Thứ Hai, 27 tháng 2, 2023

Kinh Truyền tin của ĐTC Phanxicô ngày 26.02.2023: “Đánh bại ma quỷ bằng cách chống lại hắn bằng Lời Chúa với niềm tin”

“Đánh bại ma quỷ bằng cách chống lại hắn bằng Lời Chúa với niềm tin”

Huấn từ của Đức Thánh Cha trước Kinh Truyền tin

Kinh Truyền tin của ĐTC Phanxicô ngày 26.02.2023: “Đánh bại ma quỷ bằng cách chống lại hắn bằng Lời Chúa với niềm tin tưởng”

© Vatican Media


*******

Vào lúc 12 giờ trưa hôm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc của Điện Tông Tòa để đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và khách hành hương tập trung tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Sau đây là huấn từ của Đức Thánh Cha trước khi đọc Kinh Truyền tin:

______________________________________________


Trước Kinh Truyền tin

Anh chị em thân mến, buongiorno!

Tin Mừng của Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay trình bày cho chúng ta việc Chúa Giêsu ở trong hoang địa, bị ma quỷ cám dỗ (x. Mt 4:1-11). “Ma quỷ” (devil) có nghĩa là “kẻ gây chia rẽ” (divider). Ma quỷ luôn muốn gây chia rẽ, và đó là mục đích mà hắn thực hiện khi cám dỗ Chúa Giêsu. Vậy chúng ta hãy xem hắn muốn chia rẽ Chúa với ai và hắn cám dỗ Người như thế nào.

Ma quỷ muốn chia rẽ Chúa Giêsu với ai? Sau khi lãnh nhận Phép Rửa của ông Gioan ở sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Cha gọi là “Con yêu dấu của Ta” (Mt 3:17), và Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu (x. câu 16). Như vậy, Tin Mừng trình bày cho chúng ta Ba Ngôi Thiên Chúa kết hiệp trong tình yêu. Rồi chính Chúa Giêsu nói rằng Người đến thế gian để làm cho chúng ta cũng được thông phần vào sự hiệp nhất giữa Người và Chúa Cha (x. Ga 17:11). Thay vào đó, ma quỷ làm điều ngược lại: hắn đến để chia rẽ Chúa Giêsu với Chúa Cha và làm Người sao lãng khỏi sứ mệnh hiệp nhất của Người đối với chúng ta. Ma quỷ luôn gây chia rẽ.

Bây giờ chúng ta hãy xem hắn cố gắng làm việc đó như thế nào. Ma quỷ muốn lợi dụng thân phận con người yếu đuối của Chúa Giêsu, vì Ngài đã nhịn đói bốn mươi ngày (x. Mt 4:2). Ác thần sau đó cố gắng truyền dẫn vào người Chúa ba loại “thuốc độc” rất mạnh, để làm tê liệt sứ mệnh hiệp nhất của Người. Những thuốc độc này là sự gắn bó, ngờ vực và quyền lực. Đầu tiên và trên hết là chất độc của sự gắn bó với của cải vật chất, với nhu cầu; bằng những lý lẽ đầy sức thuyết phục, ma quỷ cố gắng thuyết phục Chúa Giêsu: “Ông đang đói, tại sao lại phải ăn chay? Hãy lắng nghe nhu cầu của bản thân và thỏa mãn nó, ông có quyền và sức mạnh: hãy biến đá thành bánh”. Sau đó là chất độc thứ hai, sự nghi ngờ: “Ông có chắc là Chúa Cha muốn điều tốt cho ông không? Hãy thách thức Người đi, phải đe dọa Người chứ! Hãy quăng mình xuống từ đỉnh cao nhất của đền thờ và bắt Người làm những gì ông muốn”. Cuối cùng, quyền lực: “Ông đâu cần Cha của ông làm gì! Tại sao phải chờ đợi các ơn của ông ấy? Hãy đi theo những tiêu chí của thế gian, giành lấy mọi thứ cho ông, và ông sẽ có quyền lực!”. Ba cám dỗ của Chúa Giêsu. Và chúng ta cũng luôn sống giữa những cám dỗ này. Thật kinh khủng, nhưng nó là như vậy, kể cả đối với chúng ta: gắn bó với của cải vật chất, nghi ngờ và khao khát quyền lực là ba cám dỗ phổ biến và nguy hiểm mà ma quỷ dùng để chia rẽ chúng ta khỏi Chúa Cha và khiến chúng ta không còn cảm thấy chúng ta là anh chị em với nhau, để dẫn chúng ta đến sự cô độc và tuyệt vọng. Hắn muốn làm điều này với Chúa Giêsu, hắn muốn làm điều đó với chúng ta: dẫn chúng ta đến sự tuyệt vọng.

Nhưng Chúa Giêsu chiến thắng những cám dỗ. Và Chúa đánh bại chúng bằng cách nào? Bằng cách tránh tranh luận với ma quỷ và trả lời bằng Lời Chúa. Điều này rất quan trọng: bạn không thể tranh luận với ma quỷ, bạn không thể đối thoại với ma quỷ! Chúa Giêsu đương đầu với hắn bằng Lời Chúa. Người trích dẫn ba câu trong Kinh thánh nói về việc tự do thoát khỏi của cải (x. Đnl 8:3), tin tưởng (x. Đnl 6:16), và thờ phượng Thiên Chúa (x. Đnl 6:13), ba câu Kinh Thánh để chống lại cám dỗ. Chúa không bao giờ đối thoại với ma quỷ, Người không thương lượng với hắn, nhưng Người chống lại những lời bóng gió của ma quỷ bằng những Lời hữu ích của Kinh Thánh. Đó cũng là một lời mời gọi đối với chúng ta; chúng ta không thể đánh bại ma quỷ bằng cách thương lượng với hắn, hắn mạnh hơn chúng ta. Chúng ta đánh bại ma quỷ bằng cách chống lại hắn bằng Lời Chúa với niềm tin tưởng. Bằng cách này, Chúa Giêsu dạy chúng ta bảo vệ sự hiệp nhất với Thiên Chúa và hiệp nhất giữa chúng ta chống lại sự tấn công của kẻ gây chia rẽ. Lời Chúa là câu trả lời của Chúa Giêsu trước sự cám dỗ của ma quỷ.

Và chúng ta tự hỏi bản thân: Lời Chúa có vị trí nào trong cuộc đời tôi? Tôi có hướng về Lời trong những cuộc chiến đấu thiêng liêng không? Nếu tôi có một tật xấu hoặc một cám dỗ thường xuyên, tại sao tôi không nhận sự trợ giúp bằng cách tìm kiếm một câu Lời Chúa để phản ứng lại với tật xấu đó? Và khi sự cám dỗ đến, tôi đọc câu Lời Chúa lên, tôi cầu nguyện, tin tưởng vào ân sủng của Chúa Kitô. Chúng ta hãy thử xem, nó sẽ trợ giúp chúng ta trong cơn cám dỗ, nó sẽ giúp chúng ta rất nhiều, để giữa những tiếng nói đang khuấy động trong chúng ta, thì tiếng nói tốt lành của Lời Chúa sẽ vang lên. Xin Mẹ Maria, Đấng đã đón nhận Lời Chúa và với lòng khiêm nhường đã đánh bại tính kiêu ngạo của kẻ chia rẽ, đồng hành với chúng ta trong cuộc đấu tranh thiêng liêng của Mùa Chay.

_______________________________________________


Sau Kinh Truyền tin

Anh chị em thân mến,

Những tin tức đau buồn tiếp tục đến từ vùng Đất Thánh: nhiều người đã bị thiệt mạng, thậm chí cả trẻ em… Làm cách nào để ngăn lại vòng xoáy bạo lực này? Tôi lặp lại lời kêu gọi hãy để cho đối thoại chiến thắng hận thù và báo thù, và tôi cầu xin Chúa cho người Palestine và người Israel, để họ có thể tìm thấy con đường dẫn đến tình huynh đệ và hòa bình, với sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế.

Tôi cũng rất lo ngại về tình hình ở Burkina Faso, nơi các cuộc tấn công khủng bố vẫn tiếp diễn. Tôi mời gọi anh chị em cầu nguyện cho người dân của đất nước thân yêu đó, để bạo lực mà họ phải gánh chịu không làm họ mất niềm tin vào con đường của dân chủ, công lý và hòa bình.

Sáng nay, tôi đau buồn biết tin về vụ đắm tàu ngoài khơi bờ biển Calabria, gần Crotone. Bốn mươi người chết đã được tìm thấy, trong đó có nhiều trẻ em. Tôi cầu nguyện cho từng người trong số họ, cho những người mất tích và cho những người di cư khác còn sống sót. Tôi cảm ơn những người đã cứu trợ và những người đang cung cấp nơi tạm trú. Xin Đức Mẹ nâng đỡ những anh chị em này của chúng ta. Và chúng ta đừng quên thảm kịch chiến tranh ở Ukraine; chiến tranh đã liên tục trong một năm qua. Và chúng ta đừng quên những đau khổ của người dân Syria và Thổ Nhĩ Kỳ do trận động đất.

Cha gửi lời chào đến tất cả anh chị em đến từ nước Ý và từ các quốc gia khác. Cha xin chào anh chị em hành hương đến từ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Mexico và Croatia. Cha chào các tín hữu của Palermo, Montelepre, Termini Imerese và Riese Pio X; các sinh viên của Chủng viện liên vùng Campania ở Napoli; các con thiếu niên từ các giáo xứ thuộc giáo phận Milan; các ứng viên của Bí Tích Thêm Sức từ Cavaion và Sega, Verona; nhóm anh chị em đến từ Limbadi và các con thiếu nhi chuẩn bị Rước Lễ Lần Đầu đến từ Sant’Aurea ở Ostia Antica.

Tôi xin chào Hiệp hội những người hiến tạng Ý đang tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập: Tôi cảm ơn các bạn vì cam kết đoàn kết xã hội và tôi kêu gọi các bạn tiếp tục thúc đẩy sự sống thông qua việc hiến tạng. Xin gửi lời chào đặc biệt đến anh chị em đến nhân Ngày Thế giới về Bệnh hiếm gặp, sẽ diễn ra trong hai ngày tới; Tôi nhắc lại lời động viên đối với các Hiệp hội bệnh nhân và thân nhân của họ; mong rằng chúng ta không bao giờ thiếu sự gần gũi, nhất là với thiếu nhi, để họ cảm nhận được tình yêu và sự dịu dàng của Thiên Chúa.

Và cha chúc tất cả anh chị em ngày Chúa nhật hạnh phúc. Xin đừng quên cầu nguyện cho cha. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng, và arrivederci!



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/2/2023]


Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2023

“Thiên Chúa cũng trải qua Mùa Chay”: Bắt đầu mùa Chay này với Đức Thánh Cha Phanxicô (toàn văn bài giảng)

“Thiên Chúa cũng trải qua Mùa Chay”: Bắt đầu mùa Chay này cùng với Đức Thánh Cha Phanxicô (toàn văn bài giảng)

“Thiên Chúa cũng trải qua Mùa Chay”: Bắt đầu mùa Chay này với Đức Thánh Cha Phanxicô (toàn văn bài giảng)

Photo by Alberto PIZZOLI / AFP

Kathleen N. Hattrup

22/02/23


“Chúng ta có bốn mươi ngày, một ‘thời điểm thuận lợi’ để nhắc nhở bản thân rằng thế giới rộng lớn hơn những nhu cầu cá nhân hẹp hòi của chúng ta…”

Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành Thánh Lễ Thứ Tư Lễ Tro vào ngày 22 tháng Hai năm 2023 tại Vương cung Thánh đường Thánh Sabina, trên Đồi Aventine ở Rome.

Lúc 4:30 chiều, sau ít phút cầu nguyện, đoàn rước sám hối khởi hành từ Nhà thờ Thánh Anselm đến Vương cung Thánh đường Thánh Sabina, cách đó khoảng 350 mét. Đây là sự trở lại với truyền thống Thứ Tư Lễ Tro đã không được tổ chức trong hai năm qua.


___________________________________


“Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ!” (2 Cr 6:2). Với những lời này, thánh Tông đồ Phaolô giúp chúng ta đi vào tinh thần của mùa Chay. Mùa Chay thực sự là “thời gian thuận lợi” để trở về với những gì là quan trọng, để rũ bỏ tất cả những gì đè nặng chúng ta, để được giao hòa với Thiên Chúa, và để thắp lại ngọn lửa của Chúa Thánh Thần bị giấu dưới những lớp tro tàn của nhân tính yếu đuối của chúng ta. Quay trở lại với những gì là trọng yếu. Đó là mùa ân sủng khi chúng ta thực hành những điều Chúa yêu cầu chúng ta ở đầu bài đọc một hôm nay: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta” (Ge 2:12). Hãy trở về với điều trọng yếu: đó là Thiên Chúa.

Nghi thức xức tro bắt đầu cuộc hành trình trở về này. Nó thúc giục chúng ta làm hai việc: trở về với sự thật về chính chúng ta và trở về với Thiên Chúa và anh chị em của chúng ta.

Thứ nhất, trở về với sự thật về chính chúng ta. Tro nhắc nhở chúng ta chúng ta là ai và chúng ta từ đâu đến. Tro đưa chúng ta trở lại với sự thật quan trọng của cuộc sống chúng ta: Chúa là Thiên Chúa duy nhất và chúng ta là công trình do bàn tay Người. Đó là sự thật về con người chúng ta. Chúng ta có sự sống, trong khi Thiên Chúa là sự sống. Người là Đấng Tạo Hóa, trong khi chúng ta là đất sét mỏng manh do tay Người nặn ra. Chúng ta đến từ đất và chúng ta cần thiên đàng; chúng ta cần Chúa. Có Chúa, chúng ta sẽ trỗi dậy từ đống tro tàn, nhưng không có Chúa, chúng ta chỉ là cát bụi. Khi khiêm tốn cúi đầu để nhận tro, chúng ta được nhắc nhở về sự thật này: chúng ta thuộc về Chúa; chúng ta thuộc về Người.

Vì Thiên Chúa “lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi” (St 2:7); chúng ta tồn tại bởi vì Chúa đã thổi hơi thở của sự sống vào chúng ta. Là một người Cha nhân từ và hay thương xót, Thiên Chúa cũng trải qua Mùa Chay, vì Ngài quan tâm đến chúng ta; Người chờ đợi chúng ta; Người chờ đợi sự trở lại của chúng ta. Và Chúa không ngừng thúc giục chúng ta đừng tuyệt vọng, ngay cả khi chúng ta sa ngã trong bụi đất yếu đuối và tội lỗi của mình, vì “Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi” (Tv 103:14). Chúng ta hãy nghe lại những lời ấy: Người nhớ chúng ta là cát bụi. Chúa biết điều này; nhưng chúng ta thường quên điều đó, và nghĩ rằng chúng ta có khả năng tự túc, mạnh mẽ và bất khả chiến bại mà không cần đến Người. Chúng ta khoác lên bộ đồ hóa trang và nghĩ rằng chúng ta giỏi hơn khả năng thực tế của mình. Chúng ta chỉ là cát bụi.

Vì vậy, Mùa Chay là thời gian để nhắc nhở chúng ta ai là Đấng Tạo Hóa và ai là tạo vật. Là thời gian để công bố rằng chỉ một mình Chúa là Thiên Chúa, bỏ đi sự ra vẻ mình có khả năng tự túc và luôn đặt mình vào trung tâm của mọi sự, là đứng đầu lớp, nghĩ rằng chúng ta có thể thành công trong cuộc sống và biến đổi thế giới xung quanh bằng khả năng của mình.

Bây giờ là thời điểm thuận lợi để sám hối, không nhìn vào chúng ta mà bắt đầu nhìn vào bên trong con người chúng ta. Có bao nhiêu điều làm xao lãng và những chuyện lặt vặt khiến chúng ta quên đi điều gì là thực sự quan trọng! Biết bao lần chúng ta bị cuốn vào những mong muốn và nhu cầu của bản thân, đánh mất tầm nhìn cốt lõi của vấn đề, và không nắm bắt được ý nghĩa thực sự của cuộc sống chúng ta trên thế giới này! Mùa Chay là thời gian của sự thật, thời gian bỏ đi những chiếc mặt nạ mà chúng ta đeo lên mỗi ngày để ra vẻ hoàn hảo trong con mắt của thế giới. Như Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng, đây là thời gian để từ bỏ sự giả dối và đạo đức giả: không phải là của người khác, mà của chính chúng ta: Chúng ta hãy nhìn thẳng vào chúng và chống lại những thói xấu đó.

Tuy nhiên, có một bước thứ hai: tro cũng mời gọi chúng ta trở về với Thiên Chúa và với anh chị em của mình. Khi chúng ta trở về với sự thật về bản thân và nhắc nhở bản thân rằng chúng ta không thể tự túc, chúng ta nhận ra rằng chúng ta chỉ tồn tại thông qua các mối tương quan: mối quan hệ ban đầu của chúng ta với Thiên Chúa và mối tương quan thiết yếu với những người khác. Tro mà chúng ta nhận tối nay cho chúng ta biết rằng mọi giả định về sự tự phụ là sai lầm và việc tôn thờ bản thân là phá hoại, giam cầm chúng ta trong sự cô lập và cô đơn: chúng ta nhìn vào gương và tin rằng mình là hoàn hảo, là trung tâm của thế giới.

Thay vào đó, sự sống là một mối tương quan: chúng ta nhận được nó từ Thiên Chúa và từ cha mẹ chúng ta, và chúng ta luôn có thể làm sống lại và đổi mới nó nhờ Chúa và những người Người đặt bên cạnh chúng ta. Vì vậy, Mùa Chay là mùa ân sủng để chúng ta có thể xây dựng lại mối tương quan của mình với Thiên Chúa và với người khác, mở rộng tâm hồn chúng ta trong sự thinh lặng cầu nguyện và thoát ra khỏi pháo đài của sự tự mãn. Mùa Chay là thời gian thuận lợi để chúng ta có thể phá vỡ những xiềng xích của chủ nghĩa cá nhân và sự cô lập của chúng ta, đồng thời tái khám phá những người bạn đồng hành của chúng ta trên hành trình mỗi ngày, qua việc gặp gỡ và lắng nghe. Và một lần nữa học cách yêu thương họ như những người anh chị em.

Chúng ta làm điều này như thế nào? Để thực hiện cuộc hành trình này, để trở về với sự thật về bản thân và trở về với Thiên Chúa và với tha nhân, chúng ta được thúc giục đi theo ba con đường lớn: bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Đây là những cách truyền thống, và không cần sự mới lạ. Chúa Giêsu đã nói rõ ràng: bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Đó không phải là những nghi thức thuần túy mang tính hình thức, mà phải là những hành động thể hiện sự đổi mới của tâm hồn chúng ta. Bố thí không phải là một cử chỉ vội vàng được thực hiện để xoa dịu lương tâm, để bù đắp cho sự mất cân bằng nội tâm của chúng ta; đúng hơn, nó phải là một cách để chạm đến những nỗi đau khổ của người nghèo bằng chính đôi tay và trái tim của chúng ta. Cầu nguyện không phải là một nghi thức, nhưng là một cuộc đối thoại thật sự và yêu thương với Chúa Cha. Ăn chay không phải là một sự sùng kính cổ xưa, mà là một cử chỉ mạnh mẽ để nhắc nhở chúng ta điều gì thực sự quan trọng và điều gì chỉ là phù du. Chúa Giêsu đưa ra “lời khuyên vẫn giữ nguyên giá trị bổ ích cho chúng ta: những cử chỉ bên ngoài phải luôn đi đôi với một tâm hồn chân thành và cách cư xử nhất quán. Thật vậy, việc xé áo của chúng ta có ích gì nếu lòng chúng ta vẫn xa cách Chúa, nghĩa là xa rời sự thiện và công lý?” (ĐỨC BENEDICT XVI, Bài giảng Thứ Tư Lễ Tro, ngày 1 tháng Ba năm 2006). Thông thường, những cử chỉ và nghi thức của chúng ta chẳng có tác động gì đến cuộc sống của mình; chúng vẫn mang tính hời hợt. Có lẽ chúng ta thực hiện chúng chỉ nhằm đạt được sự ngưỡng mộ hoặc quý trọng của người khác. Chúng ta hãy nhớ điều này: trong đời sống cá nhân của chúng ta, cũng như trong đời sống của Giáo hội, những biểu hiện bên ngoài, những phán xét của con người và sự chấp thuận của thế gian chẳng là gì cả; điều duy nhất thực sự quan trọng là sự thật và tình yêu mà Thiên Chúa nhìn thấy.

Nếu chúng ta khiêm tốn đứng trước mặt Người, thì việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay sẽ không chỉ là những biểu hiện bề ngoài, nhưng sẽ bày tỏ con người thật của chúng ta: là con cái của Thiên Chúa, là anh chị em của nhau. Bố thí, bác ái sẽ là dấu chỉ lòng trắc ẩn của chúng ta đối với những người khốn khó, và giúp chúng ta trở về với tha nhân. Cầu nguyện sẽ nói lên ước muốn sâu xa của chúng ta là được gặp gỡ Chúa Cha, và sẽ đưa chúng ta trở lại với Người. Ăn chay sẽ là nơi rèn luyện thiêng liêng, nơi chúng ta vui vẻ từ bỏ những thứ vô dụng đang đè nặng chúng ta, lớn lên trong tự do nội tâm và trở về với sự thật về bản thân. Gặp gỡ Chúa Cha, tự do nội tâm, lòng trắc ẩn.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cúi đầu, nhận tro và để cho tâm hồn nhẹ nhàng. Chúng ta hãy khởi hành trên con đường bác ái. Chúng ta có bốn mươi ngày, một “thời điểm thuận lợi” để nhắc nhở bản thân rằng thế giới rộng lớn hơn những nhu cầu cá nhân hẹp hòi của mình, và để khám phá lại niềm vui, không phải là tích lũy của cải vật chất, mà là quan tâm đến những người nghèo khó và đau khổ. Vì vậy, chúng ta hãy khởi đầu trên con đường cầu nguyện và dùng bốn mươi ngày này để khôi phục lại vị trí tối cao của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta và đối thoại với Người từ tận đáy lòng, chứ không chỉ trong những lúc nhàn rỗi. Chúng ta hãy bắt đầu con đường chay tịnh và sử dụng bốn mươi ngày này để kiểm điểm bản thân, giải phóng bản thân khỏi sự độc tài của những lịch trình dày đặc, những chương trình hành động phủ kín và những nhu cầu thiển cận, đồng thời chọn những điều thực sự quan trọng.

Anh chị em thân mến, chúng ta đừng lơ là ân sủng của mùa chay thánh này, nhưng hãy chăm chú nhìn lên thánh giá và cất bước lên đường, quảng đại đáp lại những thúc giục mạnh mẽ của Mùa Chay. Ở cuối cuộc hành trình, chúng ta sẽ gặp được niềm vui lớn lao hơn đó là Thiên Chúa của sự sống, chúng ta sẽ gặp được Người, Đấng duy nhất có thể vực chúng ta dậy từ những tro tàn.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 24/2/2023]


Vị Linh mục Công giáo từ Ukraine tặng cho Đức Thánh Cha Phanxicô cây thánh giá được tạo ra từ đống đổ nát của chiến tranh

Vị Linh mục Công giáo từ Ukraine tặng cho Đức Thánh Cha Phanxicô cây thánh giá được tạo ra từ đống đổ nát của chiến tranh

Vị Linh mục Công giáo từ Ukraine tặng cho Đức Thánh Cha Phanxicô cây thánh giá được tạo ra từ đống đổ nát của chiến tranh

Cha Grynevych đã tặng Đức Thánh Cha Phanxicô một cây thánh giá làm từ kính vỡ và đống đổ nát của các tòa nhà bị phá hủy ở Kiev ngày 21 tháng Hai, 2023


Courtney Mares

Rome Newsroom, 23 tháng Hai, 2023 / 04:45 am


Cha Vyacheslav Grynevych nhớ rất rõ ngày đầu tiên Nga xâm lược Ukraine một năm trước.

Vị linh mục Công giáo tỉnh giấc vì một cuộc điện thoại: “Cha ơi, dậy ngay đi vì chiến tranh bắt đầu rồi.”

Cha Grynevych nói: “Tôi hiểu rằng cuộc sống của tôi sẽ không bao giờ giống như trước đây.”

Trong vai trò là giám đốc điều hành của tổ chức bác ái Công giáo Caritas-Spes, Cha Grynevych chẳng bao lâu sau phải điều phối các nỗ lực nhân đạo từ một hầm tránh bom ở Kiev, đồng thời tiếp nhận 36 người khác, chủ yếu là trẻ em và thú cưng của các bé trong tuần đầu tiên của cuộc chiến.

Trong năm vừa qua, Cha Grynevych và nhóm của Cha tại Caritas Quốc tế đã làm việc không mệt mỏi để cung cấp thức ăn, chỗ ở, sự bảo vệ cũng như hỗ trợ sức khỏe và tâm lý cho 3 triệu người ở Ukraine bị chiến tranh tàn phá.

Một vài ngày trước ngày kỷ niệm cuộc chiến ở Ukraine, vị linh mục Công giáo đã có cơ hội nói chuyện trực tiếp với Đức Thánh Cha Phanxicô tại nơi ở của ngài ở Vatican để chia sẻ với Đức Thánh Cha những thông tin cập nhật về các nỗ lực nhân đạo của Giáo hội tại thực địa.

Cha Grynevych đã tặng Đức Thánh Cha Phanxicô một cây thánh giá làm từ kính vỡ và đống đổ nát của các tòa nhà bị phá hủy ở Kiev trong một giây phút vô cùng xúc động của cuộc gặp gỡ.

Cha Grynevych nói: “Tôi muốn chia sẻ với ngài những câu chuyện, những địa điểm mà chúng tôi nhìn thấy, con mắt của mọi người.”

Trong một phỏng vấn với CNA tại Rome ngày 22 tháng Hai, vị linh mục chia sẻ rằng ngài thấy Đức Thánh Cha vô cùng đau đớn khi nghe về kinh nghiệm của người Ukraine trong năm chiến tranh vừa qua.

Vị Linh mục Công giáo từ Ukraine tặng cho Đức Thánh Cha Phanxicô cây thánh giá được tạo ra từ đống đổ nát của chiến tranh

Cha Grynevych đã tặng Đức Thánh Cha Phanxicô một cây thánh giá làm từ kính vỡ và gạch vụn của các tòa nhà bị phá hủy ở Kiev ngày 21 tháng Hai, 2023


“Ngài [Đức Thánh Cha Phanxicô] đã lắng nghe và sau đó ngài nói, ‘Hãy nói với mọi người rằng tôi cố gắng làm mọi việc tôi có thể, mọi điều tôi có thể làm.’ Và ngài đã lặp lại lời này một vài lần.”

Cha Grynevych cũng tặng Đức Thánh Cha một bản chép bài suy niệm Chặng Đàng Thánh Giá do người Ukraine viết, họ kể những câu chuyện riêng của họ về các nạn nhân chiến tranh khi họ liên kết với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Chặng đàng Thánh Giá sẽ được phát trực tuyến từ một hầm tránh bom ở Kyiv ngày 24 tháng Hai.

Vị linh mục nói, “Mỗi ngày qua đã trở thành một chặng đàng thánh giá.”

Nối lại những trái tim tan vỡ

Caritas-Spes, được điều hành bởi Giáo hội Công giáo theo nghi thức Latinh của Ukraine, là một trong hai tổ chức liên kết với Caritas Quốc tế tại Ukraine. Tổ chức còn lại là Caritas Ukraine được giám sát bởi Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraine, mà phần lớn người Công giáo Ukraine thuộc về.

Chị Tetiana Stawnychy, chủ tịch Caritas Ukraine, nói với CNA rằng ngày kỷ niệm cuộc xâm lược đánh dấu một thời điểm khi “cuộc sống của hàng triệu người thay đổi sau chỉ một đêm”.

Vị Linh mục Công giáo từ Ukraine tặng cho Đức Thánh Cha Phanxicô cây thánh giá được tạo ra từ đống đổ nát của chiến tranh

Tetiana Stawnychy, chủ tịch Caritas Ukraine, cung cấp viện trợ nhân đạo ở Lviv, Ukraine.


Chị Stawnychy chia sẻ câu chuyện về một người phụ nữ đã phải di tản hai lần vì chiến tranh: “Bà ấy nói, ‘Lần thứ hai thì trái tim tôi tan nát.’”

Ban đầu, người phụ nữ này đến Caritas để được giúp đỡ và hỗ trợ nhân đạo. Sau đó, bà trở lại và bắt đầu công việc thiện nguyện, cuối cùng trở thành một nhân viên.

Trong khi chia sẻ câu chuyện của mình, người phụ nữ nói với chị Stawnychy: “‘Chị biết đấy, mỗi khi tôi giúp một người nào đó, nó giống như một phần trái tim của tôi được kết nối lại với nhau.’”

Vị Linh mục Công giáo từ Ukraine tặng cho Đức Thánh Cha Phanxicô cây thánh giá được tạo ra từ đống đổ nát của chiến tranh

Nhân viên Caritas mang hàng viện trợ tới người dân gần Kiev, Ukraine.

Caritas Spes và Caritas Ukraine đã cùng nhau cung cấp 3,7 triệu mặt hàng thực phẩm và phi thực phẩm; 1,5 triệu đồ dùng vệ sinh, nước sạch; và 192.000 dịch vụ y tế, cũng như hỗ trợ tiền mặt cho 107.600 người và cung cấp chỗ ở cho 637.000 người trong năm qua.

Chị Stawnychy, người đã cố gắng trực tiếp đến thăm gần như tất cả 42 trung tâm viện trợ của Caritas Ukraine trên khắp đất nước, nói rằng chị đã thấy cách thức tạo ra những con đường đoàn kết giữa mọi người là “một tiến trình chữa lành và biến đổi” như thế nào.

Vị Linh mục Công giáo từ Ukraine tặng cho Đức Thánh Cha Phanxicô cây thánh giá được tạo ra từ đống đổ nát của chiến tranh

Nhân viên Caritas Spes mang hàng viện trợ tới người dân gần Kyiv, Ukraine.

Chị nói: “Thật khó khi phải liên tục sống trong tình trạng tổn thương ở Ukraine. Bạn phải tìm cách để giữ trung thành, để phản ứng với những gì bạn nhìn thấy. Đồng thời, tìm cách để nó cũng không hủy hoại bạn. Vậy làm cách nào để bạn tìm được tính kiên cường đó? Một lần nữa, cách chúng tôi tìm thấy nó là tiếp tục giúp đỡ mọi người và đó thực sự là điều mang lại cho chúng tôi sự sống. Và tôi thấy điều đó ở mọi nơi.” Chị Stawnychy nói: “Đây là hành động yêu thương tiếp tục diễn ra giữa chiến tranh và sự tàn phá.”

Chị nói: “Chiến tranh xé toạc cốt lõi ý nghĩa của con người vì nó chọc thủng các mối quan hệ và nó tạo ra sự nghi ngờ vì đó là một sự tấn công. Và rồi tôi cảm thấy công việc mà Giáo hội làm và công việc mà viện trợ nhân đạo đang làm hoặc có thể làm có khả năng sửa chữa điều đó, để chữa lành nó, để chạm vào những gì được tạo ra bởi chiến tranh và để cho người khác cảm nhận được nơi an toàn bên trong đó, cảm nhận sự an toàn đó bằng cách thiết lập lại tình yêu và mối quan hệ.”




[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/2/2023]


Thứ Năm, 23 tháng 2, 2023

Tiếp kiến chung của ĐTC Phanxicô - Bài giáo lý thứ 5 về nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng: Chúa Thánh Thần là vai chính của sự loan báo

Chúa Thánh Thần là vai chính của sự loan báo

Bài giáo lý thứ 5 của Đức Thánh Cha Phanxicô về nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng

Tiếp kiến chung của ĐTC Phanxicô - Bài giáo lý thứ 5 về nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng: Chúa Thánh Thần là vai chính của sự loan báo

Vatican Media


*******

Buổi tiếp kiến sáng nay được tổ chức lúc 9:00 sáng tại Khán phòng Phaolô VI, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ các nhóm khách hành hương và tín hữu đến từ nước Ý và khắp nơi trên thế giới.

Trong huấn từ bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha, tiếp tục loạt bài giáo lý về sự nhiệt tâm rao giảng Tin mừng: lòng nhiệt thành tông đồ của người tín hữu, tập trung suy niệm về chủ đề: “Vai chính của việc loan báo: Chúa Thánh Thần” (Bài đọc: Mt 28:18-20).

Sau phần tóm lược bài giáo lý của ngài bằng một số ngôn ngữ khác nhau, Đức Thánh Cha đã ngỏ lời chào đặc biệt đến các tín hữu hiện diện. Sau đó, ngài đưa ra lời kêu gọi cho Ukraine một năm sau khi cuộc xung đột bắt đầu.

Buổi Tiếp kiến chung kết thúc với Kinh Lạy Cha và Phép lành Tòa Thánh.

__________________________________________________


Bài giáo lý của Đức Thánh Cha

Giáo lý. Nhiệt tâm rao giảng Tin mừng: lòng nhiệt thành tông đồ của người tín hữu 6. Vai chính của việc loan báo: Chúa Thánh Thần

Anh chị em thân mến, chào mừng anh chị em!

Trong hành trình giáo lý của chúng ta về sự nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, hôm nay chúng ta bắt đầu từ những lời của Chúa Giêsu mà chúng ta đã nghe: ‘Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Mt 28:19). Đấng Phục Sinh nói: ‘Hãy đi, không phải để nhồi sọ, không phải để cải đạo, không phải, nhưng để chuẩn bị các môn đệ, tức là cho mọi người cơ hội tiếp xúc với Chúa Giêsu, để hiểu biết và yêu mến Ngài một cách tự do. Hãy đi và làm phép rửa: làm phép rửa có nghĩa là dìm mình xuống nước; và như vậy, trước khi thể hiện một hành động phụng vụ, nó diễn tả một hành động vô cùng quan trọng: đắm chìm đời sống một người trong Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần; để mỗi ngày cảm nhận được niềm vui về sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng gần gũi với chúng ta như người Cha, như người Anh, như Thần Khí hoạt động trong chúng ta, trong tinh thần của chúng ta.” Chịu phép rửa là đắm mình trong Thiên Chúa Ba Ngôi.

Khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Ngài – và với cả chúng ta – ‘Hãy đi!’, Ngài không chỉ truyền đạt một lời nói. Không. Ngài đồng thời thông ban Chúa Thánh Thần, vì chỉ nhờ Ngài, nhờ Thần Khí, con người mới có thể đón nhận và thi hành sứ vụ của Chúa Kitô (x. Ga 20:21-22). Thật vậy, các Tông Đồ vì sợ hãi nên đã đóng chặt cửa Phòng Tiệc Ly cho đến ngày Lễ Ngũ Tuần và Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các ông (x. Cv 2:1-13). Và trong khoảnh khắc đó, nỗi sợ hãi biến mất, và với quyền năng của Người, những người ngư phủ đó, hầu hết là những người không biết chữ, sẽ thay đổi thế giới. ‘Nhưng nếu họ không thể nói…?’ Nhưng chính lời của Thần Khí, sức mạnh của Thần Khí đã đưa họ tiến lên để thay đổi thế giới. Do đó, việc loan báo Tin Mừng chỉ được thực hiện trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng đi trước các nhà truyền giáo và chuẩn bị tâm hồn: Ngài là ‘động cơ loan báo Tin Mừng’.

Chúng ta khám phá ra điều này trong sách Công Vụ Tông Đồ, trong đó trên mỗi trang chúng ta thấy rằng vai chính của việc loan báo không phải là Phêrô, Phaolô, Stêphanô hay Philipphê, mà là Chúa Thánh Thần. Tiếp tục với sách Công vụ, một thời điểm quan trọng trong buổi đầu của Giáo hội được kể lại, và nó cũng nói lên rất nhiều điều cho chúng ta. Khi đó cũng như bây giờ, không thiếu những sự khổ não, những thời khắc rất đẹp và khoảnh khắc không mấy đẹp, những niềm vui đi kèm với lo lắng, cả hai điều đó. Nhất là nỗi lo: làm thế nào để đối xử với những người ngoại đạo đến với đức tin, chẳng hạn với những người không thuộc dân tộc Do Thái. Họ có bị buộc phải tuân theo các quy định của Luật Môsê hay không? Đây không phải là vấn đề nhỏ đối với những người đó. Từ đó hình thành nên hai nhóm, giữa những người coi việc tuân thủ Luật là điều rất cần thiết và những người không coi đó là quan trọng. Để phân định, các Tông đồ đã tập hợp trong cuộc họp được gọi là ‘Công đồng Giêrusalem’, công đồng đầu tiên trong lịch sử. Làm thế nào để giải quyết tình trạng tiến thoái lưỡng nan? Các ông có thể tìm đến một sự thỏa hiệp tốt đẹp giữa truyền thống và sự đổi mới: một số quy tắc được tuân thủ và những quy tắc khác bị gạt sang một bên. Tuy nhiên, các Tông đồ không chạy theo sự khôn ngoan của con người để tìm kiếm một sự cân bằng khéo léo giữa cái này và cái kia, họ không làm theo con đường này, nhưng thuận theo công việc của Thần Khí, Đấng dự liệu cho họ bằng cách ngự xuống người dân ngoại cũng như Người đã ngự xuống trên họ.

Và do đó, loại bỏ hầu hết mọi nghĩa vụ liên quan đến Luật pháp, họ truyền đạt các quyết định cuối cùng, được đưa ra – và đây là những gì các ông viết – ‘bởi Thánh Thần và chúng tôi’ (xem Cv 15:28), và việc này hóa ra là ‘Chúa Thánh Thần ở cùng chúng tôi’, và các Tông đồ luôn hành động theo cách này. Cùng nhau, không chia rẽ, mặc dù có những sự nhạy cảm và quan điểm khác nhau, họ lắng nghe Thánh Thần. Và Người dạy một điều, mà ngày nay cũng có giá trị: mọi truyền thống tôn giáo đều hữu ích nếu nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc gặp gỡ Chúa Giêsu, mọi truyền thống tôn giáo đều hữu ích nếu nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúng ta có thể nói rằng quyết định lịch sử của Công đồng đầu tiên, điều mà chúng ta cũng được hưởng lợi ích, được thúc đẩy bởi một nguyên tắc, nguyên tắc loan báo: mọi sự trong Giáo hội phải phù hợp với những đòi hỏi của việc loan báo Tin Mừng; không theo quan điểm của những người bảo thủ hay cấp tiến, mà là việc Chúa Giêsu đến với cuộc sống của mọi người. Do đó, mọi sự lựa chọn, mọi cách sử dụng, mọi cơ cấu và mọi truyền thống phải được đánh giá trên cơ sở liệu những việc đó có ưu tiên cho việc rao giảng Đức Kitô hay không. Và khi các quyết định được tìm thấy trong Giáo hội – chẳng hạn những chia rẽ về ý thức hệ: ‘Tôi bảo thủ vì…’ ‘Tôi cấp tiến vì…’ Nhưng Chúa Thánh Thần ở đâu? Hãy lưu ý rằng Tin Mừng không phải là một ý tưởng, Tin Mừng không phải là một hệ tư tưởng: Tin Mừng là một lời loan báo chạm đến con tim bạn và làm cho bạn thay đổi tâm hồn, nhưng nếu bạn trú ẩn trong một ý tưởng, một ý thức hệ, dù là cánh hữu hay cánh tả hoặc ở giữa, bạn đang biến Tin Mừng thành một đảng chính trị, một ý thức hệ, một câu lạc bộ của con người. Tin Mừng luôn trao tặng cho bạn sự tự do này của Thánh Thần, Đấng hoạt động trong bạn và đưa bạn tiến tới. Và ngày nay chúng ta được yêu cầu nắm lấy sự tự do của Tin Mừng và cho phép bản thân được Thần Khí thúc đẩy.

Bằng cách này, Chúa Thánh Thần soi sáng con đường của Giáo hội. Quả thật, Người không những là ánh sáng của tâm hồn; Người là ánh sáng định hướng cho Giáo hội: Người đem đến sự rõ ràng, giúp phân biệt, giúp phân định. Đây là lý do tại sao cần phải luôn khẩn cầu Người; hôm nay chúng ta hãy làm như vậy, ngay vào đầu Mùa Chay. Bởi vì, là Giáo hội, chúng ta có thể có thời gian và không gian được xác định rõ ràng, các cộng đoàn, các tổ chức và phong trào được tổ chức tốt, nhưng không có Chúa Thánh Thần, mọi thứ vẫn không có sức sống. Tổ chức… sẽ không hữu hiệu, nó không đủ: chính Chúa Thánh Thần mang lại sức sống cho Giáo hội. Giáo hội, nếu không cầu nguyện với Người và khẩn xin Người, thì Giáo hội sẽ tự khép kín mình trong những cuộc tranh luận vô ích và mệt mỏi, trong những sự phân cực chán ngắt, trong khi ngọn lửa sứ vụ bị dập tắt. Thật buồn khi thấy Giáo hội dường như chẳng khác gì một nghị viện. Giáo hội là một điều gì đó khác. Giáo Hội là cộng đoàn gồm những người tin cậy và loan báo Chúa Giêsu Kitô, nhưng do Chúa Thánh Thần tác động, chứ không phải do lý trí riêng. Vâng, bạn sử dụng lý trí của mình, nhưng Thánh Thần đến soi sáng và tác động nó. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta ra đi, thúc giục chúng ta loan báo đức tin để khẳng định mình trong đức tin, ra đi trên con đường sứ vụ để khám phá ra chúng ta là ai. Đó là lý do tại sao Thánh Tông đồ Phaolô khuyến cáo: ‘Anh em đừng dập tắt Thần Khí’ (1 Tx 5:19). Đừng dập tắt Thần Khí. Chúng ta phải thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy khẩn cầu Người, chúng ta hãy xin Người thắp lên ánh sáng của Người trong chúng ta mỗi ngày. Chúng ta hãy làm điều này trước mỗi cuộc gặp gỡ, để trở thành người tông đồ của Chúa Giêsu với những người chúng ta gặp gỡ. Đừng dập tắt Thần Khí, dù là trong cộng đoàn hay trong mỗi con người chúng ta.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy bắt đầu và bắt đầu trở lại từ Chúa Thánh Thần, với tư cách là Giáo hội,. ‘Rõ ràng điều quan trọng là khi chúng ta lên kế hoạch mục vụ, chúng ta bắt đầu từ những cuộc khảo sát, phân tích xã hội học, liệt kê những khó khăn, liệt kê những kỳ vọng và thậm chí cả những than phiền, điều này phải được thực hiện, để chạm đến thực tế. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn nhiều là hãy bắt đầu từ những kinh nghiệm của Thần Khí: đó mới là sự ra đi thực sự. Và do đó, cần phải tìm kiếm chúng, liệt kê chúng, nghiên cứu chúng, giải thích chúng. Đó là một nguyên tắc cơ bản mà trong đời sống thiêng liêng, nó được gọi là tính ưu việt của niềm an ủi so với sự u sầu. Trước hết có Thần Khí là Đấng an ủi, hồi sinh, soi sáng, tác động; thì cũng sẽ có sự u sầu, đau khổ, tăm tối, nhưng nguyên tắc để thích nghi trong bóng tối là ánh sáng của Thần Khí’ (C. M. Martini, Truyền Giáo trong Sự An Ủi của Thần Khí, 25 tháng 9, 1997). Đây là nguyên tắc để hướng dẫn chúng ta trong những điều chúng ta không hiểu, trong những sự lộn xộn, ngay cả trong bóng tối lớn như vậy, đó là điều quan trọng. Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình, chúng ta hãy tự hỏi xem chúng ta có mở lòng với ánh sáng này không, liệu chúng ta dành không gian cho ánh sáng đó: tôi có khẩn cầu Chúa Thánh Thần không? Mỗi người chúng ta hãy trả lời cho chính mình. Có bao nhiêu anh chị em cầu nguyện với Chúa Thánh Thần? “Không, thưa cha, con cầu nguyện với Đức Mẹ, con cầu nguyện với các Thánh, con cầu nguyện với Chúa Giêsu, đôi khi con đọc Kinh Lạy Cha, con cầu nguyện với Chúa Cha…” “Thế còn Chúa Thánh Thần? Bạn không cầu nguyện với Chúa Thánh Thần sao, là Đấng đánh động tâm hồn bạn, Đấng mang đến cho bạn niềm an ủi, Đấng mang đến cho bạn khát khao loan báo Tin Mừng, dấn thân truyền giáo? Tôi có cho phép mình được Người hướng dẫn không, Đấng mời gọi tôi không khép kín trong bản thân mà hãy mang đến Chúa Giêsu, làm chứng cho tính ưu việt của sự an ủi của Thiên Chúa đối với sự u sầu của thế giới? Xin Đức Mẹ, Đấng đã thấu hiểu điều này, giúp chúng ta hiểu được nó.

____________________________________

Lời chào đặc biệt

Cha gửi lời chào thân ái đến anh chị em hành hương nói tiếng Anh tham dự buổi tiếp kiến chung hôm nay, đặc biệt là các nhóm đến từ Hà Lan, Philippines và Hoa Kỳ. Xin cho hành trình Mùa Chay mà chúng ta bắt đầu hôm nay dẫn đưa chúng ta đến Lễ Phục Sinh với tâm hồn được thanh tẩy và đổi mới bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Cha khẩn xin niềm vui và sự bình an của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, đổ xuống trên anh chị em và gia đình.

____________________________________________________

LỜI KÊU GỌI

Anh chị em thân mến,

Hai ngày nữa, ngày 24 tháng Hai, sẽ là tròn một năm kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược Ukraine, kể từ khi bắt đầu cuộc chiến phi lý và tàn ác này. Một kỷ niệm buồn! Số người chết, bị thương, người tị nạn và người di tản, sự tàn phá, thiệt hại kinh tế và xã hội đã nói lên tất cả. Xin Chúa tha thứ cho quá nhiều tội ác và quá nhiều bạo lực. Người là Thiên Chúa của hòa bình. Chúng ta hãy gần gũi với những người dân Ukraine đau khổ, họ tiếp tục chịu đau khổ, và chúng ta hãy tự hỏi: đã có gì được thực hiện để ngừng chiến tranh chưa? Tôi kêu gọi những người có thẩm quyền đối với các quốc gia hãy đưa ra một cam kết cụ thể để chấm dứt xung đột, đạt được một lệnh ngừng bắn và bắt đầu các cuộc đàm phán hòa bình. Những gì được xây dựng trên đống đổ nát sẽ không bao giờ là một chiến thắng thực sự!



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 23/2/2023]

Đức Thánh Cha: “Giáo dục giúp các thế hệ trẻ phát triển”

Đức Thánh Cha: “Giáo dục giúp các thế hệ trẻ phát triển”

Tiếp phái đoàn trường Đại học Sulkhan-Saba Orbeliani Tbilisi (Georgia)

Đức Thánh Cha: “Giáo dục giúp các thế hệ trẻ phát triển”

Vatican Media


*******

Sáng nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp Phái đoàn từ Đại học Sulkhan-Saba Orbeliani của Tbilisi (Georgia) trong buổi tiếp kiến tại Điện Tông Tòa.

Sau đây là diễn từ của Đức Thánh Cha với những người hiện diện tại buổi tiếp kiến:

________________________________________________


Diễn từ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, gamarjobat! [Chào anh chị em!]

Tôi cảm ơn Đức Tổng Giám mục Pasotto vì những lời của ngài, bắt đầu bằng một nhịp khoan thai trầm buồn: “Ai có thể nghĩ rằng…”, sự u uất của những kỷ niệm… Cảm ơn, cảm ơn Đức Cha. Và tôi xin chào mừng tất cả anh chị em, các giáo sư, sinh viên và bạn bè của Đại học Sulkhan-Saba Orbeliani, trường vừa mới kỷ niệm 20 năm thành lập: ghilotsav! [Những lời chúc tốt nhất!]. Trường còn trẻ, hai mươi tuổi…

Cảm ơn anh chị em đến thăm, và cảm ơn vì những gì anh chị em làm: anh chị em đưa ra một mẫu gương điển hình về việc nghiên cứu văn hóa cách say mê và quan tâm đến những điều tốt đẹp vô giá, đó là việc đào tạo sự phát triển cho những lớp người trẻ. Giáo dục làm công việc này: nó giúp các thế hệ trẻ lớn lên, khám phá và vun trồng những gốc rễ tươi tốt nhất, để chúng có thể đơm hoa kết trái. Điều này rất phù hợp với bản sắc của Georgia, một quốc gia non trẻ nhưng có lịch sử lâu đời, một vùng đất được Thiên Chúa chúc phúc, nơi tôi lưu giữ những kỷ niệm hạnh phúc. Tôi nhớ đến Đức Thượng phụ Ilia – một con người tuyệt vời! Anh chị em biết không, khi tôi hơi buồn, tôi nghe nhạc của ngài, những bài hát của ngài: nó làm tôi vui! Ngài rất giỏi, một người của Chúa mà tôi luôn nhớ đến trong lời cầu nguyện và tôi thích nghe những sáng tác âm nhạc đáng ngưỡng mộ của ngài. Tôi ghi nhớ trong lòng những cuộc gặp gỡ mà chúng tôi đã có, nhất là tại Nhà Thờ Chánh Tòa Thượng phụ, khi chúng tôi đứng bên nhau bên chiếc áo dài của Chúa Kitô, chiếc áo dài mà Tin Mừng mô tả là “không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới” (Ga 19:23), và theo truyền thống, tượng trưng cho sự hiệp nhất của Giáo hội, Thân thể Chúa Kitô. Trường đại học của anh chị em cũng là một ví dụ rất đẹp về sự hợp tác hiệu quả giữa người Công giáo và Chính thống giáo trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục. Ngoài ra, tôi không quên loại bombino mà Đức Thượng phụ Ilia bắt tôi thử: nguy hiểm phải không? Mạnh, nhưng rất ngon!

Tôi biết rằng trong ngôn ngữ Georgia cao quý, thuật ngữ giáo dục, “ganatleba”, rất thú vị: nó có gốc từ chữ ánh sáng và gợi lên sự dịch chuyển từ tình trạng mơ hồ của việc thiếu hiểu biết đến sự sáng láng của kiến thức. Giáo dục, đối với anh chị em, có nghĩa là trở lại với ánh sáng; nó là một từ đồng nghĩa với từ Khai sáng. Điều này rất có ý nghĩa: nó khiến chúng ta nghĩ đến hình ảnh một người thắp đèn trong một căn phòng tối. Không có gì bên trong bị thay đổi, nhưng diện mạo của mọi thứ thay đổi. Kiến thức đạt được tại trường đại học của anh chị em cũng thế, nhằm mục đích đặt phẩm giá của con người ở trung tâm. Do đó, thông qua nghiên cứu và cam kết, người ta có thể đạt được sự tự tri, như lời sấm truyền xa xưa của Hy lạp cổ đại đã nói, kiến thức bản thân, γνῶθι σαυτόν. Và nó cũng vô cùng quan trọng đối với đức tin, đến nỗi một tu sĩ cổ đã viết: Bạn có muốn biết Thiên Chúa không? Hãy bắt đầu từ việc hiểu biết chính mình (EVAGRIUS PONTICUS, Sentences, Rome 2020, 72).

Cần phải có sự khai sáng tri thức hữu ích này, trong khi thế giới đang dày đặc bóng tối của hận thù, thường xuất phát từ sự lãng quên và thờ ơ. Vâng, chính sự lãng quên và thờ ơ thường làm cho mọi thứ trở nên tăm tối và không rõ ràng, trong khi văn hóa và giáo dục phục hồi lại ký ức về quá khứ và soi sáng cho hiện tại. Điều này rất cần thiết cho sự phát triển của một người trẻ tuổi, cũng như của một xã hội bởi vì, như một người cha già của đất nước anh chị em đã từng nói, “sự sụp đổ của một dân tộc bắt đầu khi ký ức về quá khứ chấm dứt” (I. CHAVCHAVADZE, People and History, in Iveria, 1888). Sự sụp đổ của một dân tộc bắt đầu khi ký ức về quá khứ chấm dứt. Ngược lại, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, “mọi điều đều có thể đối với một người có học thức” (ID. Letters of a Traveller, Santa Maria di Castellabate, 2021, 59). Văn hóa của Georgia mời gọi chúng ta giữ cho ánh sáng của ngọn đèn giáo dục luôn tỏa sáng và cửa sổ đức tin luôn rộng mở, bởi vì cả hai đều soi sáng những căn phòng của cuộc đời. Không phải ngẫu nhiên, gốc của từ ánh sáng trong tiếng Georgia xuất hiện cả trong từ giáo dục phép rửa tội, qua đó liên kết văn hóa và đức tin.

Các bạn thân mến, lịch sử Georgia kể về nhiều giai đoạn chuyển đổi từ bóng tối sang ánh sáng, bởi vì đất nước của các bạn luôn tìm cách trỗi dậy và tỏa sáng, ngay cả nhiều lần trong suốt nhiều thế kỷ, khi đất nước này phải hứng chịu các cuộc xâm lược và đô hộ của ngoại bang. Và tôi nghĩ đến mảnh đất vẫn còn xa cách đó. Dân tộc của anh chị em, vui vẻ và can đảm, chào đón và yêu thương sự sống, đã biết cách nuôi dưỡng một thái độ tích cực, ngay cả trong những thời kỳ ảm đạm nhất, chính nhờ đức tin và văn hóa của họ. Trong đó, vai trò của Giáo hội Công giáo rất có giá trị. Giáo hội đã tạo điều kiện cho những mở mang văn hóa hiệu quả mang lại lợi ích cho lịch sử của đất nước. Anh chị em đại diện cho sự đóng góp liên tục đó, và thật tuyệt vời khi anh chị em đã nuôi dưỡng việc phục vụ của cộng đoàn Công giáo trên đất Georgia cách vui vẻ và xây dựng, để nó có thể là một hạt giống đơm hoa kết trái cho tất cả mọi người. Tôi mời gọi anh chị em hãy tiếp tục sự phục vụ khiêm nhường và huynh đệ này; tôi biết rằng, thêm vào với nhiều phân khoa khác nhau hiện đã có, anh chị em đang bổ sung thêm phân khoa y học, nó sẽ mang lại rất nhiều điều tốt đẹp.

Vai trò tạo những không gian và xây dựng cầu nối vì lợi ích của đất nước cho người dân được chạm khắc cho tên học Viện của anh chị em, ngài Sulkha-Saba Orbeliani vĩ đại, nhà ngoại giao tinh hoa của Georgia, một con người văn hóa nổi tiếng và cởi mở. Người Georgia, bắt đầu từ những người trẻ, xứng đáng có nhiều cơ hội hơn. Đồng thời, chủ nghĩa nhân văn điển hình của Georgia, với nét độc đáo và vẻ đẹp của nó, xứng đáng được đánh giá cao ở những nơi khác, với nghệ thuật, văn học, âm nhạc và nhiều cách thể hiện có giá trị khác, luôn có thể được làm phong phú thông qua sự trao đổi đầy tôn trọng với các nền văn hóa khác. Ánh sáng cũng là một ví dụ cho chúng ta về điều này: nó không tồn tại để được nhìn thấy, mà để cho phép nhìn thấy. Ánh sáng không tồn tại để được nhìn thấy, nhưng để nhìn thấy xung quanh và để thấy nhiều hơn: văn hóa cũng vậy, nó mở ra những chân trời và mở rộng những giới hạn.

Vì vậy, tôi hy vọng rằng anh chị em có thể là “ánh sáng dịu dàng” cho nhiều người trẻ, khi một lần nữa tôi nhắc lại lòng cảm kích của tôi đối với những gì anh chị em làm. Và tôi xin anh chị em, xin hãy nhớ đến tôi trong lời cầu nguyện của anh chị em. Didi madloba [Cảm ơn anh chị em rất nhiều].

_____________________________________

13 tháng Hai 2023


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 15/2/2023]


Thứ Ba, 21 tháng 2, 2023

Huấn từ của Đức Thánh Cha về Mục tử và Giáo hữu: Khám phá những cách thức tham gia

Diễn từ của Đức Thánh Cha về Mục tử và Giáo hữu: Khám phá những cách thức tham gia

Presidents And Leaders Of The Episcopal Commissions For The Laity. Photo Vatican Media

Huấn từ của Đức Thánh Cha về Mục tử và Giáo hữu: Khám phá những cách thức tham gia

Diễn từ của Đức Thánh Cha với những tham dự viên Hội nghị do Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống tổ chức.

18 tháng Hai, 2023 16:18

ZENIT STAFF



Vào sáng thứ Bảy, ngày 18 tháng Hai, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ các tham dự viên Hội nghị Quốc tế dành cho Chủ tịch và Người đại diện của các Ủy ban Giám mục về Giáo dân tại Khán phòng Thượng Hội đồng Giám mục trong Thành Vatican. Hội nghị diễn ra từ ngày 16 đến ngày 18 tháng Hai và tập trung vào chủ đề “Các mục tử và giáo hữu được kêu gọi đồng hành với nhau”.

Sau đây là diễn từ của Đức Thánh Cha.

_____________________________________________


Tôi cảm ơn Đức Hồng Y Farrell và tôi xin chào anh chị em là những đại diện các Ủy ban Giám mục về Giáo dân, các nhà lãnh đạo của những Hiệp hội và Phong trào Giáo hội, các vị chức sắc của Bộ và tất cả anh chị em hiện diện.

Anh chị em đến từ nhiều quốc gia khác nhau để suy tư về trách nhiệm chung của các Mục tử và tín hữu giáo dân trong Giáo hội. Tiêu đề Hội nghị của anh chị em nói lên một “lời kêu gọi” để “cùng nhau tiến về phía trước”, do đó đặt chủ đề này trong bối cảnh rộng lớn hơn của sự hiệp hành. Con đường mà Thiên Chúa đang chỉ ra cho Giáo hội chính là con đường của một kinh nghiệm hiệp thông và đồng hành với nhau cách mạnh mẽ và cụ thể hơn. Người yêu cầu Giáo hội bỏ lại phía sau những con đường hành động tách biệt, trên những đường song song không bao giờ gặp nhau. Giáo sĩ tách rời khỏi giáo dân, những người thánh hiến tách rời khỏi giáo sĩ và tín hữu; đức tin trí tuệ của một số giới tinh hoa nào đó tách biệt với đức tin của người dân thường; Giáo triều Rôma tách biệt với các Giáo hội địa phương, các Giám mục tách biệt với các linh mục; người trẻ tách biệt khỏi người già, vợ chồng và gia đình tách thoát ly khỏi đời sống cộng đoàn, các Phong Trào Đặc Sủng tách biệt khỏi giáo xứ, v.v. Đây là sự cám dỗ tồi tệ nhất ở thời điểm hiện tại. Giáo Hội còn một chặng đường dài phía trước để sống như một thân thể, như một dân tộc đích thực được hiệp nhất bởi cùng một niềm tin vào Chúa Kitô Đấng Cứu Thế, được làm sống động bởi cùng một Thần Khí thánh thiện và được hướng đến cùng một sứ vụ loan báo tình yêu thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Một dân tộc hiệp nhất trong sứ vụ

Khía cạnh cuối cùng này rất quan trọng: một dân tộc hiệp nhất trong sứ vụ. Đây là cái nhìn sâu sắc mà chúng ta phải luôn coi trọng: Giáo hội là Dân thánh trung thành của Thiên Chúa, như Hiến chế Lumen Gentium khẳng định trong các số 8 và 12. Giáo hội không theo chủ nghĩa dân túy cũng không theo chủ nghĩa tinh hoa, mà là Dân thánh trung thành của Thiên Chúa. Chúng ta không thể học điều này theo lý thuyết, nhưng thông qua kinh nghiệm sống. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể tìm được cách giải thích tốt nhất có thể; nhưng nếu chúng ta không sống điều đó, chúng ta không thể giải thích nó. Một dân tộc hiệp nhất trong sứ vụ. Hiệp hành có nguồn gốc và mục đích tối hậu của nó trong sứ vụ: nó được sinh ra từ sứ vụ và hướng tới sứ vụ. Chúng ta hãy nghĩ đến những ngày đầu tiên, khi Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi và tất cả các ông đều vui mừng trở về, vì ma quỷ “đã chạy trốn khỏi các ông”: chính sứ vụ đã mang lại ý nghĩa đó cho Giáo hội. Chia sẻ sứ vụ đưa các Mục tử và giáo hữu xích lại gần nhau hơn; nó xây dựng một sự hiệp nhất về mục đích, thể hiện sự liên kết giữa các đặc sủng khác nhau và do đó khơi dậy trong mọi người ước muốn cùng nhau tiến bước. Chúng ta thấy điều này được minh họa nơi chính Chúa Giêsu, ngay từ đầu đã tập trung một nhóm các môn đệ vây quanh Người, nam cũng như nữ, và cùng với họ thi hành sứ vụ công khai của Ngài. Không bao giờ một mình. Khi sai Nhóm Mười Hai đi công bố Nước Thiên Chúa, Ngài sai họ đi “từng nhóm hai người”. Chúng ta cũng thấy điều tương tự nơi thánh Phaolô, người luôn loan báo Tin Mừng với những người cộng tác, kể cả giáo dân và các cặp vợ chồng, chứ không bởi mình ngài. Đây là trường hợp xảy ra vào những thời kỳ canh tân và truyền giáo lớn trong lịch sử Giáo hội: các Mục tử và tín hữu cùng nhau. Không phải là những cá nhân biệt lập, mà là một dân tộc rao giảng Tin Mừng, là Dân thánh trung thành của Thiên Chúa!

Trách nhiệm chung trong việc đào tạo giáo dân

Tôi biết rằng anh chị em cũng đã thảo luận về việc đào tạo giáo dân, điều không thể thiếu khi thực hiện trách nhiệm chung. Ở đây cũng vậy, tôi muốn nhấn mạnh rằng việc đào tạo đó phải hướng tới sứ vụ, chứ không chỉ hướng tới những lý thuyết, bằng không chúng sẽ rơi vào hệ tư tưởng. Và đó là một tai họa khủng khiếp: hệ tư tưởng trong Giáo hội giống như bệnh dịch. Để tránh điều này, việc đào tạo phải được định hướng theo sứ vụ, không mang tính học thuật, bị giới hạn trong các ý tưởng mang tính lý thuyết, nhưng phải thực hành. Nó phải phát xuất từ việc nghe Kerygma, được nuôi dưỡng bằng lời Chúa và các Bí tích, giúp mọi người phát triển nhận thức, với tư cách cá nhân và cộng đoàn, và tham gia ngay từ đầu vào hoạt động tông đồ và dưới nhiều hình thức làm chứng tá, dù rất đơn sơ, để có thể dẫn đến sự gần gũi với người khác. Việc tông đồ của giáo dân trước hết là việc làm chứng! Chứng tá của kinh nghiệm và lịch sử của bản thân, chứng tá của lời cầu nguyện, chứng tá của việc phục vụ những người thiếu thốn, chứng tá của sự gần gũi với người nghèo và những người bị lãng quên, và chứng tá của sự chào đón, nhất là về phía các gia đình. Đó là sự đào tạo đúng cách cho sứ vụ: bước ra ngoài đến với người khác, học hỏi “tại chỗ”. Đồng thời, một phương tiện hiệu quả để phát triển thiêng liêng.

Ngay từ đầu, tôi đã nói rằng “tôi mơ ước về một Giáo hội truyền giáo” (x. Tông huấn Evangelii Gaudium, 27; 32). “Tôi mơ ước về một Giáo hội truyền giáo”. Ở đây, một hình ảnh trong Sách Khải Huyền hiện lên trong trí, khi Chúa Giêsu nói: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai [...] mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy” (Kh 3:20). Bi kịch hôm nay trong Giáo hội là Chúa Giêsu cứ gõ cửa, nhưng từ phía bên trong, để chúng ta cho Ngài ra ngoài! Cuối cùng, chúng ta thường trở thành một Giáo hội “giam mình trong tù”, một Giáo hội không cho Chúa ra ngoài, Giáo hội giữ Ngài như “của riêng mình”, trong khi Chúa đến để thi hành sứ vụ và muốn chúng ta trở thành những nhà thừa sai …

Chính trong viễn cảnh này mà chúng ta có thể tiếp cận cách thích đáng đối với vấn đề trách nhiệm chung đối với giáo dân trong Giáo hội. Nhu cầu nâng cao vai trò của giáo dân không phải dựa trên một điểm mới lạ nào đó về thần học, hoặc do thiếu linh mục, càng không phải là khát khao bù đắp cho sự sao lãng của họ trong quá khứ. Thay vào đó, nó dựa trên tầm nhìn đúng đắn về Giáo hội, là Dân Thiên Chúa, trong đó người giáo dân, cùng với các thừa tác viên chức thánh, hoàn toàn là một thành phần. Do đó, các thừa tác viên chức thánh không phải là ông chủ, họ là những người phục vụ: là những mục tử, không phải là những ông chủ.

Điều này có nghĩa là phải phục hồi một “giáo hội học toàn diện”, giống như giáo hội của các thế kỷ đầu tiên, khi mọi sự được hiệp nhất nhờ tư cách thành viên trong Chúa Kitô và nhờ sự hiệp thông siêu nhiên với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta. Nó có nghĩa là hãy bỏ lại đằng sau một tầm nhìn xã hội học phân biệt các giai cấp và địa vị xã hội, và cuối cùng dựa trên “quyền lực” được gán cho mỗi nhóm. Cần nhấn mạnh đến sự hiệp nhất chứ không phải sự tách biệt hay phân biệt. Giáo dân không chỉ là một người “không thuộc hàng giáo sĩ” hay “không phải tu sĩ”; người đó phải được coi như một người đã được rửa tội, một thành viên của Dân thánh Chúa, vì đó là Bí tích mở ra mọi cánh cửa. Trong Tân Ước không xuất hiện từ “giáo dân”; chúng ta nghe nói về “người tin”, “môn đệ”, “anh em” và “các thánh”, những thuật ngữ được áp dụng cho tất cả mọi người: tín hữu giáo dân cũng như các thừa tác viên thánh chức, Dân Chúa cùng nhau hành trình.

Trong một Dân tộc của Thiên Chúa duy nhất là Giáo Hội này, yếu tố cơ bản là chúng ta thuộc về Đức Kitô. Trong các trình thuật đầy cảm xúc của Sách Công vụ của các vị tử đạo thời sơ khai, chúng ta thường thấy một lời tuyên xưng đức tin đơn sơ: “Tôi là một người thuộc về Chúa Kitô”, và họ nói, “và do đó tôi không thể hy sinh cho ngẫu tượng”. Chẳng hạn, đây là những lời được nói bởi Đức Cha Polycarp, Giám mục Smyrna, và bởi Justin và những người bạn đồng hành của ngài là những giáo dân. Những vị tử đạo này không nói: “Tôi là Giám mục”, hay “Tôi là giáo dân” — Tôi thuộc Công giáo Tiến hành,” “Tôi thuộc Dòng Đức Mẹ, tôi là thành viên của Phong trào Focolare.” Không, họ chỉ nói đơn giản: “Tôi là một người của Chúa Kitô.” Ngày nay cũng vậy, trong một thế giới ngày càng bị tục hóa, điều thật sự phân biệt chúng ta là Dân Chúa đó là niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô, chứ không phải bậc sống của chúng ta. Chúng ta là những người đã được rửa tội; chúng ta là người Kitô hữu; chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Mọi điều khác chỉ là thứ yếu. “Nhưng thưa cha, kể cả một linh mục sao?” — “Đúng, điều đó cũng chỉ là thứ yếu” — “Còn Giám mục thì sao?” — “Đúng, là thứ yếu” — “Ngay cả một Hồng y sao?” — “Cũng chỉ là thứ yếu.”

Việc chúng ta cùng thuộc về Đức Kitô khiến tất cả chúng ta trở thành anh chị em với nhau. Như Công đồng Vatican II tuyên bố, “khi được Thiên Chúa ưu ái ban cho Đức Kitô như một người Anh cả, … giáo dân cũng là anh chị em với những người đã lãnh nhận thừa tác vụ thánh, … để coi sóc gia đình Thiên Chúa qua việc giảng dạy” (Hiến chế Lumen Gentium, 32). Là anh chị em với Đức Kitô, là anh chị em với các linh mục, tình huynh đệ với mọi người.

Một tầm nhìn thống nhất về Giáo hội

Trong tầm nhìn thống nhất này về Giáo hội, nơi chúng ta trước hết và trên hết là những Kitô hữu đã được rửa tội, là giáo dân sống giữa thế giới và đồng thời thuộc về Dân tộc trung thành của Thiên Chúa. Tài liệu Puebla đã diễn tả điều này cách rất đẹp: giáo dân là những người nam nữ “của Giáo hội giữa lòng thế giới,” và những người nam nữ “của thế giới trong lòng Giáo hội”. Thực vậy, người giáo dân được kêu gọi sống sứ vụ của họ chính giữa những thực tại trần thế mà mỗi ngày họ phải hòa mình vào. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ không có những khả năng, những đặc sủng và năng lực để đóng góp vào đời sống của Giáo hội: trong việc phục vụ phụng vụ, trong việc dạy giáo lý và giáo dục, trong các cơ cấu quản trị, quản lý tài sản, lập kế hoạch và thực hiện các dự án mục vụ, v.v. Vì lý do này, ngay từ khi còn ở chủng viện, các Mục tử cần được đào tạo để cộng tác làm việc với giáo dân, để sự hiệp thông, như một kinh nghiệm sống động, sẽ được phản ánh trong hoạt động của họ như một điều gì đó rất tự nhiên, không phải là khác thường và không thường xuyên. Một điều tồi tệ nhất mà một người mục tử có thể làm là quên đi dân tộc nơi người mục tử đã xuất thân, thiếu ký ức đó. Chúng ta có thể lặp đi lặp lại với người mục tử đó thật nhiều lần lời trong Kinh thánh: “Hãy nhớ”. “Hãy nhớ anh từ đâu đến, đàn chiên mà anh đã từ đó được đưa ra để trở về phục vụ nó, hãy nhớ đến cội nguồn của mình” (x. 2 Tm, 1).

Chia sẻ trách nhiệm giữa Giáo dân và Mục tử

Kinh nghiệm chia sẻ trách nhiệm này giữa người giáo dân và mục tử sẽ giúp vượt qua sự phân tách, sợ hãi và thiếu tin tưởng lẫn nhau. Bây giờ là lúc để các Mục tử và giáo dân cùng nhau tiến bước, trong mọi lĩnh vực của đời sống Giáo hội và ở mọi nơi trên thế giới! Giáo dân không phải là “khách” trong Giáo hội; đó là nhà của họ và họ cũng được kêu gọi chăm sóc Giáo hội như vậy. Giáo dân, và đặc biệt là phụ nữ, phải được đánh giá cao hơn về các kỹ năng cũng như về các ơn thuộc về con người và thiêng liêng mà họ mang lại cho đời sống của các giáo xứ và giáo phận. Họ có thể hỗ trợ bằng ngôn ngữ “thường nhật” của họ trong việc loan báo Tin Mừng bằng cách tham gia vào các hình thức rao giảng khác nhau. Họ có thể hợp tác với các linh mục trong việc đào tạo thiếu nhi và thanh thiếu niên, giúp đỡ các cặp đính hôn chuẩn bị cho hôn nhân, và đồng hành với các đôi vợ chồng trong đời sống hôn nhân và gia đình. Phải luôn hỏi ý kiến họ bất cứ khi nào các sáng kiến mục vụ mới được lên kế hoạch ở mọi cấp độ, địa phương, quốc gia và toàn cầu. Họ phải có tiếng nói trong các hội đồng mục vụ của các Giáo hội địa phương và nên có mặt trong các văn phòng giáo phận. Họ có thể hỗ trợ trong việc đồng hành thiêng liêng với các giáo dân khác và đóng góp vào việc đào tạo các chủng sinh và tu sĩ. Có lần tôi nghe thấy một câu hỏi: “Thưa cha, một giáo dân có thể làm linh hướng được không?” Quả thực đó là một đặc sủng giáo dân! Một vị linh hướng có thể là một linh mục, nhưng đặc sủng không hoàn toàn thuộc linh mục như vậy; đồng hành thiêng liêng, nếu Chúa ban cho bạn khả năng thiêng liêng để làm như vậy, thì là một đặc sủng giáo dân. Cùng với các Mục tử, người giáo dân phải đưa chứng tá Kitô giáo đi vào đời sống thế tục: vào các thế giới việc làm, văn hóa, chính trị, nghệ thuật và truyền thông xã hội.

Chúng ta có thể diễn đạt theo cách này: giáo hữu và Mục tử cùng nhau trong Giáo hội, người giáo dân và Mục tử cùng nhau trên thế giới.

Tôi nhớ đến những trang cuối cùng trong quyển sách của linh mục Henri de Lubac, Méditation sur l'Église. Trong đó, ngài giải thích rằng điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với Giáo hội là chủ nghĩa thế tục thiêng liêng mang tên chủ nghĩa giáo quyền, điều “sẽ vô cùng tai hại hơn bất kỳ chủ nghĩa đạo đức thế tục nào”. Nếu anh chị em có thời gian, hãy đọc ba hoặc bốn trang cuối của quyển Méditation sur l'Église của Cha de Lubac. Trích dẫn nhiều tác giả khác nhau, ngài cho thấy rằng chủ nghĩa giáo quyền là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với Giáo hội, thậm chí còn tồi tệ hơn cả những thời kỳ giáo hoàng có nhân tình. Chủ nghĩa giáo quyền phải bị “xua đuổi”. Một linh mục hay một Giám mục rơi vào thái độ này sẽ gây tổn hại rất lớn cho Giáo hội. Nhưng đó là một căn bệnh truyền nhiễm: vì giáo dân bị giáo quyền hóa là một bệnh dịch tồi tệ hơn trong Giáo hội, thậm chí còn tồi tệ hơn cả các linh mục hoặc Giám mục đã rơi vào chủ nghĩa giáo quyền. Xin hãy nhớ rằng giáo dân là giáo dân.

Các bạn thân mến, với vài nhận xét này, tôi muốn chỉ ra một lý tưởng, một nguồn cảm hứng để giúp chúng ta tiến bước. Tôi vô cùng ước ao rằng tất cả chúng ta có thể giữ trong tâm trí và trong lòng tầm nhìn đầy yêu thương này về Giáo Hội! Một Giáo hội hướng tới sứ mệnh, nơi mọi người hiệp lực và cùng nhau bước đi loan báo Tin Mừng. Một Giáo hội mà điều gắn kết chúng ta lại với nhau đó là chúng ta là những Kitô hữu đã được rửa tội, chúng ta thuộc về Chúa Giêsu. Một Giáo hội được ghi dấu bằng tình huynh đệ giữa người giáo hữu và các Mục tử, khi tất cả cùng làm việc với nhau mỗi ngày trong mọi lĩnh vực của đời sống mục vụ, vì tất cả họ đều đã được rửa tội.

Tôi khuyến khích anh chị em hãy cổ võ trong các Giáo hội của anh chị em tất cả những gì anh chị em nhận được trong những ngày này, để cùng nhau tiếp tục canh tân Giáo hội và sứ vụ của Giáo hội. Tôi chúc lành cho tất cả anh chị em và những người thân yêu của anh chị em, và tôi xin anh chị em hãy cầu nguyện cho tôi. Cảm ơn anh chị em.


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 21/2/2023]


Thứ Hai, 20 tháng 2, 2023

Kinh Truyền tin của ĐTC Phanxicô ngày 19.02.2023: “Hãy giơ cả má bên kia và yêu thương ngay cả kẻ thù của mình”

“Hãy giơ cả má bên kia và yêu thương ngay cả kẻ thù của mình”

Huấn từ của Đức Thánh Cha trước giờ Kinh Truyền tin

Kinh Truyền tin của ĐTC Phanxicô ngày 19.02.2023: “Hãy giơ cả má bên kia và yêu thương ngay cả kẻ thù của mình”

Vatican Media


*******

Vào lúc 12 giờ trưa hôm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc trong Điện Tông tòa Vatican để đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và khách hành hương tập trung tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Sau đây là huấn từ của Đức Thánh Cha trước Kinh Truyền tin:

____________________________________________________


Trước Kinh Truyền tin

Anh chị em thân mến, buongiorno!

Những lời Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng Chúa Nhật tuần này đòi hỏi rất khắt khe, và có vẻ nghịch lý: Chúa mời gọi chúng ta hãy giơ cả má bên kia ra và yêu thương ngay cả kẻ thù của mình (x. Mt 5:38-48). Thường thì chúng ta yêu mến những người yêu mến chúng ta, làm bạn với những người là bạn của chúng ta; thế nhưng Chúa Giêsu thách đố chúng ta bằng cách nói: nếu anh em hành động theo cách này, “thì anh em có làm gì lạ thường đâu?” (câu 47). Anh em phải làm điều gì hơn thế nữa? Đây là điểm mà tôi muốn anh chị em hôm nay hãy tập trung vào, về những điều anh chị em làm thể hiện sự phi thường.

“Hơn thế nữa”, “phi thường” là những gì vượt ra ngoài các giới hạn thông thường, những gì vượt quá những thói quen thông thường và những tính toán theo tiêu chuẩn được ấn định bởi sự thận trọng. Thay vào đó, nói chung, chúng ta cố gắng sắp xếp mọi thứ phần nào đó theo trật tự và trong tầm kiểm soát, sao cho phù hợp với những mong đợi của chúng ta, theo thước đo của chúng ta: lo sợ không được đền đáp hoặc bộc lộ bản thân quá nhiều để rồi thất vọng, chúng ta chọn yêu thương những người yêu thương chúng ta để tránh những thất vọng, chỉ làm điều tốt cho những người tốt với chúng ta, chỉ rộng rãi với những người có thể trả ơn; và với những người đối xử tệ bạc với chúng ta, chúng ta đáp lại cũng như vậy, để chúng ta được cân bằng. Nhưng Chúa cảnh cáo chúng ta: như thế không đủ! Chúng ta phải nói rằng: đây không phải là Kitô giáo! Nếu chúng ta vẫn theo cách thông thường, trong sự cân bằng giữa cho và nhận, mọi thứ sẽ không thay đổi. Nếu Thiên Chúa thực hiện theo luận lý này, chúng ta không có hy vọng được cứu rỗi! Nhưng, thật may mắn cho chúng ta, tình yêu của Thiên Chúa luôn luôn “phi thường”, tình yêu đó vượt xa những tiêu chuẩn thông thường mà con người chúng ta sống các mối tương quan của mình.

Do đó lời của Chúa Giêsu thách đố chúng ta. Trong khi chúng ta cố gắng duy trì sự bình thường của lập luận vị lợi, Chúa yêu cầu chúng ta mở lòng ra với sự phi thường, sự phi thường của một tình yêu cho đi không mong đền đáp; trong khi chúng ta luôn cố gắng cân bằng sổ sách, thì Chúa Kitô khuyến khích chúng ta sống một tình yêu thiếu cân bằng. Chúa Giêsu không phải là người giữ sổ sách giỏi, không! Người luôn dẫn đưa chúng ta đến sự mất cân bằng của tình yêu. Chúng ta không ngạc nhiên về điều này. Nếu Thiên Chúa không tự mình “mất cân bằng”, thì chúng ta đã không bao giờ được cứu rỗi: chính sự mất cân bằng của thập giá đã giải thoát chúng ta! Chúa Giêsu đã chẳng đi tìm kiếm chúng ta khi chúng ta lạc lối và xa rời; Chúa đã chẳng yêu thương chúng ta đến cùng, Người đã chẳng ôm lấy thập giá vì chúng ta là những con người bất xứng trước tất cả những điều này và không thể có bất kỳ điều gì để đáp lại cho Chúa. Như Thánh Tông đồ Phaolô viết, “Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:7-8). Vì vậy, Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong khi chúng ta là những tội nhân, không phải vì chúng ta tốt lành hay có thể đáp lại cho Ngài điều gì đó. Thưa anh chị em, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu luôn dư đầy, luôn vượt quá sự tính toán, luôn không cân xứng. Và hôm nay Người cũng yêu cầu chúng ta hãy sống theo cách như vậy, vì chỉ có như thế chúng ta mới thực sự làm chứng cho Người.

Anh chị em thân mến, Chúa mời gọi chúng ta hãy bước ra khỏi luận lý của tính tư lợi và không đo lường tình yêu trên những thước đo của những toan tính và lợi ích vật chất. Chúa mời gọi chúng ta đừng lấy ác trả ác, hãy can đảm làm việc tốt, dám mạo hiểm trong ân huệ, ngay cả khi chúng ta nhận lại được rất ít hoặc chẳng nhận được gì. Bởi vì, chính tình yêu này dần dần biến đổi những xung đột, rút ngắn những khoảng cách, chiến thắng hận thù và chữa lành những vết thương của thù hận. Và vì vậy, chúng ta hãy tự hỏi mình, mỗi người chúng ta: trong cuộc sống của tôi, tôi đi theo luận lý của sự đền đáp, hay theo luận lý của tính nhưng không, như Thiên Chúa làm? Tình yêu phi thường của Chúa Kitô không phải là điều dễ dàng, nhưng nó là có thể; điều đó là có thể bởi vì chính Chúa giúp chúng ta bằng cách ban cho chúng ta Thần Khí của Ngài, tình yêu của Ngài vô hạn.

Chúng ta hãy cầu nguyện với Đức Mẹ là Đấng đã trả lời “xin vâng” với Thiên Chúa mà không cần tính toán, cho phép Ngài biến Mẹ thành kiệt tác Ân Sủng của Ngài.

________________________________________________


Sau Kinh Truyền tin

Anh chị em thân mến,

Tình yêu của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cho phép mình biết rung động trước hoàn cảnh của những người đang gặp khó khăn. Tôi đặc biệt nghĩ đến Syria và Thổ Nhĩ Kỳ, đến rất nhiều nạn nhân của trận động đất, nhưng cũng nghĩ đến những thảm kịch hàng ngày của người dân Ukraine thân yêu và nhiều dân tộc phải chịu hậu quả của chiến tranh hoặc vì nghèo đói, thiếu tự do hoặc sự tàn phá môi trường: nhiều dân tộc… Về vấn đề này, tôi gần gũi với người dân New Zealand, những ngày gần đây đã bị một cơn bão tàn phá tấn công. Thưa anh chị em, chúng ta đừng quên những người đau khổ, và hãy để cho đức ái của chúng ta biết quan tâm, hãy cho phép nó trở thành đức ái thực sự!

Cha gửi lời chào đến tất cả anh chị em đến từ nước Ý và các nước khác. Cha xin chào anh chị em hành hương đến từ Oviedo, Tây Ban Nha, và các sinh viên của Vila Pouca de Aguair ở Bồ Đào Nha.

Cha xin chào các nhóm Công giáo Tiến hành đến từ Rimini và Saccolongo; các tín hữu của Lentiai, Turin và Bolzano; các ứng viên thêm sức đến từ Valvasone và Almenno San Salvatore; các thanh thiếu niên của Tricesimo, Leno, Chiuppano và Fino Mornasco; các Lễ sinh đến từ Arcene và các sinh viên của Trường Thánh Ambrôsiô ở Milan.

Cha chúc tất cả anh chị em Chúa nhật hạnh phúc. Xin đừng quên cầu nguyện cho cha. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng, và arrivederci.



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 20/2/2023]