Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2022

Phỏng vấn riêng: Nhà lãnh đạo Công giáo Ukraine về việc chăn dắt đoàn chiên của mình trong thời chiến

Phỏng vấn riêng: Nhà lãnh đạo Công giáo Ukraine về việc chăn dắt đoàn chiên của mình trong thời chiến

Phỏng vấn riêng: Nhà lãnh đạo Công giáo Ukraine về việc chăn dắt đàn chiên của mình trong thời chiến

Ukrainian Greek Catholic Church

John Burger 

29/06/22


Đức Tổng Giám mục Sviatoslav Shevchuk trao đổi với Aleteia về những thách thức do cuộc xâm lược của Nga gây ra - và quyết tâm “ở lại với người dân của chúng tôi.”

Bốn tháng sau cuộc xâm lược Ukraine, phần lớn miền Đông của đất nước đã nằm dưới sự kiểm soát của quân đội Nga, và quân đội Ukraine đang phải chiến đấu để bảo vệ những khu vực tự do cuối cùng của vùng Donbas. Nga cũng tiếp tục tấn công miền trung và miền tây Ukraine với các cuộc tấn công lác đác bằng tên lửa, thường liên quan đến các mục tiêu dân sự như trung tâm mua sắm ở Kremenchuk, nơi ước tính có khoảng 1.000 người đang mua sắm hôm thứ Hai.

Vị đứng đầu Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraine, Đức Sviatoslav Shevchuk, người trở thành mục tiêu ám sát ngay sau cuộc xâm lược bắt đầu ngày 24 tháng Hai, nói với Aleteia rằng ngài lo sợ chiến tranh sẽ trở thành một “cuộc xung đột đóng băng” trong đó các vấn đề cơ bản sẽ không được giải quyết, và Ukraine sẽ phải hứng chịu các cuộc tấn công liên tục, không thể đoán trước bất cứ lúc nào.

“Nếu cuộc xung đột tự đóng băng, nếu Nga không rút quân và Ukraine sẽ không nhận được quyền kiểm soát các khu vực bị chiếm đóng, tôi sợ rằng cuộc xung đột này sẽ rất nhanh chóng được kích hoạt trở lại, bởi vì Nga sẽ tập trung lính mới, nguồn lực mới và sẽ tấn công chúng tôi một lần nữa,” Đức Cha Shevchuk, Tổng giám mục của Kyiv-Halych, cho biết trong một cuộc phỏng riêng ngày 24 tháng Sáu.

Tuy nhiên, ngài nói, sứ mệnh của Giáo hội là ở bên người dân của mình, bất kể điều gì xảy ra. Và Giáo hội đã sống theo tiếng gọi đó. Sau khi những quả bom và tên lửa đầu tiên bắt đầu tấn công Kyiv vào những giờ trước bình minh ngày 24 tháng Hai, Nhà thờ Chánh tòa Chúa Kitô Phục sinh, bên cạnh trụ sở Tổng giám mục Shevchuk ở phía Đông của sông Dnipro cắt ngang thủ đô của Ukraine, đã mở cửa cho những người tìm nơi ẩn náu. Trong nhiều tuần, hầm mộ của nhà thờ, được xây dựng bởi vị tiền nhiệm trước Đức Cha Shevchuk, Đức Hồng y Lubomyr Husar, được sử dụng như một hầm trú bom cho hơn 500 người. Giáo hội cung cấp lương thực, thuốc men và hệ thống sưởi, cũng như hỗ trợ tinh thần cho các gia đình có cuộc sống bị bế tắc.

Trong mức độ có thể phù hợp với tình trạng thiết quân luật và giới nghiêm ở thủ đô, Giáo hội cũng ra ngoài đến với những người bị kẹt trong các tòa nhà chung cư, đặc biệt là người già và những người trú ẩn tại các hầm trú bom và nơi khác chẳng hạn như hệ thống tàu điện ngầm Kyiv. Biết rằng mọi người sẽ không thể đến nhà thờ vào ngày Chúa nhật, Đức Cha Shevchuk đã yêu cầu các giáo sĩ của ngài đến những nơi này để dâng Phụng vụ Thánh và ban các bí tích.

Bản thân ngài vẫn ở lại Kyiv, mặc dù ngài ở một địa điểm không được tiết lộ trong một thời gian. Ngay lập tức Đức Cha bắt đầu mỗi ngày gửi một thông điệp video cho đoàn chiên của mình, một cách làm vẫn tiếp tục cho đến nay, cung cấp thông tin cập nhật về tình hình quân sự và đưa ra suy tư ngắn gọn về đức tin.

Vài ngày trước cuộc xâm lược, tờ Washington Post đưa tin rằng Mỹ đã có thông tin đáng tin cậy cho thấy Moscow đang lập danh sách những người Ukraine “sẽ bị giết hoặc bị đưa đến các trại sau khi quân đội chiếm đóng,” nhằm mục đích vô hiệu hóa sự phản kháng khi Nga tiếp quản đất nước. Tên của Tổng giám mục Shevchuk đã có trong “danh sách” này.

Phỏng vấn riêng: Nhà lãnh đạo Công giáo Ukraine về việc chăn dắt đàn chiên của mình trong thời chiến

Đức Cha Sviatoslav Shevchuk trao đổi với phóng viên John Burger của Aleteia qua Zoom ngày 24 tháng Sáu.

Trong cuộc phỏng vấn này, Đức Cha Shevchuk trình bày chi tiết về âm mưu đã được thực hiện như thế nào và đã bị vô hiệu hóa ra sao. Trao đổi qua Zoom từ chỗ ở, ngài cũng thảo luận về những viễn cảnh của Ukraine khi chiến tranh kéo dài, cách thức Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraine đang tiếp tục phục vụ người dân của mình trong những điều kiện khác nhau, quyết định của Đức Giáo hoàng Phanxicô khi thánh hiến Ukraine và Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria đã có ảnh hưởng gì trong xã hội, và tầm quan trọng của việc Liên minh Châu Âu mời Ukraine làm ứng cử viên cho tư cách thành viên.

Đức Cha có thể cho chúng tôi biết tổng quan về trải nghiệm của người từ khi cuộc chiến bắt đầu vào ngày 24 tháng Hai. Chiến tranh đã làm thay đổi cuộc sống và thói quen hàng ngày của Đức Cha như thế nào?

Trước hết, tôi phải nói rằng cuộc chiến ở Ukraine đã bắt đầu cách đây 8 năm, nhưng nó chủ yếu được thực hiện ở miền Đông Ukraine. Vào ngày 24 tháng Hai, chiến tranh đã tấn công chúng tôi trực tiếp tại thủ đô của Ukraine, vì Kyiv là hướng chính, mục tiêu chính của quân đội Nga. Họ di chuyển xuống từ Nga, từ Belarus, qua vùng Chernobyl và tiến vào các vùng lân cận của Kyiv rất nhanh chóng. Vì vậy, trong năm hoặc sáu giờ, xe tăng đã cách nhà thờ của chúng tôi 20 km. Vì vậy, về cơ bản, Kyiv gần như bị quân Nga bao vây.

Họ cũng cố gắng cho những máy bay lớn hạ cánh cùng với lính dù, và họ cố gắng chiếm đóng hai địa điểm xung quanh Kyiv: Hostomel và Vasylkiv, để đưa chúng tôi vào thế gọng kìm. Bờ trái của sông Dnipro, nơi có nhà thờ chính tòa tọa lạc gần như nằm ở thế kẹt, bởi vì họ di chuyển trên đất liền từ thành phố Brovary, tức là họ đã bị chặn lại cách nhà thờ khoảng 20km về phía đông của thành phố Kyiv. Nhưng họ cũng cố gắng tiến vào thành phố từ phía bắc với quân đội tinh nhuệ để chọc thủng thủ đô của Ukraine và tiêu diệt chính quyền trung ương. Theo cách đó, họ đã lên kế hoạch thống trị Ukraine khi thủ đô thất thủ, và mọi thứ sẽ nằm trong tầm kiểm soát của Nga.

Nhưng tạ ơn Chúa, họ đã bị chặn lại. Tôi đã có mặt ở đây suốt toàn bộ thời gian đó; Tôi ở Kyiv. Phản ứng đầu tiên là một cú sốc lớn, bởi vì anh không thể tưởng tượng được một thành phố đẹp đẽ và rộng lớn như vậy lại có thể thay đổi đột ngột như thế nào. Tất cả các cây cầu đã bị đóng cửa, và hầu như không có khả năng di chuyển qua thành phố. Có một số ngày, việc ra khỏi nhà bị cấm tuyệt đối. Ngay lập tức, các cửa hàng tạp hóa, hiệu thuốc phải đóng cửa và đối với nhiều người hầu như không thể tìm được thức ăn – trong một thành phố lớn như Kyiv.

Nhưng mối nguy hiểm lớn nhất là từ bầu trời, vì Kyiv bị máy bay ném bom, tên lửa, pháo kích. Và mọi người phải chạy xuống hầm trú ẩn tránh không kích. Nhà thờ Chánh tòa của chúng tôi ngay lập tức được chuyển đổi thành một nơi trú ẩn như thế. Mỗi ngày chúng tôi bảo vệ gần 500 người trong tầng hầm mộ. Chúng tôi ở bên nhau. Tất nhiên, chúng tôi ý thức rằng chúng tôi có trách nhiệm đối với những người đó, đối với sự sống của họ. Chúng tôi bắt đầu tổ chức hậu cần đặc biệt để cung cấp thực phẩm, cung cấp thuốc men, cung cấp mọi thứ mà người dân cần để ở lại đó, vì trời lạnh. Tháng Hai là mùa đông ở Ukraine. Vì vậy, thật không dễ dàng để tìm đủ nhiệt để giữ ấm cho quá nhiều người.

Chúng tôi đã học được nhiều điều. Trước hết, chúng tôi học cách phân biệt nhiều loại âm thanh quân sự. Nó là tiếng máy bay hay trực thăng? Đó là tiếng đại bác, tên lửa hay pháo kích? Họ đang nã pháo chúng tôi, hay quân đội Ukraine đang pháo kích họ? Vì vậy, đó là một thời điểm rất khó khăn. Nhưng tạ ơn Chúa, chúng tôi sống sót.

Có lúc nào Đức Cha nghĩ rằng mình có thể chết không?

Nó đã rõ ràng là ngay từ đầu, bởi vì người Nga đã có mặt ở Kyiv trước ngày 24 tháng Hai rất rất lâu. Họ đã thâm nhập ngay cả vào các nhóm giới trẻ của cộng đoàn giáo xứ tại nhà thờ chánh tòa này — thậm chí trong ca đoàn. Và đột nhiên họ nhận được lệnh khôi phục sự hiện diện của họ, và họ nhận được các lệnh rất chính xác với danh sách những người cần loại bỏ, có tên cụ thể, có địa chỉ cụ thể. Và những nhóm tấn công đó di chuyển quanh thành phố rất nhanh chóng. Và tôi đã được các đại sứ [nước ngoài] nói rằng tôi có tên trong danh sách.

Tại sao Đức Cha lại có trong danh sách đó?

Tôi không biết, nhưng sau đó, khi người Nga bị đẩy ra khỏi khu vực lân cận Kyiv, và chúng tôi bắt đầu khám phá ngôi mộ tập thể [ở Bucha] và lắng nghe các nhân chứng của sự hung tàn này, câu hỏi tương tự hiện lên là: “Tại sao? Tại sao người Nga lại giết thường dân?” Chúng tôi được kể rằng họ hỏi mọi người, “Mày làm nghề gì?” Nếu anh là một giáo viên, anh sẽ bị xử tử. Nếu anh là một vận động viên thể thao hoặc một nghệ sĩ – có thể là vẽ các biểu tượng – anh sẽ bị xử tử. Vì vậy, bất kỳ cách thể hiện nào của văn hóa dân tộc, của đời sống người dân Ukraine, bất kỳ loại biểu hiện nào cho thấy người Ukraine là một dân tộc khác, đều phải bị tiêu diệt, bởi vì họ đã công khai tuyên bố rằng họ có hai mục tiêu theo đuổi ở Ukraine – phi hạt nhân, và phi quân sự Ukraine. Tiêu diệt Ukraine có nghĩa là diệt trừ bất cứ thứ gì khiến anh liên tưởng đến quốc gia Ukraine hoặc dân tộc Ukraine. Và đương nhiên, Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraine không chỉ là biểu tượng của quốc gia Ukraine, mà trong nhiều thế kỷ Giáo hội gần như là biểu hiện duy nhất của đời sống xã hội của người dân Ukraine, ngay cả khi chúng tôi sống ở nước ngoài, chẳng hạn như Nga, Ba Lan, nhà nước Áo-Hung, v.v. Và người Nga biết rất rõ rằng Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraine đặc biệt được coi như linh hồn của dân tộc Ukraine. Đó là lý do tại sao chúng tôi là một trong những người đầu tiên bị loại bỏ.

Danh sách đó có bao gồm các giám mục khác, các nhà lãnh đạo dân sự, chẳng hạn như những người ở đại học không?

Có. Tôi không được xem những danh sách đó, nhưng các vị đại sứ trở lại Kyiv sau vài tháng đã báo cáo cho tôi những thông tin rất ngoại giao. Nhưng tôi biết rằng trong danh sách này có đại diện của các Giáo hội và tổ chức tôn giáo khác, chẳng hạn như Đức Epiphanius, vị đứng đầu Giáo hội Chính thống Ukraine, và những vị khác.

Tất cả những người bị coi là mối nguy hiểm cho cái gọi là Thế giới Nga, một mối nguy hiểm cho hệ tư tưởng nhà nước tuyên bố rằng dân tộc Ukraine không tồn tại, rằng người Ukraine là người Nga, nhưng có hơi hướng nổi loạn, mọi thứ có chứa cái tên Ukraine phải bị tiêu diệt, và người Ukraine cần phải được cải tạo. Đó là một kế hoạch toàn diện, được thực hiện rất tốt và thậm chí đã được tuyên bố. Và quân đội Nga chỉ đang thực hiện kế hoạch.

Điều rất thú vị là một trong những nguồn tài liệu truyền thông, có tên RIA Novosti, tuyên bố về kế hoạch phi hạt nhân hóa Ukraine của Nga đã được công bố, và nhà sử học [Yale] Timothy Snyder, người đã nhiều năm nghiên cứu về Thảm sát ở các vùng lãnh thổ thời hậu Xô Viết, ngay lập tức xác định đây là một cách thể hiện rõ ràng về sự diệt chủng người Ukraine, do người Nga thực hiện. Sau đó, hệ tư tưởng bắt đầu giết người, có phương pháp và cực kỳ tàn ác.

Bằng cách nào âm mưu của những kẻ thâm nhập trong ca đoàn nhà thờ bị phanh phui và vô hiệu hóa?

Ngay từ đầu, từ những ngày đầu tiên, nhà thờ chánh tòa của chúng tôi đã bị tấn công bởi một số nhóm tấn công. Thậm chí có một số người định hướng cho các cuộc tấn công của tên lửa của Nga đã bị bắt tại Kyiv. Họ đánh dấu một số tòa nhà, đặc biệt là các tòa nhà của chính phủ, và cả nhà thờ, để định hướng đường bay của tên lửa Nga. Người trong khu phố của chúng tôi lập tức tự tổ chức thành một nhóm gọi là nhóm tự vệ. Và mỗi ngày, họ bắt giữ được những người cố gắng đánh dấu nhà thờ chánh tòa của chúng tôi, và họ cũng bắt được những nhóm người đang tìm cách tấn công nơi ở và nhà thờ của chúng tôi bằng vũ khí.

Chuyện bắt đầu rất đơn giản. Khi có rất nhiều người đang tập trung trong tầng hầm của nhà thờ của chúng tôi, tôi khuyên các tình nguyện viên là đừng để bất kỳ ai mang vũ khí vào hầm trú ẩn, đơn giản bởi vì điều đó có thể gây nguy hiểm. Họ bắt đầu yêu cầu tất cả những ai muốn vào phải xuất trình giấy tờ và cho xem túi xách của họ để chắc chắn không có vũ khí hoặc chất nổ. Và ngay lập tức chúng tôi tìm thấy những người cố gắng tiến vào với vũ khí. Một số người tuân theo mệnh lệnh, nhưng một số thì không. Một số người họ dùng vũ khí để tấn công chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi nhờ các nhóm tự vệ đó hỗ trợ và bảo vệ. Theo cách đó, chúng tôi buộc phải tổ chức những nơi đặc biệt để bảo vệ thánh đường. Có một số vụ nổ súng xung quanh nhà thờ bởi vì những người có vũ khí không tuân lệnh. Nhưng tạ ơn Chúa, không ai bị thương. Nhưng mỗi ngày đều có một vài nhóm tấn công bị bắt. Họ gọi quy trình này là “thu gom nấm”. Mỗi tối, các tình nguyện viên và những người bảo vệ “thu gom nấm” xung quanh nhà thờ chánh tòa. Họ khám phá ra những người kia là ai với các tài liệu, bản đồ đặc biệt, với những danh sách cách thức di chuyển và những mệnh lệnh cụ thể. Ngay cả cách thức họ tuân theo hoặc không tuân theo mệnh lệnh cũng là một tín hiệu cho thấy những người đó đã được huấn luyện cách ứng xử nếu họ bị bắt giữ.

Vì vậy, ai là ai trở nên rất rõ ràng. Một số người họ có những hình xăm rất hung tợn trên cơ thể, nói “Syria”, “Libya” — tất cả những nơi họ đã phục vụ trước khi đến Kyiv. Và cũng theo cách đó, một số kẻ thâm nhập vào nhóm giới trẻ và ca đoàn gia trưởng đã bị bắt giữ, với những dấu hiệu rõ ràng cho thấy rằng họ là thành viên của những nhóm tấn công như vậy. Một lần nữa, các tình nguyện viên và thành viên của các nhóm tự vệ này sẽ chuyển những “cây nấm” đó cho đại diện quân đội Ukraine và các đơn vị đặc nhiệm chịu trách nhiệm bảo vệ thủ đô Ukraine.

Đức Cha cảm thấy thế nào khi phát hiện ra mình có tên trong danh sách này?

À, trong những ngày và tuần đầu tiên, chúng tôi không nghĩ về bản thân mình, bởi vì ngay từ đầu, rõ ràng là anh có thể bị giết bất cứ lúc nào. Nhưng tất cả sự chú ý của chúng tôi đều dồn về những người đang ở trong nhà thờ chánh tòa, những người ở trong nhà của họ mà không thể kiếm được thức ăn, không điện, không nước, không sưởi ấm. Chúng tôi cố gắng giúp mọi người sơ tán khỏi thành phố Kyiv. Sự chú ý của chúng tôi, đặc biệt là trong hai tuần đầu, hướng đến sứ mệnh cụ thể này để cứu mạng sống của mọi người.

Đức Cha đã nói trong một thông điệp video hàng ngày rằng vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau khi cuộc xâm lược bắt đầu, các giáo sĩ đã đi vào hệ thống tàu điện ngầm và hầm tránh bom để phục vụ Phụng vụ Thánh cho người dân. Đức Cha có thể cho con biết một ví dụ cụ thể về việc đó, và nó diễn ra như thế nào?

Vâng, bởi vì ngày Chúa nhật đặc biệt đó đã có lệnh cấm đi lại trên phố. Ngay cả bây giờ chúng tôi có thiết quân luật và lệnh giới nghiêm. Nhưng vì hoạt động của quá nhiều nhóm tấn công và kẻ phá hoại đang di chuyển trong thành phố, nên ngay từ thứ Bảy và Chúa nhật đầu tiên, đã có lệnh giới nghiêm. Và tất nhiên chúng tôi không thể cử hành Lễ bái trong các nhà thờ. Vì vậy, chúng tôi tìm cách đi đến những nơi có nhiều người. Khi mọi người không thể đến nhà thờ, Giáo hội phải đến với người dân.

Và những ga tàu điện ngầm cùng các hầm tránh bom như chúng tôi có ở bên dưới nhà thờ chánh tòa là những nơi có người ở. Tôi kêu gọi, đặc biệt là các linh mục ở Kyiv, hãy đến những nơi đó và ở cùng với người dân và cử hành Phụng vụ Thánh ở đó, với họ và cho họ.

Ban đầu rất khó khăn vì mọi người không mong đợi các linh mục đến. Và đó cũng không phải là nơi thánh để đặt những đồ [phụng tự] và cầu nguyện cách trang nghiêm. Tuy nhiên mọi người không chỉ ngạc nhiên mà còn rất vui về sự hiện diện của các linh mục. Và nhiều người trong số họ lần đầu tiên trong đời đến với bí tích Cáo giải. Họ yêu cầu chúng tôi ở lại, không chỉ trong một giờ mà ở lại và ở giữa mọi người, để giảng, để tuyên xưng. Vì vậy, đó là một thời điểm mục vụ rất đặc biệt.

Tôi nghĩ rằng chúng tôi tiếp tục sống ở Kyiv như một thành phố, như một cộng đồng là vì lời cầu nguyện chung, vì tình đoàn kết. Trong hoàn cảnh như vậy, sự hiện diện của các linh mục là một thời gian xua tan sợ hãi. Chúng tôi nhìn xung quanh mình bằng những con mắt khác nhau. Chúng tôi đã đánh đuổi kẻ thù của mình, và không chỉ thành phố Kyiv sống sót, mà tất cả các khu vực xung quanh Kyiv đều được giải phóng.

Khi Đức Cha đang trải qua thử thách này, người có nghĩ về thời điểm Giáo hội phải hoạt động bí mật, từ năm 1946-1989, vì Giáo hội bị đặt ngoài vòng pháp luật của Liên Xô không?

Vâng tất nhiên. [Nhưng] nó đặc biệt khiến tôi nhớ đến thời điểm Maidan — được gọi là Cách mạng Phẩm giá [2013-2014] — bởi vì đó cũng là thời điểm mà tất cả các Giáo hội, không chỉ riêng Giáo hội của chúng tôi, ra đường phố, đến quảng trường trung tâm của Maidan, và cùng đứng với người dân của chúng tôi. Đó là một cử chỉ rõ ràng, nhưng nó cũng là không gian chung nơi Giáo hội có trách nhiệm có mặt, ở cùng với người dân của chúng ta. Và với tất cả những gì chúng tôi đang làm hiện tại ở các vùng khác nhau của Ukraine, tùy theo tình hình, là chúng tôi đang ở với người dân của chúng tôi. Các vị tuyên úy quân đội ở cùng với các binh sĩ của chúng tôi trên các chiến tuyến. Các tu sĩ của chúng tôi đang ở với người dân ngay cả trong các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng – đang gặp nguy hiểm lớn. Chúng tôi đang ở với người dân của chúng tôi tại các thành phố Kharkiv, Odesa và Mykolayiv, và mỗi ngày họ sống trong tình trạng giống như Kyiv đã trải qua trong thời gian đầu của cuộc xâm lược. Nhưng họ ở đó. Vì vậy, đó là bí tích của sự hiện diện, là điều quan trọng nhất. Rồi chúng tôi có thể làm thừa tác các bí tích của Giáo hội.

Ngoài ra, tất cả viện trợ nhân đạo mà chúng tôi có thể phân phối đều thông qua sự hiện diện của Giáo hội, bởi vì các linh mục, giám mục, tu sĩ và nữ tu của chúng tôi vẫn ở trong các tu viện và giáo xứ của họ, vì vậy chúng tôi có thể tổ chức mạng lưới hoạt động cứu trợ nhân đạo này. Và nó đang tăng lên mỗi ngày.


Đức Cha Sviatoslav và các linh mục hát Kinh Lạy Cha trong chuyến thăm mục vụ đến một nhà thương quân đội.

Mặt khác, chúng tôi phải linh động, bởi vì tình hình thay đổi liên tục. Có lẽ những lãnh thổ bị chiếm đóng giờ đã được giải phóng, và họ có những nhu cầu khác so với một tháng trước đó. Chúng tôi phải chữa lành vết thương. Nhiều người đang cố gắng trở về nhà, vì họ đã bị buộc phải rời khỏi thành phố và làng mạc của họ. Chúng tôi có trách nhiệm ở bên họ và giúp đỡ họ. Quay trở lại không hề dễ dàng: ngôi nhà của anh có thể chứa đầy chất nổ. Nhiều người đã chết khi trở về nhà, khi mở cửa nhà, thậm chí mở cửa xe, bởi vì người Nga để lại những cái bẫy giết người ngay cả khi họ đã rút lui. An ủi, chữa lành vết thương, phục vụ những người đang gặp khó khăn cùng cực là sứ mệnh của Giáo hội, là ở cùng dân tộc mình.

Chính phủ cảnh báo rằng mùa đông sắp tới có thể là mùa đông khó khăn nhất, thử thách nhất trong toàn lịch sử của Ukraine, bởi vì người Nga đang phá hủy cơ sở hạ tầng của các thành phố lớn một cách có hệ thống, các cửa hàng thực phẩm, hệ thống sưởi ấm. Giá cả thực phẩm đang tăng lên mỗi ngày, vì thường không dễ tìm được nhiên liệu – đôi khi không thể –, tìm xăng hoặc dầu. Việc vận chuyển hàng viện trợ nhân đạo ngày càng trở nên đắt đỏ hơn. Có nghĩa là vào mùa đông, chúng tôi sẽ bị lạnh cóng và thiếu nguồn cung cấp thực phẩm. Hiện tại, chúng tôi đang cố gắng hết sức có thể để chuẩn bị cho mùa đông.

Trong những năm cuối cùng của thời Liên Xô cũ, Đức Cha đã ở trong quân ngũ – cũng như tất cả mọi thanh niên có nghĩa vụ phải thi hành. Và Đức Cha đã đóng ở Luhansk, nơi hiện đang trải qua một cuộc chiến lớn, vì Putin muốn tiếp quản toàn bộ Donbas. Là một người đã từng phục vụ trong quân đội ở đó, đánh giá của Đức Cha về tình hình và kết quả có thể xảy ra là gì?

Tôi có nhiều cảm xúc lẫn lộn, bởi vì tôi đã có kinh nghiệm về tâm lý của Liên Xô về cách đối xử với binh lính của họ và cách đạt được các mục tiêu quân sự.

Vấn đề đầu tiên là hiện tại người Nga đang cố gắng thực hiện các mục tiêu chính trị thông qua các phương tiện quân sự. Ví dụ, họ nhận được lệnh chiếm đóng thành phố này vào một ngày nhất định, vì đó là Ngày Chiến thắng, ngày 9 tháng Năm. Và chẳng ai quan tâm đếm xem có bao nhiêu binh sĩ chết, bao nhiêu xe tăng bị phá hủy, quân đội phải trả cái giá nào để thực hiện những lệnh đó. Tức là, tôi muốn nói là hơi ngớ ngẩn khi thực hiện một số mục tiêu chính trị bằng các phương tiện quân sự. Đó là những gì chúng ta có với toàn bộ cuộc xâm lược này của Nga. Họ thông báo một đề xuất chính trị nào đó, và khẩu hiệu là “Chúng tôi sẽ không tính đến cái giá phải trả.” Có nghĩa là bằng một số hành vi tàn ác phi lý với chính binh lính của họ, họ sẽ cố gắng thực hiện một lệnh chính trị như vậy, một mệnh lệnh như vậy.

Đó là một nguyên tắc đáng buồn. Hồng quân, Quân đội Nga, đã chiến đấu với Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai theo nguyên tắc đó. Đó là chính sách của Nguyên soái lừng danh [Georgy] Zhukov. Ông đã ra lệnh cho các sĩ quan dứt khoát không được thương xót binh lính, và nói rằng, “Phụ nữ sẽ sinh đẻ nhiều hơn.” Thật là độc ác.

Vấn đề thứ hai là, bởi vì chúng ta thường tìm kiếm một con đường ngoại giao hoặc chính trị nào đó để ngăn chặn chiến tranh, nhiều nhà ngoại giao hoặc chính trị đang cố gắng nói chuyện với ông Putin, để đưa ra một số lập luận về tình hình, để ngăn chặn sự leo thang tiếp tục của cuộc xung đột ngu xuẩn như vậy – bởi vì tôi nghĩ không người nào trên thế giới có trí óc bình thường lại biện minh cho một cuộc chiến như vậy. Do đó, họ sẽ thúc đẩy một cuộc đối thoại.

Nhưng theo kinh nghiệm của tôi trong quân đội Liên Xô, cách đối xử với kẻ thù của anh theo kiểu Châu Á này là một cách xem đối thủ của anh là rất yếu. Nếu người kia cố gắng đối thoại với anh để ngăn chặn sự hành hung bạo lực, nó gần như là một quy tắc trong quân đội Liên Xô: nếu có xung đột giữa hai người lính và một trong hai người bắt đầu nói chuyện với người kia để ngăn chặn bạo lực, người kia sẽ coi anh là một kẻ nhu nhược, không đáng là bạn của anh ta, thậm chí không đáng là người đối thoại của anh ta. Không xứng đáng để nói chuyện với anh. Một cuộc đối thoại như vậy sẽ được hiểu như một sự khuyến khích để siêu nhân này hành hung anh.

Sách lược phải có là gì trong tình huống như vậy? Trước khi nói chuyện, anh phải cầm lấy một cái ghế và phang vào đầu của đối thủ. Sau hành động như vậy, anh sẽ trở thành người bạn tốt nhất. Người kia sẽ đánh giá cao bạn. Anh ta sẽ coi anh là một người mạnh mẽ. Anh ta sẽ không bao giờ dùng bạo lực để hành hung anh nữa. Thậm chí, người đó sẽ coi anh là bạn và là người mà anh ta có thể tin tưởng trong thời điểm khó khăn. Người đó sẽ là bạn của anh mãi mãi.

Vì vậy, đối với văn hóa và cách nghĩ của Châu Âu có thể đó là một điều gì đó kỳ lạ. Nhưng đó là cách giải quyết xung đột giữa các binh lính Liên Xô. Khi tôi phân tích cách chúng tôi đang cố gắng tránh sự leo thang, cách chúng tôi đang cố gắng giải quyết những xung đột hiện có bằng việc sử dụng ngoại giao mà không thể hiện sự mạnh mẽ – ngay cả về quân sự – thì nó giống như một lời khuyến khích và mời gọi đối thủ tấn công chúng tôi.

Thật đáng buồn khi nói lên điều đó, bởi vì nó hoàn toàn không phải là Kitô giáo. Là người Kitô giáo chúng ta không bao giờ được khuyến khích bất kỳ hình thức bạo lực hoặc chiến tranh nào. Tôi có thể nói rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã mạnh mẽ lên án về một cuộc chiến như vậy, nói rằng chiến tranh luôn là một sự mất mát đối với với nhân loại. Chiến tranh là sự phạm thánh, đặc biệt là cuộc chiến đang diễn ra hiện nay tại Ukraine. Đó là sự ngu ngốc lớn nhất trong lịch sử hiện đại, và chúng ta phải làm mọi cách để ngăn chặn kẻ xâm lăng và có được hòa bình giữa các quốc gia.

Theo Đức Cha, mục tiêu cuối cùng của Putin là gì? Tại sao ông ta làm điều này, và trò chơi kết của ông ta là gì?

Tôi nghĩ ông ta đang cố gắng giải quyết các vấn đề bên trong của nước Nga bằng một cuộc xâm lược và tấn công bên ngoài. Hiện tại đang có rất nhiều sự bàn luận xoay quanh nguyên nhân của cuộc chiến tranh như vậy. Theo sự hiểu biết và kinh nghiệm trực tiếp của chúng tôi về tình hình Ukraine và Nga, ở các nước thời hậu Xô Viết này, mỗi quốc gia đều có những căn bệnh về tinh thần và xã hội riêng. Ukraine cũng vậy. Nga cũng có của riêng họ. Lịch sử của nước Nga sau khi Liên Xô sụp đổ là lịch sử của một xã hội bị sỉ nhục. Họ cảm thấy tức giận với toàn thế giới vì họ không thể ở cùng một cán cân kinh tế như các nước khác. Sự ghen tị như vậy bắt đầu phát triển thành một hệ tư tưởng rất cụ thể. Chúng tôi thường gọi đó là hệ tư tưởng của Thế giới Nga. Hệ tư tưởng đó có nghĩa là chủ nghĩa dân tộc cực đoan của Nga — chủ nghĩa dân tộc có một chút nào đó khuynh hướng cứu tinh. Đó là hệ tư tưởng cố gắng “làm cho nước Nga vĩ đại trở lại”.

Làm thế nào để nước Nga vĩ đại trở lại? Không phải bằng cách phát triển sự vĩ đại của họ, nhưng là làm bẽ mặt người khác, để chứng tỏ rằng chúng tôi vốn đã vĩ đại rồi. Nhưng chỉ đơn giản vì người khác cố tình phớt lờ chúng tôi.

Lịch sử chính trị của ông Putin luôn gắn liền với một hình thức chiến tranh nào đó. Ông được biết đến ở Nga vì cuộc chiến ở Chechnya. Mọi người đoàn kết để chống lại kẻ thù. Ông được tái bầu cử làm tổng thống vì cuộc chiến với Georgia. Và hiện lúc này ông ta đang xuất hiện trở lại như một tân hoàng đế – Phêrô Đại đế – để thâu tóm tất cả các vùng đất của cái gọi là nước Nga lịch sử.

Và gần đây, ông ta tuyên bố rằng trong tâm trí ông ta, nước Nga lịch sử về cơ bản là lãnh thổ của Liên bang Xô Viết. Vì vậy, để nắm quyền, để xuất hiện là một siêu nhân mạnh mẽ, một nhà lãnh đạo thành công, ông ta rất cần có kẻ thù bên ngoài. Và hiện tại, phương Tây nói chung, đặc biệt là Hoa Kỳ, là một kẻ thù tuyệt vời, và ông ta là người đang cứu lấy niềm tự hào của quốc gia bằng cách đứng cùng cường quốc thế giới này, để đưa nước Nga vĩ đại trở lại. Và tôi muốn nói rằng đó là một cơ chế bên trong đang liên tục thúc đẩy hệ thống chính trị này kích động thế giới, tạo ra những kẻ thù mới và chống lại họ để giải quyết các vấn đề bên trong của đất nước mình. Và bây giờ Ukraine là nạn nhân của một viễn cảnh như vậy.

Nhưng nếu Ukraine bị Nga khuất phục thì ngày mai ông ta lại tìm nạn nhân khác để xâm lược. Có thể ví dụ này sẽ rất tàn nhẫn, nhưng kẻ săn mồi đang tìm kiếm nạn nhân sẽ đổ tội cho nạn nhân, và bản thân kẻ săn mồi lại là nạn nhân của áp lực tâm lý rất mạnh đang không ngừng thúc đẩy anh ta giết người ngày càng nhiều hơn. Và anh ta không thể dừng lại cho đến khi bị kiềm chế.

Cuộc chiến xâm lược Ukraine là vô cớ. Đó không phải là lỗi của NATO hoặc Hoa Kỳ hay Ukraine. Nguyên nhân của sự xâm lược đó là căn bệnh bên trong của một xã hội Nga thời hậu Xô Viết.

Như vậy Đức Cha tin rằng ngay cả khi NATO không mở rộng, ngay cả khi họ không hứa với Ukraine rằng một ngày nào đó Ukraine có thể trở thành một thành viên, thì tình hình vẫn sẽ là như vậy?

Đúng. Các quốc gia nhỏ hơn, chẳng hạn như Ukraine, Croatia hoặc Bosnia-Herzegovina hoặc Georgia muốn trở thành thành viên của NATO vì chúng tôi đang bị Nga đe dọa. Nếu Nga không đe dọa gây hấn, thì không ai muốn trở thành thành viên của NATO. Cho đến nay, Ukraine là một quốc gia trung lập. Bản thân chúng tôi đã quyết định từ bỏ vũ khí hạt nhân, thứ mà Ukraine đón nhận như là di sản của Liên Xô. Nga, cùng với Hoa Kỳ, [trong Bản ghi nhớ Budapest năm 1994] đã đảm bảo cho Ukraine về sự toàn vẹn lãnh thổ, nền an ninh của chúng tôi. Chúng tôi chỉ thay đổi quyết định sau khi Nga xâm lược và chiếm đóng Donbas và Crimea. Chúng tôi cần phải làm gì? Chúng tôi phải tìm kiếm bạn bè để tồn tại, bởi vì so với Nga, chúng tôi là nước nhỏ và yếu.

Đức Cha nghĩ tình hình hiện tại này có thể tiếp diễn trong bao lâu? Ukraine sẽ thoát ra như thế nào?

Thành thực mà nói tôi không biết. Tôi sợ rằng tại một thời điểm nào đó cuộc xung đột có thể trở thành đóng băng và trong một thời gian rất ngắn có thể được kích hoạt trở lại. Vì vậy, có thể sự leo thang quân sự đang diễn ra và mở rộng sẽ đến một lúc khi cả hai bên – Ukraine và Nga – kiệt sức. Rồi có lẽ thời gian của ngoại giao sẽ đến. Nhưng nếu cuộc xung đột tự đóng băng, nếu Nga không rút quân và Ukraine sẽ không nhận được quyền kiểm soát các khu vực bị chiếm đóng, tôi sợ rằng cuộc xung đột này sẽ rất nhanh chóng được kích hoạt trở lại, bởi vì Nga sẽ tập trung lính mới, nguồn lực mới và sẽ tấn công chúng tôi một lần nữa.

Vì vậy, tôi cầu nguyện rằng một ngày nào đó lý trí sẽ cung cấp những cách nhìn mới, không phải là bản năng xâm lược mà là lợi ích chung. Chúng tôi đang cầu nguyện cho hòa bình, cho sự chấm dứt chiến tranh. Nhưng hòa bình luôn phải gắn liền với sự thật và công lý. Một nền hòa bình bất công và không đích thực sẽ chỉ là hòa bình giả tạo. Tôi sợ rằng chính khái niệm hòa bình trong thế giới ngày nay có thể bị thay đổi ý nghĩa chân thực của nó. Hòa bình không có nghĩa là không có chiến tranh. Hòa bình có nghĩa là sự hòa hợp, sự sống viên mãn. Chúng ta tìm kiếm chiến thắng vì một nguyên do có thể gây ra những cuộc chiến tranh mới. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ rằng nhiệm vụ của chúng ta là phải trung thực trong suy nghĩ của mình và nói sự thật, ngay cả khi sự thật đó có thể gây đau đớn cho chính chúng ta. Ở Ukraine, chúng tôi phải nhận thức rất rõ điều gì đang gây ra chiến tranh và làm thế nào để chữa lành vết thương hở này.

Trang web Meduza, một kênh thông tin của Nga nhưng đối lập với chế độ của Putin, đã đưa tin vào đầu tháng 6 rằng Điện Kremlin đang có kế hoạch sáp nhập các vùng Donetsk, Luhansk, Kherson và Zaporizhzhia của Ukraine và hợp nhất thành một quận liên bang duy nhất vào trong nước Nga. Điều này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các giáo phận và giáo xứ của Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraine ở đó? Nó sẽ ảnh hưởng đến tự do tôn giáo như thế nào?

Trước hết, chúng tôi sẽ rất bị hạn chế về khả năng hoạt động của mình. Đó sẽ là [viễn cảnh] tốt nhất.

Nhưng điều tiếp theo có thể là việc loại bỏ sự hiện diện của chúng tôi, bởi vì trong lịch sử, mỗi lần Nga xâm chiếm lãnh thổ Ukraine, Giáo hội của chúng tôi bị phá hủy – không phải ngay lập tức mà là ở viễn cảnh gần nhất. Một khả năng như vậy hoặc một viễn cảnh như vậy là viễn cảnh của cuộc xung đột đóng băng. Tôi nghĩ rằng đó sẽ chỉ là một giai đoạn trung gian, bởi vì họ sẽ còn tiến tới. Và điều đó rất nguy hiểm, vì người dân sẽ tiếp tục phải chịu đựng – ở cả hai bên, bị chiếm đóng và bị tái tổ chức trong việc xây dựng nhà nước bù nhìn và trong vùng lãnh thổ do nhà nước Ukraine kiểm soát. Sẽ chỉ còn là câu hỏi về thời gian khi nào thì cú ngoạm tiếp theo vào lãnh thổ Ukraine sẽ được thực hiện.

Đức Cha có suy tính đến bất kỳ sự chuẩn bị / kế hoạch dự phòng nào trong vai trò là Giáo hội, đặc biệt là trong trường hợp Nga tiếp quản Ukraine hoặc một phần của Ukraine không?

Kế hoạch của chúng tôi là ở lại, ở với người dân của chúng tôi. Và sau đó chúng ta sẽ thấy. Bởi vì đó là lịch sử của chúng tôi – một lịch sử tử đạo và phục sinh. Và đó có lẽ là sứ mệnh và nghĩa vụ của chúng tôi.

Đức Cha có thể phản ánh một chút về những nỗ lực mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã và đang thực hiện liên quan đến cuộc chiến ở Ukraine. Đức Cha có thường xuyên liên lạc với ngài không? Đức Cha có thể phản ánh về việc trao đổi những hiểu biết sâu sắc: những điều Đức Cha đã học được từ ngài, và có thể là những điều ngài học được từ những gì Đức Cha trao đổi với ngài.

Vâng, chúng tôi thường xuyên liên lạc với ngài. Vào ngày thứ hai của cuộc chiến, ngài gọi cho tôi và hứa rằng ngài sẽ làm mọi việc có thể để ngăn chặn chiến tranh. Bản thân Đức Thánh Cha rất cảm thông với nỗi thống khổ của người dân Ukraine. Nhưng ngài rất tinh tế trong cách diễn đạt của ngài, vì ngài tin rằng có thể giải quyết được những vấn đề khó khăn như vậy thông qua đối thoại. Tòa thánh luôn là nơi gặp gỡ và đối thoại, không phải là nơi của các kế hoạch quân sự. Đó là điều mà bản thân ngài và những vị cộng tác của ngài Quốc vụ khanh đang cố gắng thực hiện.

Tôi phải nói rằng Đức Thánh Cha được thông báo rất rõ về những gì đang diễn ra ở Ukraine. Và chúng tôi đang nghiên cứu khả năng để ngài đến thăm chúng tôi ở Ukraine. Nhưng bây giờ sức khỏe ngài không được tốt lắm. Ngài bị cái đầu gối làm đau đớn, và với ngài lúc này đi lại không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nhưng ngài đã bày tỏ sự sẵn sàng đến thăm chúng tôi ở Ukraine.

Đức Thánh Cha rất mạnh mẽ trong các cử chỉ của mình, và cử chỉ đến thăm Ukraine tự nó sẽ là một thông điệp – một thông điệp ủng hộ, một thông điệp hy vọng cho chúng tôi.

Tất nhiên, có thể người dân Ukraine sẽ rất vui nếu ngài đưa ra một tuyên bố chính trị mạnh mẽ nào đó, lên án ông Putin, lên án Đức Thượng phụ Kirill [của Giáo hội Chính thống Nga], và lên án hệ tư tưởng Thế giới Nga. Nhưng chủ trương của Tòa thánh là không lên án mà cố gắng thúc đẩy một giải pháp thay thế chiến tranh, đó là lý luận, đối thoại.

Ngài đã rất đau khổ khi thấy nhiều nỗ lực mà ngài thực hiện cho đến bây giờ vẫn chưa thành công. Ngài đã cố gắng liên lạc với Tổng thống Putin. Ngài đã nói chuyện với Đức Thượng phụ Kirill qua cuộc họp video. Nhưng không có thành công. Có thể ngài nghĩ rằng sẽ dễ dàng hơn rất nhiều để ngăn chặn sự xâm lược của Nga thông qua một hình thức hòa giải nào đó. Nhưng cho đến thời điểm hiện tại thì khá khó khăn.

Đức Thánh Cha đang cố gắng hỗ trợ chúng tôi bằng bất kỳ hình thức trợ giúp nhân đạo nào. Caritas quốc tế và nhiều hội đồng giám mục, đặc biệt là ở Châu Âu và cả ở Hoa Kỳ, đang giúp đỡ chúng tôi ở các mức độ khác nhau, đến thăm chúng tôi ở Ukraine.

Sáu triệu người tị nạn đã rời khỏi Ukraine. Hầu hết họ đang ở Châu Âu. Các quốc gia Châu Âu đón nhận người tị nạn của chúng tôi với một trái tim rộng mở, và Đức Thánh Cha đang khuyến khích họ và cảm ơn họ vì điều đó. Một số người tị nạn đến Hoa Kỳ và Canada. Đức Thánh Cha có sự nhạy cảm rất lớn đối với người tị nạn: trong nhiều thập kỷ, ngài đã cố gắng giáo dục các dân tộc thân thiện và cởi mở với họ. Hiện tại, điều này rất quan trọng đối với người dân của chúng tôi.

Chúng tôi trông chờ ngài đến thăm Ukraine trong một tương lai gần nhất.

Xin Đức Cha chia sẻ suy nghĩ của người về quyết định của Đức Giáo Hoàng trong việc thánh hiến Ukraine và Nga cho Trái tim Vô nhiễm Nguyên tội của Mẹ Maria. Cử chỉ này gây được tiếng vang đối với người Ukraine như thế nào?

Tôi phải nói rằng về mặt chính trị, đó là một câu hỏi lớn, bởi vì bất cứ khi nào Ukraine và Nga được đem đến gần nhau, nó sẽ gây ra một phản ứng rất mạnh, đặc biệt là đối với những người không đến nhà thờ. Nhưng với người Công giáo, giữa các tín hữu, đặc biệt là những người có nhận thức rõ ràng, thậm chí thần bí, về sự hiện ra tại Fatima, thì hành động thánh hiến đó được sống thật sâu sắc và được đón nhận rất nhiệt thành. Từ ba tháng nay, chúng tôi đón tượng thánh du từ Fatima, và tượng đang được rước từ giáo xứ này sang giáo xứ khác. Hàng ngàn người cầu nguyện ngày đêm. Vì vậy, đó là một phong trào tinh thần lớn bắt đầu từ thời điểm đó.

Nhiều người thật sự tri ân Đức Thánh Cha về hành động [thánh hiến] này. Và mọi người thực sự tin rằng đất nước Ukraine chúng tôi, là một dân tộc, đang ở trong một chương trình thiêng liêng đặc biệt. Có một chương trình thiêng liêng cho nước Nga, nhưng cũng cho Ukraine. Trong những lần hiện ra tại Fatima, Ukraine không được nhắc đến – có thể vì vào thời điểm đó phần lớn lãnh thổ của Ukraine đã được bao gồm trong nhà nước Nga. Nhưng khi Đức Thánh Cha đề cập đến Ukraine cũng như một chủ đề của sự quan phòng này, đối với những người Ukraine thực sự tin vào Chúa, Đấng hiện hữu bên trong sự nhạy cảm thần bí này, thì nó là một điều gì đó rất mạnh mẽ. Họ đã nhận được một niềm an ủi và hy vọng rất lớn.

Đức Cha nói gì với những người, chẳng hạn như cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, là người cho rằng Ukraine nên sẵn sàng nhượng bộ một phần lãnh thổ nào đó để tạo điều kiện cho một thỏa thuận hòa bình?

Chúng tôi xem Ukraine, lãnh thổ của Ukraine, là một phần không thể thiếu trong thân thể của đất nước Ukraine. Anh không thể thương lượng bàn tay hoặc bàn chân vì đó là một phần của con người anh. Anh không thể nói “Để kẻ săn mồi dừng lại, hãy chặt tay bạn và đưa cho hắn. Chỉ cần một bàn tay thì hắn sẽ dừng lại!” Không, đó là sự ngây thơ, và tôi muốn nói rằng đó là một tuyên bố rất nguy hiểm, bởi vì ở mức độ đó chúng ta phải tuân theo các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Và nếu việc một nước lớn có thể xâm lược một nước nhỏ, và cắt một phần lãnh thổ chỉ vì họ muốn, là phá vỡ luật về phương thức chung sống quốc tế của các quốc gia, tôi nghĩ điều đó sẽ gây ra những rắc rối lớn trên toàn thế giới. Nếu chúng ta phá vỡ nguyên tắc cơ bản về sự chung sống hòa bình của các quốc gia, thì tức là anh khuyến khích tất cả các loại tội phạm làm điều tương tự. Vì vậy, hãy cẩn thận.

Cuối cùng, thưa Đức Cha, người có suy nghĩ gì về quyết định của Liên minh Châu Âu trong việc trao tư cách ứng cử viên cho Ukraine?

Đó là một sự kiện lịch sử rất quan trọng đối với đất nước Ukraine tự do. Chúng tôi rất vui vì sự cởi mở này của Liên minh Châu Âu, nhưng đó mới chỉ là bước khởi đầu. Bản thân nó không phải là một cuộc hôn nhân, mà chỉ là sự đính hôn. Tôi hy vọng chúng tôi sẽ tồn tại cho đến khi kết hôn – với tư cách là một nhà nước, là một quốc gia. Và có lẽ tôi muốn lặp lại những lời của Thánh Tôma: “Tôi chỉ tin khi tôi chạm vào.” Thường thường, những quyết định chính trị như vậy có thể được khởi xướng nhưng không bao giờ được hoàn thành.

Tôi hy vọng rằng một ngày nào đó chúng tôi sẽ tham gia với tư cách là thành viên trọn vẹn của Liên minh Châu Âu vì đó là vấn đề về bản sắc của Châu Âu và an ninh của Ukraine. Chúng tôi cần tư cách thành viên đó bởi vì trước hết chúng tôi là một quốc gia Châu Âu, và thứ hai hiện giờ chúng tôi rất cần các giá trị của Châu Âu, những giá trị mà nhiều quốc gia ở phương Tây đã lãng quên.

Thứ ba, Ukraine sẽ phục hồi lại một Liên minh Châu Âu như vậy, mang lại một sinh khí mới, sẽ cho thấy rằng EU không chỉ về kinh tế mà còn về các nguyên tắc. Nguyên tắc quan trọng nhất là nhân phẩm. Đó sẽ là đóng góp rất quan trọng của Ukraine cho Liên minh châu Âu.

Cảm giác của tôi là ngay lúc này đối với sự tín nhiệm về EU như một dự án xây dựng hòa bình thì cần Ukraine hơn Ukraine cần EU. Tuy nhiên, chúng tôi thấy tương lai của mình ở trong gia đình các quốc gia Châu Âu đó.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 3/7/2022]