những vụ bê bối đòi hỏi hành động kiên quyết và cam kết vững chắc. Cùng với anh chị em, một lần nữa tôi muốn xin tất cả các nạn nhân tha thứ. Nỗi đau đớn và sự xấu hổ mà chúng ta cảm nhận phải trở thành một cơ hội để sám hối: không bao giờ tái phạm! Và suy nghĩ về tiến trình hàn gắn và hòa giải với các anh chị em bản xứ của chúng ta, cộng đồng Kitô giáo không bao giờ cho phép mình một lần nữa bị lây nhiễm với tư tưởng cho rằng nền văn hóa này vượt trội hơn các nền văn hóa khác, hoặc áp dụng những cách ép buộc người khác là hợp pháp. Chúng ta hãy khôi phục lại lòng nhiệt thành truyền giáo của vị Giám mục tiên khởi của anh chị em là Thánh François de Laval, người đã mạnh mẽ lên án những kẻ hạ nhục người dân bản địa bằng cách chuốc rượu mạnh cho họ để sau đó lừa gạt họ. Chúng ta không cho phép bất kỳ hệ tư tưởng nào chia cách hoặc làm sai lệch các phong tục và lối sống của các dân tộc chúng ta, như một cách để khuất phục hoặc kiểm soát họ. Những tiến bộ của nhân loại cần phải được hòa lẫn vào bản sắc văn hóa của họ bằng những điểm then chốt của văn hóa.

Để đánh bại văn hóa loại trừ này, chúng ta phải bắt đầu từ chính bản thân chúng ta: các giám mục và linh mục không nên cảm thấy mình cao hơn anh chị em của chúng ta trong Dân Chúa; những anh chị em tận hiến nên sống tình huynh đệ và tự do qua sự vâng phục trong cộng đồng; các chủng sinh cần phải sẵn sàng trở thành những người phục vụ nhu mì và dễ tiếp cận; những nhân viên mục vụ không nên hiểu sự phục vụ là quyền lực. Đây là điểm chúng ta phải bắt đầu. Anh chị em là những nhân vật then chốt và là những người xây dựng nên một Giáo hội khác: khiêm nhường, hiền lành, nhân hậu, đồng hành với các tiến trình, là những người lao công kiên định và thanh thản phục vụ sự hội nhập văn hóa, và thể hiện sự tôn trọng đối với mỗi cá nhân và mọi sự khác biệt về văn hóa và tôn giáo. Chúng ta hãy thực hiện chứng tá này!

Cuối cùng là thách đố thứ ba: tình huynh đệ. Xin nhắc lại, thách đố đầu tiên là làm cho Chúa Giêsu được biết đến và thách đố thứ hai là làm chứng. Thứ ba là tình huynh đệ. Giáo hội sẽ là nhân chứng khả tín cho Tin Mừng khi càng có nhiều thành viên thể hiện tình hiệp thông, tạo cơ hội và tình huống cho phép tất cả những ai đến với đức tin gặp được một cộng đoàn chào đón, một cộng đoàn có khả năng lắng nghe, tham gia đối thoại và thúc đẩy các mối quan hệ chất lượng. Đó là điều mà Thánh François de Laval đã nói với các nhà truyền giáo: “Thường thì một lời nói cay độc, một cử chỉ thiếu kiên nhẫn, một cái nhìn khó chịu sẽ phá hủy ngay lập tức những gì đã mất rất nhiều thời gian để hoàn thành” (Hướng dẫn cho các nhà truyền giáo, 1668).

Chúng ta đang nói về cách sống trong một cộng đoàn Kitô giáo để trở thành trường học của nhân loại theo cách này, nơi tất cả mọi người có thể học cách yêu thương nhau như anh chị em, sẵn sàng làm việc cùng nhau vì ích chung. Thật vậy, trọng tâm của việc rao giảng Tin Mừng là tình yêu của Thiên Chúa, là tình yêu biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta có khả năng hiệp thông với mọi người và phục vụ mọi người. Như một nhà thần học người Canada đã viết: “Tình yêu mà Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta đổ đầy trong sự yêu thương ... Đó là tình yêu đã thúc đẩy Người Samari Nhân hậu dừng lại và chăm sóc người đi đường đã bị kẻ cướp tấn công. Đó là một tình yêu không biên giới, tình yêu tìm kiếm Nước Thiên Chúa ... và vương quốc này là phổ quát ”(B. LONERGAN, ‘Tương lai của Kitô giáo’, trong A Second Collection: Papers by Bernard F.J. Lonergan, S.J., London 1974, 154). Giáo hội được mời gọi để thể hiện tình yêu không biên giới này, để thực hiện ước mơ của Thiên Chúa dành cho nhân loại: làm cho tất cả chúng ta trở thành anh chị em. Chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta đang làm thế nào khi nói đến tình huynh đệ thiết thực giữa chúng ta? Giữa các giám mục với nhau và với các linh mục của mình, giữa các linh mục với nhau và với Dân Chúa. Chúng ta có phải là anh em, hay là đối thủ chia thành phe phái? Và các mối quan hệ của chúng ta với những người không phải là “người của chúng ta” là như thế nào, với những người không tin, với những người có truyền thống và phong tục khác? Đây là con đường: hãy xây dựng những mối quan hệ huynh đệ với mọi người, với các anh chị em người bản địa, với mọi anh chị em mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa được phản chiếu trên từng khuôn mặt của họ.

Thưa anh chị em, đây mới chỉ là một vài thách thức. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta chỉ có thể đối mặt với chúng bằng sức mạnh của Thần Khí, là Đấng chúng ta phải luôn dâng lên lời khẩn nguyện. Chúng ta đừng để tinh thần tục hóa xâm nhập vào giữa chúng ta, vì cho rằng chúng ta có thể xây dựng các kế hoạch hoạt động một cách máy móc, và chỉ bằng nỗ lực của con người, xa rời Thiên Chúa. Xây dựng kế hoạch mà không cần Thiên Chúa là sùng bái ngẫu thần. Và, xin chúng ta đừng khép mình lại bằng cách “quay nhìn lại”, nhưng hãy tiến về phía trước với niềm vui!

Chúng ta hãy thực hành những lời nguyện sau đây mà giờ đây chúng ta dâng lên Thánh François de Laval:

Ngài là người vì tha nhân, là người đến thăm viếng bệnh nhân,

cho người nghèo quần áo mặc, bảo vệ phẩm giá của các dân tộc ban đầu,

hỗ trợ những cố gắng tích cực của các nhà truyền giáo,

luôn sẵn sàng tiến đến với những người thua kém.

Không biết bao lần dự án của ngài đã thất vọng!

Nhưng mỗi lần như vậy, ngài lại vực chúng dậy.

Ngài hiểu rằng Thiên Chúa không xây bằng đá,

và rằng trong miền đất chán nản này,

cần có một người xây dựng hy vọng.

Tôi cảm ơn mọi việc anh chị em làm, và tôi ban phép lành cho anh chị em. Xin hãy tiếp tục cầu nguyện cho tôi.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 29/7/2022]