Thứ Tư, 27 tháng 10, 2021

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Courtesy of Malta Tourism Authority

MTA - Malta Tourism Authority

22/10/21


Ở Malta, có đủ nhà nguyện và nhà thờ để bạn tham dự Thánh lễ mỗi ngày ở một nơi khác nhau trong suốt năm. Nhưng ba nhà thờ chính tòa chính chiếm một vị trí đặc biệt.

Sách Tông đồ Công vụ kể rằng, trên đường đến cuộc xét xử ở Rôma vào năm 60, Thánh Phaolô bị đắm tàu ngoài khơi bờ biển phía tây bắc Malta và trải qua những tháng mùa đông khắc nghiệt ở đó không thể thực hiện chuyến hải trình nào. Trong thời gian ở đây, ngài đã cải đạo viên thống đốc của hòn đảo, Publius (là giám mục và là vị thánh đầu tiên của Malta), chữa lành các bệnh nhân và giành lại các linh hồn cho Chúa Kitô, thiết lập cội nguồn cho Kitô giáo Malta. Thánh Luca kể câu chuyện như sau, trong Tông đồ Công vụ chương 28:

Được cứu rồi, chúng tôi mới biết đảo ấy gọi là Manta. Dân địa phương đối xử với chúng tôi một cách nhân đạo hiếm có. Họ đốt một đống lửa to và tiếp đón tất cả chúng tôi, vì trời đã bắt đầu mưa và lạnh. Ông Phaolô vơ được một mớ cành khô và đang bỏ vào lửa, thì một con rắn độc bị nóng bò ra, cuốn vào tay ông. Người địa phương thấy con vật lủng lẳng ở tay ông thì bảo nhau: “Chắc chắn người này là một tên sát nhân: hắn vừa được cứu khỏi chết dưới biển, nhưng Thần Công Lý đã không để cho sống.” Nhưng ông giũ con vật vào lửa mà không hề hấn gì.”Họ cứ đợi ông sẽ sưng phù lên hoặc lăn ra chết; nhưng đợi lâu mà không thấy có gì khác thường xảy đến cho ông, thì đổi ý và bảo ông là một vị thần.

Gần nơi ấy, có đồn điền của viên quan lớn nhất đảo, tên là Púpliô. Ông tiếp đón chúng tôi và niềm nở cho chúng tôi trú ngụ trong ba ngày. Có ông thân sinh ông Púp-li-ô đang liệt giường vì bị sốt và kiết lỵ. Ông Phaolô vào thăm, cầu nguyện, đặt tay trên ông và chữa khỏi. Thấy thế, các bệnh nhân khác trên đảo cũng đến với ông và được chữa lành. Họ trọng đãi chúng tôi, và khi chúng tôi xuống tàu, họ đã đem tới những gì chúng tôi cần dùng.

Kể từ đó — và cho đến ngày nay — người Malta nằm trong số những người Công giáo nhiệt thành nhất trên thế giới. Với truyền thống kéo dài liên tục hai thiên niên kỷ của di sản Kitô giáo phong phú (cộng đoàn Kitô giáo ở Malta cũng lâu đời như các cộng đoàn ở Êphêsô, Giêrusalem, Côrinhtô và Rôma, nhờ vụ đắm tàu theo sự quan phòng của Thánh Phaolô), điều đó rất dễ hiểu tại sao có nhiều hơn một nhà thờ trên một cây số vuông. Thật vậy, có đủ nhà nguyện và nhà thờ trên quần đảo để bạn mỗi ngày tham dự Thánh lễ ở một nơi khác nhau trong cả năm: tổng cộng có 359 nhà thờ. Ngay cả Comino là hòn đảo nhỏ nhất của quần đảo Malta (được biết đến với những đầm phá màu xanh pha lê nổi bật), cũng có một nhà nguyện — dành cho năm cư dân của nó!

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Polyptych of Saint Paul của Leonardo De Agatiis, được trưng bày tại Bảo tàng Wignacourt. Đây là bảo tàng của Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô, Rabat. Vương cung Thánh đường được xây dựng trên hang động nổi tiếng của Thánh Phaolô, nơi truyền thống cho rằng ngài đã cư trú trong thời gian ở Malta.

Đa phần các nhà thờ này đều được cung hiến cho Đức Trinh nữ Maria, và một số nhà thờ được biết đến là nơi không biết bao ơn sủng đặc biệt, phép lạ đã được ban cho nhiều người trong suốt nhiều thế kỷ. Nhiều bảng tạ ơn cũ kỹ phủ kín những bức tường của Thánh địa Đức Mẹ Mellieha cho những lời cầu nguyện đã được nhận lời — mọi thứ từ những tờ ghi chú viết tay đến quần áo trẻ em nhỏ, và thậm chí cả một mũ bảo hiểm xe máy — khẳng định điều này, và người hành hương từng đoàn từng đoàn đến hoặc để xin Đức Trinh Nữ ban cho một ơn đặc biệt, hoặc để cảm tạ Mẹ về những điều đã nhận được. Lần tới khi bạn lên kế hoạch đến viếng một thánh địa Đức Mẹ, hãy cân nhắc đến Madonna Tal-Ħerba ở Birkirkara; Đền Đức Mẹ Quốc gia Ta’ Pinu, ở Gozo; hay thánh địa cổ kính Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội Qala, đây chỉ là tên của ba trong số rất nhiều nhà thờ và đền thờ Đức Mẹ nguy nga trong cả nước. Tuy nhiên, có ba nhà thờ khác (ba nhà thờ chính tòa của Malta và Gozo) xứng đáng được quan tâm đặc biệt: Nhà thờ Chính tòa lớn Thánh Phaolô ở Mdina; Nhà thờ Đồng Chính tòa Thánh Gioan ở Valletta; và Nhà thờ Chính tòa Mẹ Lên trời ở Gozo.


Nhà thờ Chính tòa Thánh Phaolô, Mdina

Là trụ sở của Tổng giáo phận Công giáo Rôma Malta (một chức năng được chia sẻ với Nhà thờ Đồng Chính tòa Thánh Gioan ở Valletta từ thế kỷ 19), Nhà thờ Chính tòa Thánh Phaolô được thành lập vào thế kỷ 12, được chứng thực bởi tài liệu đầu tiên đề cập chính thức đến nhà thờ: di chúc của Bá tước Malta người Genova, Guillelmus de Malta, có niên đại vào năm 1299. Tuy nhiên, lịch sử của nhà thờ (và của chính địa điểm) còn lâu đời hơn nhiều. Truyền thống cho rằng nhà thờ chính tòa được xây dựng trên chính nơi thống đốc Publius đã gặp Thánh Phaolô ngay sau khi ngài bị đắm tàu. Thật vậy, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những dấu tích của một domus La Mã điển hình (một ngôi nhà giống như cung điện) trong hầm mộ của nhà thờ. Cho dù hầu như không thể khẳng định rằng đây chính là căn nhà riêng của thống đốc Publius, tuy nhiên sự phát hiện này vẫn ủng hộ một cách nào đó điều mà truyền thống luôn tin tưởng; cụ thể là nhà thờ chính tòa nằm tại nơi mà cung điện của Thánh Publius từng tọa lạc. Những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời của nghệ sĩ Mattia Preti theo trường phái Baroque của Caravaggio (một bậc thầy người Calabria được bổ nhiệm làm Hiệp sĩ Dòng Thánh Gioan) là nhân chứng cho truyền thống này. Trong nhà thờ, chúng ta tìm thấy ít nhất ba tác phẩm vĩ đại về Thánh Phaolô của ông: Sự trở lại của Thánh Phaolô, Thánh Phaolô chinh phục người Thổ Nhĩ Kỳ, và Con tàu đắm của Thánh Phaolô. Cả ba tác phẩm được coi là những kiệt tác Baroque theo truyền thống của Caravaggio — trên thực tế, Preti là học trò của Giovanni Battista Caracciolo, và ông lại chính là học trò của Caravaggio.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Là trụ sở của Tổng giáo phận Công giáo Rôma Malta (một chức năng được chia sẻ với Nhà thờ Đồng Chính tòa Thánh Gioan ở Valletta từ thế kỷ 19), Nhà thờ Chính tòa Thánh Phaolô được thành lập vào thế kỷ 12.

Nhà thờ đầu tiên xây dựng ở Malta được cho là cung hiến cho Đức Trinh nữ Maria. Điều này không có gì ngạc nhiên. Đức Trinh Nữ đầy Ơn phúc luôn luôn có một vị trí quan trọng trong các truyền thống Kitô giáo Malta mà một số tuyên bố cho rằng có thể bắt nguồn từ chính vụ đắm tàu của Thánh Phaolô, xét đến việc Thánh Phaolô có Thánh Luca cùng đồng hành, và Tin mừng theo Thánh Luca được coi là nói về Đức Mẹ nhiều nhất trong cả bốn Tin mừng (cốt lõi của một số học thuyết về Đức Mẹ được phát triển sau này có thể được tìm thấy trong đó, qua một số chú giải kinh thánh). Một số người cho rằng có khả năng Thánh Luca đã nói chuyện với người Malta về Thân mẫu của Đấng Cứu Thế, và do đó cộng đồng Kitô giáo sơ khai đã phát triển các hình thức sùng kính Đức Mẹ của riêng mình. Nhiều đền thờ Đức Mẹ ban đầu được xây dựng xung quanh quần đảo cho thấy điều này có thể xảy ra.

Hơn nữa, theo truyền thống, Thánh Luca được ghi nhận là tác giả của bức ảnh Đức Mẹ đầu tiên của Kitô giáo. Các Giáo hội Đông phương coi ngài là “nhà hình tượng học” đầu tiên, chịu trách nhiệm “viết” ra bức ảnh đầu tiên của Đức Trinh Nữ Maria. Các truyền thống của Malta thậm chí còn cho rằng bức ảnh Hodegetria nổi tiếng, được lưu giữ tại Đền thờ Đức Mẹ Quốc gia Mellieha, đã được chính Thánh Luca vẽ trực tiếp trên đá vào năm 60, khi ngài đến đảo. Tuy nhiên, đánh giá gần đây của các nhà sử học nghệ thuật cho thấy phiên bản hiện tại của bức ảnh có niên đại từ thế kỷ 13.

Có thể là như vậy, các nguồn khác giải thích rằng nơi đây đã là một không gian thánh thiêng riêng biệt từ thời xa xưa, với thực tế là tòa nhà được xây dựng trên một địa điểm đắc địa, chi phối kinh thành cổ Mdina (ban đầu được gọi là Maleth), ở một nơi đặc biệt chiến lược, theo kiểu Vệ thành Athen. Trên thực tế, tòa kiến trúc thánh ban đầu (sớm hơn so với domus (tòa nhà) La Mã) gợi nhớ đến những đài kỷ niệm Hy Lạp cổ đại làm chúng ta thường liên tưởng đến Địa Trung Hải.

Nói Mdina đã có một nhà thờ chính tòa vào thế kỷ thứ 6 không phải là không chính xác. Các nguồn tài liệu chính thức của giáo hội cho thấy trường hợp này là đúng. Ví dụ, trong một bức thư đề năm 598, chúng ta đọc thấy Đức Giáo hoàng Grêgôriô Cả đã dứt khoát ra lệnh cho Giám mục lúc bấy giờ là Syracuse thúc đẩy người dân và giới giáo sĩ của Melite bầu chọn một giám mục mới cho chính họ — Byzantine Melite sau đó là một tỉnh của Sicily. Ngày nay, nhà thờ cũng là nơi có bảo tàng lưu giữ nhiều hiện vật và tác phẩm nghệ thuật thuộc các kỷ nguyên khác nhau, bao gồm cả bộ triển lãm hơn 70 bức tranh khắc gỗ của Dürer.


Nhà thờ Đồng Chính tòa Thánh Gioan

Khi so sánh với Nhà thờ Thánh Phaolô, Nhà thờ Đồng Chính tòa Thánh Gioan ở Valletta là một nhà thờ tương đối trẻ. Nhưng điều đó không làm cho nó trở nên kém ấn tượng hơn. Nội thất của nhà thờ là một trong những kiểu mẫu điển hình nhất của kiến trúc Baroque cao cấp ở Châu Âu, tự hào với trần sơn ấn tượng, các bức tường chạm khắc và nhiều bàn thờ phụ. Quả thật, nhà thờ được coi là một trong những nhà thờ chính tòa lớn của thế giới.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Sàn lát đá cẩm thạch đặc biệt của nhà thờ được phủ bởi gần 400 bia mộ của các Hiệp sĩ và sĩ quan của Dòng.

Nhà thờ được xây dựng bởi Dòng Thánh Gioan từ năm 1572 đến 1577, cung hiến cho Thánh Gioan Tẩy Giả, do Hiệp sĩ Thủ lãnh Jean de la Cassière ủy quyền xây dựng là Nhà thờ Cộng đoàn Thánh Gioan, và được thiết kế bởi kiến trúc sư lừng danh Girolamo Cassar người Malta — chịu trách nhiệm xây dựng hầu hết các tòa nhà quan trọng trong thành phố.

Một số yếu tố khác nhau của nhà thờ chính tòa cần được nhấn mạnh. Thứ nhất nhà thờ đồng chính tòa này là nơi lưu giữ linh ảnh nổi tiếng Đức Trinh nữ Philermos trong nhiều thế kỷ. Thật vậy, cả một nhà nguyện đã được xây dựng để lưu giữ linh ảnh này (còn được gọi là Panagia Filevremou, Đức Trinh nữ Philerme, và Đức Bà Đen của Malta), được các Hiệp sĩ của Dòng Thánh Gioan chuyển đến sau khi họ bị trục xuất khỏi đảo Rhodes.

Theo truyền thống, linh ảnh được mang đến đảo Rhodes bởi một người hành hương trở về từ Đất Thánh. Dòng Thánh Gioan xem hai thánh tích là linh thánh nhất của họ – Bàn tay của Thánh Gioan, một món quà của Quốc vương Thổ Nhĩ kỳ gửi đến Hiệp sĩ Thủ lãnh khi Giêrusalem thất thủ, và bức linh ảnh mà Dòng Hiệp sĩ xem là linh thiêng. Ngày nay nhà thờ đồng chính tòa có linh ảnh Đức Bà Caraffa nổi tiếng, được rước hàng năm vào ngày 8 tháng Mười Hai, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Ảnh Đức Bà Caraffa được Cha Girolamo Caraffa dâng cúng cho Nhà thờ Conventual. Sự phối ghép ban đầu của bức ảnh là một bức phù điêu trên đỉnh bàn thờ Gia miện của Thánh Catherine của họa sĩ Mattia Preti trong Nhà nguyện của Langue của Ý. Chỉ sau khi ảnh Đức Bà Philermos bị lấy đi vào năm 1798, thì ảnh Đức Bà Caraffa mới được chuyển đến nhà nguyện này.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Nhà thờ Đồng chính tòa có linh ảnh Đức Bà Caraffa nổi tiếng, được rước hàng năm vào ngày 8 tháng Mười Hai, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 8 tháng Mười Hai.

Tác phẩm thứ hai, bức ảnh vô cùng ấn tượng mô tả sự Tử đạo của Thánh Gioan Tẩy Giả, một trong những tác phẩm nghệ thuật quan trọng nhất của thế kỷ 17 ở Châu Âu, chiếm một vị trí trang trọng như là bàn thờ trong khu ca đoàn. Bức ảnh được vẽ bởi họa sĩ Caravaggio trong suốt 15 tháng ở trên đảo. Bức tranh theo trường phái Mannerism này không chỉ là bức tranh lớn nhất mà Caravaggio từng vẽ, nhưng còn được coi là bức tranh capolavoro (tức là kiệt tác) trong toàn bộ sự nghiệp của ông. Nhà thờ cũng lưu giữ bức tranh Jerome Writing của Caravaggio và bộ sưu tập tranh trang trí nổi tiếng Triumph of the Eucharist của họa sĩ Peter Paul Rubens. Ngoài ra, loạt tranh về Thánh Gioan Tẩy Giả của Mattia Preti (một loạt các bức tranh bao phủ mái vòm và một số bàn thờ khác nhau xung quanh nhà thờ) là một phần bổ sung quan trọng khác cho bộ sưu tập tráng lệ của nhà thờ.

Tác phẩm thứ ba là sàn lát đá cẩm thạch vô cùng đặc biệt của nhà thờ, được phủ bởi gần 400 bia mộ của các Hiệp sĩ và sĩ quan của Dòng. Trên mỗi bia mộ, người ta nhìn thấy gia huy, huy hiệu và văn bia của mỗi Hiệp sĩ. Ngôi mộ sớm nhất có từ năm 1606, 25 năm sau khi nhà thờ được khánh thành.


Nhà thờ Chính tòa Mẹ Lên trời, Gozo

Đời sống đạo đức ở Malta luôn dành một vị trí đặc biệt nổi bật cho Mẹ Lên trời — Mẹ là Bổn mạng của Quần đảo Malta. Thật vậy, Lễ Mẹ Lên trời luôn là lễ lớn nhất trên quần đảo, và lòng sùng ngày lễ được phổ biến rộng rãi: cho đến đầu thế kỷ 17, mỗi giáo xứ đều có ít nhất một nhà thờ Mẹ Lên trời, hoặc ít nhất là một bàn thờ. Ngoài ra, ba trong số các giáo xứ lâu đời nhất ở Quần đảo Malta được cung hiến cho Mẹ Lên Trời: đó là nhà thờ Birkirkara (ngày nay là Vương cung Thánh đường Thánh Helen), có niên đại vào năm 1402; giáo xứ Birmiftuħ (ngày nay là Gudja), được đề cập đến các tài liệu có niên đại năm 1436; và nhà thờ Matrix trong cổ Thành Gozo. Nhà thờ thứ ba này được biết đến nhiều hơn vì là nơi đặt trụ sở của Giáo phận Gozo Công giáo Roma kể từ khi thành lập giáo phận, vào năm 1864.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Tượng Mẹ Lên trời, Bổn mạng của quần đảo Malta, trong nhà thờ chính tòa.

Nhà thờ chính tòa có một vị trí đắc địa trong cổ thành Victoria, ở Gozo. Nó cũng có một lịch sử khá ly kỳ, phản ánh nhiều kỷ nguyên khác nhau của lịch sử Malta và Gozo nói chung.

Như lệ thường ở quần đảo, Cittadella ban đầu là một khu định cư thời tiền sử, trên đó một đền thờ La Mã thờ thần Juno đã được xây dựng. Những vết tích của ngôi đền La Mã thời sơ khai này vẫn là một phần của nhà thờ. Như là kết quả của Kitô giáo hóa Malta và Gozo thời kỳ đầu, ngôi đền đã được chuyển đổi thành một nhà thờ cung hiến cho Theotokos, và một nhà thờ theo phong cách Byzantine được xây dựng bên trên nó. Về phần nhà thờ Byzantine này đã bị phá hủy gần hết trong thời kỳ cai trị của người Ả Rập, vì vậy phải xây dựng một nhà thờ mới sau vụ Trục xuất. Nhà thờ mới này đầu tiên bị người Thổ Nhĩ Kỳ cướp phá vào thế kỷ 16, và sau đó bị hư hại nặng trong trận động đất nổi tiếng năm 1693. Sau đó, người Malta buộc phải phá bỏ nhà thờ này và xây dựng một nhà thờ khác — công trình này được thiết kế bởi kiến trúc sư Lorenzo Gafà nổi tiếng và khánh thành vào năm 1711. Đây là ngôi nhà thờ vẫn còn đứng vững cho đến ngày nay, là trụ sở của Giáo phận Gozo từ năm 1864.

Tòa nhà là một công trình kiến trúc hoàn toàn theo phong cách Baroque, theo hình dạng một thập giá La-tinh. Một tháp chuông cao với năm quả chuông ở phía sau Nhà thờ thay thế cho hai tháp chuông phía trước thường thấy trong kiểu kiến trúc này. Một bức vẽ năm 1739 trên trần nhà thờ tạo ấn tượng như một mái vòm, trong khi thực tế mái nhà thờ phẳng — một kiểu kiến trúc trompe l’oeil cổ điển của Baroque. Bức tranh này là một kiệt tác phối cảnh đến mức đôi khi khó có thể thuyết phục những du khách lần đầu đến thăm quan rằng sự thật là không có mái vòm.

Một bức tượng đáng chú ý là Santa Marija Assunta (tức là Đức Mẹ Lên trời), được làm ở Roma năm 1897, cũng được đặt trong nhà thờ này. Quý độc giả xem loạt ảnh bên dưới để khám phá thêm chi tiết về ba nhà thờ lớn ở Địa Trung Hải này.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Quảng trường Nhà thờ Chính tòa Gozo, dưới ánh trăng. Nhà thờ chính tòa là trụ sở của Giáo phận Công giáo Roma Gozo kể từ khi thành lập giáo phận năm 1864.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Bắn pháo hoa tại nhà thờ Chính tòa Mẹ Lên trời. Lễ Mẹ Lên trời luôn là ngày lễ lớn nhất trên quần đảo, và lòng sùng kính ngày lễ phổ biến rộng rãi trên toàn quần đảo: cho đến đầu thế kỷ 17, mỗi giáo xứ đều có ít nhất một nhà thờ Mẹ Lên trời, hoặc ít nhất là một bàn thờ.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Một bức tranh vẽ năm 1739 trên trần nhà thờ tạo ấn tượng về một mái vòm, trong khi thực tế mái nhà thờ phẳng — một kiểu trompe l’oeil cổ điển của Baroque. Bức tranh này là một kiệt tác phối cảnh đến mức đôi khi khó có thể thuyết phục những du khách lần đầu đến thăm quan rằng thực sự không có mái vòm.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Quảng trường Nhà thờ Chính tòa Gozo. Cittadella ban đầu là một khu định cư thời tiền sử, trên đó một ngôi đền La Mã thờ thần Juno đã được xây dựng. Phần còn lại của ngôi đền La Mã thời sơ khai này vẫn là một phần của nhà thờ chính tòa.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Cung hiến cho Thánh Gioan Tẩy giả, Nhà thờ đồng Chính tòa Thánh Gioan Tẩy giả được xây dựng bởi Dòng Thánh Gioan từ năm 1572 đến năm 1577, do Hiệp sĩ Thủ lãnh Jean de la Cassière ủy quyền là Nhà thờ Cộng đoàn Thánh Gioan, và được thiết kế bởi kiến trúc sư Girolamo Cassar lừng danh người Malta.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Sàn lát đá cẩm thạch đặc biệt của nhà thờ chính tòa Thánh Gioan được phủ bởi gần 400 bia mộ của các Hiệp sĩ và sĩ quan của Dòng. Trên mỗi bia mộ, chúng ta nhìn thấy gia huy, huy hiệu và văn bia của mỗi Hiệp sĩ. Ngôi mộ sớm nhất có từ năm 1606, 25 năm sau khi nhà thờ được khánh thành. Nội thất của nhà thờ là một trong những mẫu điển hình nhất của kiến trúc Baroque cao cấp ở Châu Âu, tự hào với những trần sơn ấn tượng, tường chạm khắc và nhiều bàn thờ phụ. Thật vậy, nhà thờ được coi là một trong những nhà thờ chính tòa tuyệt vời của thế giới.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Bức tranh Sự tử đạo của Thánh Gioan Tẩy giả vô cùng ấn tượng, một trong những tác phẩm nghệ thuật quan trọng nhất của Châu Âu thế kỷ 17, chiếm một vị trí trang trọng như một bàn thờ trong khu ca đoàn của nhà thờ. Bức tranh được vẽ bởi họa sĩ Caravaggio trong suốt 15 tháng ở trên đảo. Bức tranh theo phong cách mannerism này không chỉ là bức tranh lớn nhất mà Caravaggio từng vẽ, mà còn được coi là bức tranh capolavoro (tức là kiệt tác) trong toàn bộ sự nghiệp của ông.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Truyền thống cho rằng nhà thờ chính tòa Mdina được xây dựng trên chính nơi thống đốc Publius đã gặp Thánh Phaolô ngay sau khi ngài bị đắm tàu. Quả thật, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những dấu tích của một domus La Mã điển hình (một nhà giống như cung điện) trong hầm mộ của nhà thờ. Mặc dù hầu như không thể khẳng định rằng đây là nhà riêng của Publius, nhưng phát hiện này vẫn ủng hộ một cách nào đó điều mà truyền thống luôn tin tưởng; đó là nhà thờ tọa lạc tại nơi mà cung điện khi đó thuộc về chính Thánh Publius đã từng hiện hữu.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Là trụ sở của Tổng giáo phận Công giáo Roma Malta (một chức năng được chia sẻ với Nhà thờ chính tòa Thánh Gioan ở Valletta từ thế kỷ 19), Nhà thờ Chính tòa Thánh Phaolô được thành lập vào thế kỷ 12, như được chứng thực bởi tài liệu đầu tiên đề cập chính thức đến Nhà thờ: Di chúc của Bá tước Malta người Genova, Guillelmus de Malta, có niên đại năm 1299.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Nhà thờ đầu tiên được xây dựng ở Malta cung hiến cho Đức Trinh nữ Maria. Điều này không có gì ngạc nhiên. Đức Trinh Nữ đầy Ơn phúc luôn luôn có một vị trí quan trọng trong các truyền thống Kitô giáo Malta mà một số tuyên bố cho rằng có thể bắt nguồn từ chính vụ đắm tàu của Thánh Phaolô, xét đến việc Thánh Phaolô có Thánh Luca cùng đồng hành, và Tin mừng theo Thánh Luca được coi là nói về Đức Mẹ nhiều nhất trong cả bốn Tin mừng (cốt lõi của một số các học thuyết về Đức Mẹ được phát triển sau này có thể được tìm thấy trong đó, qua một số chú giải kinh thánh). Các truyền thống của Malta thậm chí còn cho rằng bức ảnh Hodegetria nổi tiếng, được lưu giữ tại Đền thờ Đức Mẹ Quốc gia Mellieha, đã được chính Thánh Luca vẽ trực tiếp trên đá vào năm 60, khi ngài đến đảo.

Ba nhà thờ chính tòa lớn ở giữa Địa Trung Hải

Những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời của nghệ sĩ Mattia Preti theo trường phái Baroque của Caravaggio (một bậc thầy người Calabria được bổ nhiệm làm Hiệp sĩ Dòng Thánh Gioan) là nhân chứng cho truyền thống này. Trong nhà thờ, chúng ta tìm thấy ít nhất ba tác phẩm vĩ đại về Thánh Phaolô của ông: Sự trở lại của Thánh Phaolô, Thánh Phaolô chinh phục người Thổ Nhĩ Kỳ, và Con tàu đắm của Thánh Phaolô. Cả ba tác phẩm được coi là những kiệt tác Baroque theo truyền thống của Caravaggio — trên thực tế, Preti là học trò của Giovanni Battista Caracciolo, và ông lại chính là học trò của Caravaggio.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 24/10/2021]


Những dây xích của Thánh Phêrô: một “thánh tích kép”

Những dây xích của Thánh Phêrô: một “thánh tích kép”

Những dây xích của Thánh Phêrô: một “thánh tích kép”

Stefano_Valeri | Shutterstock

Daniel Esparza

30/09/21


Truyền thống cho rằng những sợi dây xích của Thánh Phêrô, được lưu giữ trong nhà thờ San Pietro ở Vincoli của Roma, đó là hai bộ dây xích được dùng để giam giữ Thánh Phêrô trong hai lần khác nhau.

Tiểu Vương cung Thánh đường San Pietro của Roma ở Vincoli (nghĩa đen là “Thánh Phêrô bị xiềng xích”) rất nổi tiếng vì là quê hương của kiệt tác Môsê của Michelangelo. Nhưng nhà thờ này còn là chủ nhân của một thánh tích rất đặc biệt, thường không được chú ý.

Nhà thờ còn được gọi là Vương cung thánh đường Eudossiana, và là một ngôi nhà thờ cổ kính. Nó đã được xây dựng lại trên một nền móng cũ vào đầu năm 432, để giữ những sợi dây xích, mà theo truyền thống, được dùng để trói Thánh Phêrô khi ngài bị giam ở Giêrusalem — do đó có tên gọi là Vincoli.

Nữ hoàng Licinia Eudoxia, vợ của Hoàng đế Valentinian III và con gái của Hoàng đế Theodosius II, đã nhận được những sợi dây xích này (một số nguồn cho rằng chỉ là một vài mắt xích) như một món quà từ thân mẫu là Nữ hoàng Aelia Eudocia (một thi sĩ rất tài năng được tôn là thánh bởi các giáo hội Đông phương và Tây phương). Về phần Nữ hoàng Aelia Eudocia đã nhận được những sợi dây xích từ Thánh Iuvenalis, ngài lúc đó là giám mục của Giêrusalem, nơi những sợi dây xích đã được người hành hương tôn kính. Những sợi xích này được cho là đã được đề cập trong trình thuật Giải thoát Thánh Phêrô, trong chương 12 Sách Tông đồ Công vụ. Đoạn văn khá ngắn. Đoạn văn như sau:

Trong đêm trước ngày bị vua Hêrôđê đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: “Đứng dậy mau đi!” Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông. Thiên sứ nói tiếp: “Thắt lưng lại và xỏ dép vào!” Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: “Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!” Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi. Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều dân Do Thái mong muốn tôi phải chịu.”

(Cv 12:6-11.)

Nữ hoàng Licinia Eudoxia sau đó đã dâng những dây xích cho Đức Giáo hoàng Leo I — một tiến sĩ Hội thánh được biết đến nhiều hơn vì đã gặp Attila Hung nô và thuyết phục ông ta không xâm lược nước Ý. Truyền thuyết cho rằng khi đức giáo hoàng so sợi dây xích của Nữ hoàng Eudoxia với sợi xích dùng để giam giữ Thánh Phêrô trước khi ngài tử đạo (rất có thể là trong nhà tù Mamertine, nơi Thánh Phaolô cũng bị giam giữ), cả hai sợi đã hợp nhất lại với nhau một cách kỳ diệu.

Những dây xích này hiện được lưu giữ trong hòm thánh tích dưới bàn thờ chính trong nhà thờ San Pietro ở Vincoli — nhưng bạn có thể tôn kính một vòng mắt xích trong Nhà thờ Thánh Phêrô ở Rutland, Vermont. Mặc dù được thánh hiến vào năm 439 bởi đức Giáo hoàng Sixtus III, Vương cung Thánh đường đã trải qua một số lần trùng tu xuyên suốt lịch sử, đáng chú ý nhất là dưới thời đức Giáo hoàng Julius II (một trong những nhân vật chính của thời kỳ Thượng Phục hưng) trong thời kỳ Cinquecento của Ý.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 22/10/2021]