Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2020

Người Công giáo Prague vui mừng khi dựng lại tượng đài Thánh Mẫu bị giật đổ bởi đám đông giận dữ

Người Công giáo Prague vui mừng khi dựng lại tượng đài Thánh Mẫu bị giật đổ bởi đám đông giận dữ

Người Công giáo Prague vui mừng khi dựng lại tượng đài Thánh Mẫu bị giật đổ bởi đám đông giận dữ
Tượng đài Thánh Mẫu được dựng lại ở Quảng trường Phố cổ của Prague ngày 4 tháng Sáu năm 2020. Credit: Petr Šálek (CC BY-SA 4.0)

Rome Newsroom, 15 tháng Sáu, 2020 / 05:30 sáng MT (CNA). - Một tượng Mẹ Maria lịch sử đặt trên đỉnh cột, bị giật sập bởi một đám đông giận dữ hơn 100 năm trước, đã được dựng lại tại vị trí ban đầu của tượng ở Prague.

Việc đặt bức tượng nguyên bản theo tượng của thế kỷ 17 tại Quảng trường Phố cổ của thủ đô Cộng hòa Tiệp Khắc ngày 4 tháng Sáu là một sự kiện sau 30 năm xây dựng.

Tượng đài Thánh Mẫu, như tên gọi của nó, đã được dựng lên “trong tiếng vang ca những bài tán tụng Mẹ Maria, cùng tiếng chuông ngân vang trên tháp Mẹ Thiên Chúa trước mặt [Nhà thờ] Týn và tiếng vỗ tay hoan hô của những người có mặt,” ông Karel Kavička nói với CNA qua email.

Kavička là thành viên sáng lập của hiệp hội các nhà sử học, nghệ sĩ và người Công giáo đã làm việc trong hơn ba thập kỷ để tạo ra nguyên bản bức tượng, và để có được sự cho phép của thành phố trả lại tượng đài Thánh Mẫu về vị trí lịch sử của nó.

Ông Kavička nói, “Ngay từ đầu, chúng tôi đã cố gắng làm cho trụ tượng đài trở thành biểu tượng của sự hòa giải. Ai có thể là biểu tượng của hòa bình tốt hơn Đức Trinh Nữ Maria?”

Ông nhấn mạnh đến niềm vui của người Công giáo Tiệp Khắc tại lễ dựng lại bức tượng, nhưng cho biết thêm rằng nhiều người Tin lành và không theo đạo cũng ủng hộ dự án này vì bức tượng có tầm quan trọng lịch sử và nghệ thuật ở Prague.

Mẹ Maria đội triều thiên các vì sao và trụ cột tượng cao 52 bộ (gần 16m) mà Mẹ được đặt trên đỉnh đã bị một đám đông giận dữ giật sập, dẫn đầu bởi nhà văn Franta Sauer, vào ngày 3 tháng Mười Một năm 1918.

Người Công giáo Prague vui mừng khi dựng lại tượng đài Thánh Mẫu bị giật đổ bởi đám đông giận dữ

Bức tượng được Hoàng đế Habsburg Ferdinand III dựng lên sau khi kết thúc Chiến tranh Ba mươi năm vào năm 1648, để tạ ơn việc chấm dứt cuộc bao vây Prague của quân đội Thụy Điển.

Sau sự sụp đổ của Đế chế Công giáo Áo-Hung, bức tượng Đức Trinh Nữ Maria “được trình bày như một biểu tượng chính trị, một biểu tượng của sự nô lệ của quốc gia,” ông Kavička giải thích.

Jan Bradna, một nhà điêu khắc và là thành viên của hiệp hội tượng đài Thánh Mẫu, nói với BBC rằng “chính người Prague” muốn có bức tượng nguyên thủy, và “họ đã vận động Hoàng đế Habsburg Ferdinand III cho phép dựng lên.”

Sau khi Tiệp Khắc trở thành một nước cộng hòa độc lập vào năm 1918, Giáo hội Công giáo liên kết với chế độ quân chủ đã sụp đổ và bị phỉ báng, ông Kavička nói.

Petr Vana, nhà điêu khắc tượng Thánh Mẫu theo nguyên bản, nói với BBC rằng việc giật đổ tượng nguyên thủy xảy ra do một đám đông bị Sauer giật dây trong một quán rượu, và “người dân ở đó không thực sự ghét bức tượng.”

Đệ nhị Thế chiến và 40 năm chế độ cộng sản theo sau, và kể từ đó số tín hữu Kitô giáo chỉ là thiểu số ở Cộng hòa Tiệp Khắc, một quốc gia chủ yếu là vô thần.

Kavička là người đồng sáng lập Hiệp hội Khôi phục Tượng đài Thánh Mẫu trên Quảng trường Phố cổ ở Prague, được thành lập vào tháng Tư năm 1990, “ngay sau khi chế độ cộng sản toàn trị sụp đổ.”

Đối với Kavička, vì lịch sử đất nước của ông, việc khôi phục lại tượng đài Thánh Mẫu thể hiện “một cơ hội hòa bình với hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.”

Ông nói, “Chúng tôi đi theo các sáng kiến của tổ tiên của chúng tôi, những người đã tìm cách khôi phục lại tượng đài ngay sau khi bị phá hủy. Những hoạt động đó bị gián đoạn bởi sự chiếm đóng của Đức Quốc xã, Đệ nhị Thế chiến và sau đó là chế độ cộng sản. Chúng tôi tự hứa với bản thân rằng sáng kiến của chúng tôi sẽ là sáng kiến sau cùng để thực hiện trọn vẹn mong muốn của nhiều thế hệ.”

Người Công giáo Prague vui mừng khi dựng lại tượng đài Thánh Mẫu bị giật đổ bởi đám đông giận dữ

Kavička, người có bằng cấp cao về triết học và thần học, đang viết một cuốn sách về lịch sử và sự khôi phục tượng đài Thánh Mẫu.

Ông nói rằng ông không có bằng chứng nào cho thấy người đàn ông dẫn đầu việc giật sập bức tượng vào năm 1918, Franta Sauer, có phải là người Công giáo hay không, nhưng người ta tin rằng điều đó là có thể, một phần vì ông ta đã chết trong một tu viện Công giáo.

Người ta cho rằng sự kết thúc cuộc đời Sauer được kể lại trong một bài thơ dựa trên lịch sử của nhà thơ và nhà viết kịch người Tiệp Khắc Václav Renč.

Trong Truyền thuyết Prague, Renč kể câu chuyện giật đổ bức tượng đài Thánh Mẫu, được dẫn đầu bởi một nghệ sĩ trẻ theo phái Bô-hem nhiệt thành tên là Oskar. Bài thơ kể lại sự ăn năn của Oskar đối với những hành động của anh ta, và kể rằng nằm trên giường bệnh trong một nhà thương do các nữ tu Công giáo điều hành, anh ta đã có thị kiến về Đức Maria Đồng trinh và hối cải trong lòng.

Bức tượng Mẹ Maria hiện được khôi phục lại trong Quảng trường Phố cổ của Prague không phải là tượng duy nhất thuộc loại này ở Cộng hòa Tiệp Khắc. Trên khắp đất nước có “hàng chục những tượng đài Thánh Mẫu trong các quảng trường của nhiều thành phố,” ông Kavička nhấn mạnh.

Những bức tượng thuộc kỷ nguyên Baroque - và, trong một số trường hợp thuộc thời kỳ Phục hưng - “được xây dựng bởi người dân và đại diện của các thành phố này để cám ơn họ vì đã bảo vệ trong những thời gian đại dịch hoặc tạ ơn Đức Trinh Nữ Maria,” ông Kavička nói.



[Nguồn: catholicnewsagency]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 18/6/2020]


Sứ điệp Ngày Người nghèo Thế giới 2020 của Đức Thánh Cha Phanxico

Sứ điệp Ngày Người nghèo Thế giới 2020 của Đức Thánh Cha Phanxico
Pope Dines With The Poor -- Photo: Adam Trojanek

Sứ điệp Ngày Người nghèo Thế giới 2020 của Đức Thánh Cha Phanxico

‘Hãy rộng tay cứu giúp người nghèo khó’ (Hc 6:7)

13 tháng Sáu, 2020 17:32

Ngày 13 tháng Sáu năm 2020, Vatican công bố sứ điệp Ngày Người nghèo Thế giới của Đức Thánh Cha Phanxico được tổ chức vào Chúa nhật 33 mùa Thường niên, ngày 15 tháng Mười Một năm 2020. Dưới đây là toàn văn sứ điệp, văn bản của Vatican cung cấp (bản tiếng Anh).

****** 

“Hãy rộng tay cứu giúp người nghèo khó” (Hc 6:7). Sự thông thái ngàn xưa đã đề nghị những lời này như là quy tắc thiêng liêng để tiến bước trong đời sống. Ngày nay những lời này vẫn còn hợp thời hơn bao giờ hết. Chúng giúp chúng ta chú ý ánh mắt nhìn vào điều trọng yếu và vượt qua những rào cản của sự thờ ơ. Sự nghèo đói luôn xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và kêu gọi sự quan tâm đến từng hoàn cảnh cụ thể. Trong tất cả những hoàn cảnh này, chúng ta có cơ hội để gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng tỏ lộ chính Ngài trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ngài (x. Mt 25:40).

1. Chúng ta hãy cầm lấy sách Huấn ca của Cựu Ước, trong đó chúng ta tìm được những lời của một hiền nhân là người đã sống trước Đức Kitô hai trăm năm. Ông tìm kiếm sự khôn ngoan để làm cho con người trở nên tốt hơn và có khả năng hiểu biết sâu sắc hơn về các vấn đề của cuộc sống. Ông đã làm điều này vào thời gian thử thách khốc liệt đối với dân Israel, một thời kỳ đau thương, thống khổ, và nghèo đói do sự thống trị của các sức mạnh bên ngoài. Là một người có đức tin vững mạnh, xuất phát từ những truyền thống của các bậc tiền nhân, ý nghĩ đầu tiên của ông là hướng về Thiên Chúa và cầu xin món quà khôn ngoan từ Người. Chúa đã không từ chối giúp đỡ ông.

Từ những trang đầu tiên của quyển sách, tác giả trình bày những lời khuyên của ông liên quan đến nhiều hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, một trong số đó là sự túng thiếu. Ông nhấn mạnh rằng ngay cả khi gặp khó khăn, chúng ta vẫn phải tiếp tục tin tưởng vào Thiên Chúa: “Đừng bấn loạn khi con gặp khốn khổ. Hãy bám lấy Người chứ đừng lìa bỏ, để cuối đời, con được cất nhắc lên. Mọi chuyện xảy đến cho con, con hãy chấp nhận, và trải qua bao thăng trầm, con hãy cứ kiên nhẫn. Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục. Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người. Hỡi ai kính sợ Đức Chúa, hãy trông đợi lòng lân tuất của Người, đừng lìa xa Người kẻo ngã” (2:2-7).

2. Hết trang này đến trang khác, chúng ta khám phá ra một bản liệt kê những lời khuyên quý giá về cách hành động dưới ánh sáng của mối tương quan chặt chẽ với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng, và là Đấng yêu thương công trình sáng tạo, công bằng và lo liệu quan phòng cho tất cả con cái của mình. Tuy nhiên, việc liên tục đề cập đến Thiên Chúa ở đây không làm mất đi khía cạnh cụ thể của con người. Trái lại, hai yếu tố được liên kết chặt chẽ.

Điều này được thể hiện rõ qua trích đoạn được lấy làm chủ đề của Sứ điệp năm nay (x. 7: 29-36). Cầu nguyện với Thiên Chúa và tình liên đới với người nghèo và người đau khổ là không thể tách rời. Để việc thờ phượng được Chúa chấp nhận, chúng ta phải chân nhận rằng mỗi con người, ngay cả những người nghèo nhất và bị khinh thường nhất, đều được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Ân huệ phúc lành của Thiên Chúa đến từ nhận thức này, được thể hiện qua lòng quảng đại mà chúng ta thể hiện đối với người nghèo. Thời gian dành cho việc cầu nguyện không bao giờ có thể trở thành lý do để bỏ mặc người anh em đang cần giúp đỡ. Thật ra, ngược lại mới là đúng: phúc lành của Chúa đổ xuống trên chúng ta, và lời cầu nguyện sẽ đạt hiệu quả khi nó đi kèm với sự phục vụ người nghèo.

3. Với chúng ta, lời dạy cổ xưa này thật vô cùng hợp thời! Thật vậy, Lời Chúa vượt không gian và thời gian, tôn giáo và văn hóa. Lòng quảng đại hỗ trợ người yếu đuối, an ủi người đau khổ, giảm bớt khổ đau và phục hồi phẩm giá cho những người bị tước đoạt, là điều kiện cho một đời sống con người trọn vẹn. Không thể đặt điều kiện đối với quyết định chăm sóc cho người nghèo, cho nhiều nhu cầu khác nhau của họ, bởi thời gian sẵn có hoặc bởi lợi ích riêng, hay bởi các dự án xã hội hoặc mục vụ không rõ ràng. Sức mạnh ân sủng của Thiên Chúa không thể bị kìm hãm bởi khuynh hướng ích kỷ luôn đặt bản thân chúng ta lên hàng đầu.

Giữ cái nhìn của chúng ta luôn hướng về người nghèo là điều khó khăn, nhưng nó cần thiết hơn bao giờ hết nếu chúng ta muốn có hướng đi đúng đắn cho đời sống cá nhân và cuộc sống của xã hội. Đó không phải là vấn đề của những lời tốt đẹp mà là một cam kết cụ thể được truyền cảm hứng từ đức ái của nước trời. Mỗi năm, vào Ngày Người nghèo Thế giới, tôi nhắc lại sự thật nền tảng này trong đời sống Giáo hội, vì người nghèo thì luôn luôn và sẽ luôn ở bên chúng ta để giúp chúng ta chào đón sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc sống hàng ngày của mình (x. Ga 12:8).

4. Gặp gỡ người nghèo và những người túng thiếu liên tục thách đố chúng ta và buộc chúng ta phải suy nghĩ. Làm cách nào để chúng ta có thể giúp loại bỏ hoặc ít nhất là làm giảm bớt sự thiệt thòi và đau khổ của họ? Làm thế nào để chúng ta có thể giúp đỡ cho nhu cầu tâm linh của họ? Cộng đoàn Kitô giáo được kêu gọi phải can dự vào hình thức chia sẻ này và chân nhận rằng không thể trao nó cho người khác. Để giúp đỡ người nghèo, bản thân chúng ta cần phải sống trải nghiệm sự nghèo khó của phúc âm. Chúng ta không thể cảm thấy “ổn” khi bất kỳ thành viên nào trong gia đình nhân loại bị bỏ rơi phía sau và trong những bóng tối. Tiếng khóc thầm lặng của rất nhiều người nam, nữ và trẻ em nghèo phải gặp được dân Chúa ở tuyến đầu, luôn luôn và ở mọi nơi, trong nỗ lực mang lại cho họ tiếng nói, để bảo vệ và hỗ trợ họ khi đối mặt với sự giả hình và rất nhiều lời hứa không được thực hiện, và mời họ chia sẻ đời sống của cộng đoàn.

Giáo hội chắc chắn không có giải pháp toàn diện để đề nghị, nhưng nhờ ân sủng của Đức Kitô, Giáo hội có thể làm chứng và thực hiện những việc bác ái. Giáo hội cũng cảm thấy được thúc bách phải lên tiếng thay cho những người thiếu thốn các nhu cầu căn bản của cuộc sống. Đối với người Kitô hữu, nhắc nhở mọi người về giá trị to lớn của ích chung là một cam kết trọng yếu, được thể hiện trong nỗ lực bảo đảm rằng không người nào bị vi phạm nhân phẩm và các nhu cầu cơ bản của nó sẽ bị lãng quên.

5. Khả năng đưa bàn tay trợ giúp của chúng ta cho thấy chúng ta có khả năng bẩm sinh để hành động theo những cách mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chúng ta nhìn thấy không biết bao bàn tay vươn ra trợ giúp mỗi ngày! Thật đáng buồn, càng ngày tốc độ quay cuồng của cuộc sống càng làm cho chúng ta rơi vào một cơn lốc thờ ơ, đến mức chúng ta không còn biết cách nhận ra những điều tốt đẹp được thực hiện âm thầm mỗi ngày và với lòng quảng đại lớn lao xung quanh chúng ta. Chỉ khi điều gì đó xảy ra làm đảo lộn cuộc sống của chúng ta, đôi mắt của chúng ta mới có khả năng nhìn thấy sự tốt lành của các “thánh nhân hàng xóm”, của “những người sống giữa chúng ta, phản ánh sự hiện diện của Chúa” (Tông huấn Gaudete et Exsultate, 7), nhưng không phô trương. Tin xấu phủ đầy các trang báo, các trang web và màn hình tivi, đến mức dường như sự dữ nắm quyền thống trị. Nhưng vấn đề không phải như vậy. Chắc chắn, dã tâm và bạo lực, ngược đãi, và hủ hóa rất nhiều, nhưng cuộc sống cũng được đan kết với những hành động tôn trọng và quảng đại, nó không chỉ bù đắp cho cái ác mà còn truyền cảm hứng cho chúng ta tiến bước thêm và làm ngập tràn tâm hồn chúng ta với niềm hy vọng.

6. Một bàn tay vươn ra là một tín hiệu; một tín hiệu ngay lập tức nói lên sự gần gũi, tình liên đới, và sự yêu thương. Trong những tháng này, khi cả thế giới trở thành con mồi của một loại virus mang đến nỗi đau đớn và cái chết, tuyệt vọng và hoang mang, chúng ta đã thấy biết bao nhiêu bàn tay vươn tới! Những bàn tay của các bác sĩ chăm sóc từng bệnh nhân và cố gắng tìm ra phương pháp chữa trị phù hợp. Những bàn tay của các y tá làm việc tăng ca, hàng giờ liên tục để chăm sóc người bệnh. Bàn tay của các nhà quản lý đã mua các phương tiện để cứu sống càng nhiều người càng tốt. Bàn tay của các dược sĩ đặt mình vào hiểm nguy để đáp ứng những nhu cầu bức thiết của mọi người. Bàn tay vươn ra của các linh mục với trái tim tan vỡ khi họ ban phép lành. Bàn tay vươn ra của những người nam nữ thiện nguyện để giúp đỡ những người sống trên đường phố, và những người có nhà ở nhưng không có gì để ăn. Bàn tay vươn ra của những người nam và nữ làm việc để cung cấp các sự phục vụ thiết yếu và an ninh. Chúng ta có thể tiếp tục nói về rất nhiều bàn tay dang rộng khác, tất cả đều góp phần vào một chuỗi dài những công cuộc tốt lành. Những bàn tay đó bất chấp sự lây nhiễm và sợ hãi để đưa ra sự hỗ trợ và an ủi.

7. Đại dịch này đến bất ngờ và làm cho chúng ta không kịp chuẩn bị, gây ra cảm giác hoang mang và bất lực. Tuy nhiên, những bàn tay không bao giờ ngừng vươn tới với người nghèo. Việc này làm cho tất cả chúng ta nhận thức rõ hơn về sự hiện diện của người nghèo ở giữa chúng ta và nhu cầu cần được giúp đỡ của họ. Những hoạt động bác ái, công cuộc các mối phúc thương xót, không thể trở thành ngẫu hứng. Rất cần có sự tổ chức và đào tạo liên tục, dựa trên sự nhận thức về nhu cầu của chính chúng ta về một bàn tay vươn ra.

Kinh nghiệm hiện tại đã thách thức nhiều giả định của chúng ta. Chúng ta cảm thấy nghèo nàn hơn và ít tự mãn hơn vì chúng ta đã nhận ra những giới hạn và ranh giới tự do của chúng ta. Mất việc làm, và mất cơ hội gần gũi với những người thân yêu và những người quen biết thường xuyên gặp gỡ của chúng ta, bất ngờ mở đôi mắt chúng ta trước những chân trời mà từ lâu chúng ta xem là chuyện đương nhiên. Những tài nguyên tinh thần và vật chất của chúng ta được xem xét lại và chúng ta thấy mình đang trải qua nỗi sợ hãi. Trong sự vắng lặng của ngôi nhà chúng ta, chúng ta tái khám phá tầm quan trọng của sự đơn giản và giữ cho đôi mắt mình chăm chú vào những điều trọng yếu. Chúng ta nhận thấy mình cần biết bao một ý thức mới về tình huynh đệ, để giúp đỡ và quý trọng lẫn nhau. Bây giờ là thời điểm tốt để khôi phục lại “niềm tin rằng chúng ta cần có nhau, rằng chúng ta có trách nhiệm chung với người khác và với thế giới … Chúng ta đã có quá đủ tính vô đạo đức và sự nhạo báng đối với luân lý, lòng tốt, niềm tin và sự trung thực … Khi những nền tảng đời sống xã hội bị xói mòn, thì điều xảy ra tiếp theo là những cuộc chiến về xung đột lợi ích, những hình thức mới của bạo lực và sự tàn ác, và những chướng ngại cản trở sự phát triển của một nền văn hóa và sự chăm sóc môi trường đích thực (Tông huấn Laudato Si', 229). Nói tóm lại, cho đến khi nào chúng ta chưa làm sống lại ý thức trách nhiệm của mình đối với tha nhân và đối với mỗi con người, thì các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính và chính trị nặng nề sẽ vẫn tiếp diễn.

8. Chủ đề của năm nay – “Hãy rộng tay cứu giúp người nghèo khó” – là một lời hiệu triệu trách nhiệm và cam kết tất cả mọi người nam và nữ là một phần của gia đình nhân loại chúng ta. Nó động viên chúng ta mang lấy những gánh nặng của những người yếu đuối nhất, theo những lời của Thánh Phaolô: “Hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.’ … Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 5:13-14; 6:2). Thánh Tông đồ dạy rằng sự tự do được ban tặng qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô khiến làm cho chúng ta có trách nhiệm cá nhân trong việc phục vụ người khác, đặc biệt là những người hèn mọn nhất. Đây không phải là một lựa chọn, mà là một tín hiệu cho thấy tính xác thực của đức tin mà chúng ta tuyên xưng.

Một lần nữa, ở đây Sách Huấn ca có thể giúp chúng ta. Sách gợi ý những con đường cụ thể để hỗ trợ những người dễ bị tổn thương nhất và nó sử dụng những hình ảnh đáng chú ý. Trước hết, nó yêu cầu chúng ta hãy cảm thông với những người đang đau buồn: “Đừng ngoảnh mặt không nhìn những ai đang than khóc” (7:34). Thời gian đại dịch buộc chúng ta rơi vào tình trạng cách ly hoàn toàn, thậm chí không thể gặp gỡ và an ủi bạn bè và người quen đang đau buồn về sự mất mát những người thân yêu của họ. Tác giả thiêng liêng cũng nói: “Với những người sầu khổ, con hãy biết chia buồn” (7:35). Chúng ta đã không thể gần gũi với những người đau khổ, đồng thời, chúng ta đã nhận thức rõ hơn về sự mong manh của sự sống chính mình. Lời Chúa không cho phép tự mãn; Lời liên tục thúc giục chúng ta thực hiện những hành động yêu thương.

9. Đồng thời, mệnh lệnh: “Hãy rộng tay cứu giúp người nghèo khó” thách thức thái độ của những người chỉ thích xỏ tay trong túi quần và không hề rung động trước những hoàn cảnh nghèo khó mà họ thường bắt gặp. Sự thờ ơ và yếm thế là lương thực hàng ngày của họ. Thật là một sự khác biệt so với những bàn tay quảng đại mà chúng ta đã mô tả! Nếu họ đưa bàn tay ra là chỉ để chạm vào bàn phím máy tính để chuyển những khoản tiền từ miền này của thế giới sang miền khác, bảo đảm sự giàu có của một số ít người ưu tú, và sự nghèo đói khốn khổ của hàng triệu người và sự tàn phá toàn bộ quốc gia. Một số bàn tay đang vươn ra để tích lũy tiền bằng cách bán vũ khí, mà những người khác, kể cả những trẻ em, dùng để gieo rắc cái chết và sự nghèo đói. Những bàn tay khác đang vươn ra để bán các liều thuốc tử thần trong những con hẻm tối tăm để trở nên giàu có và sống xa hoa, thừa thãi, hoặc lặng lẽ đút lót hối lộ nhằm mục đích kiếm tiền nhanh chóng và tham nhũng. Vẫn còn những người khác, khoa trương sự đứng đắn giả tạo, đặt ra những luật lệ mà chính họ không tuân thủ.

Trong tất cả những bức tranh này, “người bị loại trừ vẫn đang chờ đợi.” Để duy trì một lối sống loại trừ người khác, hoặc để duy trì sự hăng hái cho lý tưởng ích kỷ đó, một sự toàn cầu hóa tính thờ ơ đã phát triển. Hầu như không nhận thức được điều đó, cuối cùng chúng ta không có khả năng cảm thấy động lòng trắc ẩn trước tiếng kêu khóc của người nghèo, không còn khả năng khóc trước nỗi đau của người khác, và không còn khả năng cảm thấy cần phải giúp đỡ họ, dường như tất cả đây là trách nhiệm của người khác chứ không phải trách nhiệm của chúng ta” (Tông huấn Evangelii Gaudium, 54). Chúng ta không thể có hạnh phúc cho đến chừng nào những bàn tay gieo cái chết được biến đổi thành công cụ của công lý và hòa bình cho toàn thế giới.

10. “Trong mọi lời ăn tiếng nói, hãy nghĩ đến đời con chung cuộc thế nào” (Hc 7:36). Đây là những lời cuối cùng của chương này trong Sách Huấn ca. Có thể hiểu chúng theo hai cách. Thứ nhất, sự sống của chúng ta sớm muộn cũng sẽ kết thúc. Ghi nhớ vận mệnh chung của chúng ta có thể giúp dẫn đến một đời sống biết quan tâm đến những người nghèo hơn chúng ta hoặc thiếu những cơ hội như chúng ta. Nhưng ý thứ hai, cũng có một chung cuộc hoặc đích đến mà mỗi người chúng ta đang hướng tới. Và điều này có nghĩa là đời sống chúng ta là một chương trình và một tiến trình. “Chung cuộc” cho tất cả các hành động của chúng ta chỉ có thể là tình yêu. Đây là mục tiêu tối hậu của hành trình của chúng ta, và không điều gì làm chúng ta sao lãng khỏi nó. Tình yêu này là sự chia sẻ, sự cống hiến và phục vụ, sinh ra từ nhận thức rằng chúng ta được yêu thương và được thức tỉnh trước. Chúng ta nhìn thấy điều này trong cách con trẻ chào đón nụ cười của mẹ chúng và cảm nhận được yêu thương đơn sơ vì đang sống. Ngay cả một nụ cười mà chúng ta có thể chia sẻ với người nghèo là nguồn mạch yêu thương và là cách lan truyền yêu thương. Và một bàn tay vươn tới, luôn có thể được làm giàu thêm bằng nụ cười của những người âm thầm và khiêm tốn sẵn sàng giúp đỡ, được truyền cảm hứng từ niềm vui của sự sống như một trong những môn đệ của Chúa Kitô.

Trong hành trình gặp gỡ hàng ngày với người nghèo, Mẹ Thiên Chúa luôn ở bên chúng ta. Hơn ai hết, Mẹ là Mẹ của Người nghèo. Đức Trinh Nữ Maria hiểu rõ những khó khăn và đau khổ của người bị gạt ra bên lề, vì chính Mẹ đã sinh Con Thiên Chúa trong một máng cỏ. Do sự đe dọa của Hêrôđê, Mẹ đã phải chạy trốn sang một quốc gia khác cùng với Thánh Giuse là chồng của Mẹ cùng với Hài nhi Giêsu. Thánh gia sống như những người tị nạn trong suốt nhiều năm. Xin cho lời khẩn nguyện của chúng ta lên Mẹ Maria, Mẹ của Người nghèo, hiệp nhất những người con yêu dấu của Mẹ, cùng với tất cả những người phục vụ nhân danh Đức Kitô. Và xin cho lời cầu nguyện đó cho phép những bàn tay vươn ra trở thành một cái ôm của tình huynh đệ được sẻ chia và tái khám phá.

Roma, Vương cung Thánh đường Thánh Gioan Lateran, 13 tháng Sáu, 2020, Lễ nhớ Thánh Antôn Padua

PHANXICO

© Libreria Editrice Vatican



[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 14/6/2020]