Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada – Kinh chiều với các giám mục, linh mục, phó tế, người tận hiến, các chủng sinh và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Đức Bà Québec, 28.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada – Kinh chiều với các giám mục, linh mục, phó tế, người tận hiến, các chủng sinh và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Đức Bà Québec, 28.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada – Kinh chiều với các giám mục, linh mục, phó tế, người tận hiến, các chủng sinh và nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Đức Bà Québec, 28.07.2022

*******

Chiều nay, Đức Thánh Cha Phanxicô rời Tòa Tổng Giám mục và di chuyển bằng xe hơi đến Nhà thờ Chánh tòa Đức Bà Québec (Notre-Dame de Québec). Tại đây ngài chủ tế giờ Kinh Chiều với các giám mục, linh mục, người tận hiến, các chủng sinh, và nhân viên mục vụ lúc 17g15 (23.15 giờ Roma).

Khi đến nơi, ngài được Đức Hồng y Gérald Cyprien Lacroix, Tổng giám mục Québec, và Đức cha Raymond Poisson, chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Canada, đón rước. Sau đó, các ngài tiến vào nhà thờ chánh tòa trong tiếng ca của một bài thánh ca.

Sau lời chào ngắn gọn của ngài chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Canada là cử hành giờ Kinh chiều. Sau đó, Đức Giáo Hoàng có bài giảng.

Cuối cùng, Đức Hồng Y Gérald Cyprien Lacroix, tổng giám mục Québec, đã tháp tùng Đức Thánh Cha Phanxicô đến mộ Thánh François de Laval, nơi các ngài dừng lại cầu nguyện trong thinh lặng. Các thánh tích của nhiều vị thánh Canada cũng được trưng bày.

Sau đó Đức Thánh Cha trở về tòa tổng giám mục bằng xe hơi, và ngài dùng bữa tối riêng.

Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha trong giờ cử hành Kinh Chiều:

______________________________________

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Thưa các huynh đệ Giám mục, thưa các linh mục và phó tế, anh chị em tận hiến, các chủng sinh và nhân viên mục vụ, xin chào buổi tối!

Tôi xin cảm ơn Đức cha Poisson vì những lời chào mừng của ngài và tôi xin chào tất cả anh chị em, đặc biệt là những anh chị em đã phải đi một chặng đường dài để đến đây. Khoảng cách ở trong đất nước của anh chị em quả thật rất lớn! Cảm ơn anh chị em! Tôi thật hạnh phúc khi được ở đây với anh chị em!

Thật ý nghĩa khi chúng ta ở trong Vương cung Thánh đường Đức Bà Québec, Nhà thờ Chánh tòa đặc biệt này và là tòa Giám mục đầu tiên của Canada, với vị Giám mục tiên khởi là Thánh François de Laval, đã mở Chủng viện vào năm 1663 và cống hiến trọn vẹn thừa tác vụ của ngài cho việc đào tạo linh mục. Bài đọc ngắn mà chúng ta đã nghe nói với chúng ta về “các kỳ mục”, tức là những thầy tư tế. Thánh Phêrô thúc giục chúng ta: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ” (1 Pr 5:2). Là Dân tộc của Chúa quy tụ tại đây, chúng ta hãy nhớ rằng Chúa Giêsu là vị Mục Tử của cuộc đời chúng ta, là Đấng chăm sóc chúng ta vì Ngài thực sự yêu thương chúng ta. Là những mục tử của Giáo hội, chúng ta được yêu cầu thể hiện sự quảng đại đó qua việc chăm sóc đoàn chiên, để biểu lộ sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với mọi người và lòng trắc ẩn của Ngài đối với vết thương của mỗi người.

Chính vì chúng ta là dấu chỉ của Đức Kitô, Thánh Phêrô Tông đồ thúc giục chúng ta chăm sóc cho đoàn chiên, dẫn dắt đoàn chiên, đừng để đoàn chiên lạc lối trong khi chúng ta bận rộn lo việc riêng. Chăm sóc đoàn chiên bằng sự tận tâm và tình yêu thương dịu dàng. Thánh Phêrô bảo chúng ta làm điều này vì “lòng nhiệt thành tận tụy”, không vì bắt buộc, không phải là nhiệm vụ, không phải là những nhân viên tôn giáo “hành nghề”, những công chức thiêng liêng, nhưng nhiệt thành và với tấm lòng của một người mục tử. Nếu chúng ta nhìn vào Đức Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, trước khi nhìn vào chính mình, chúng ta sẽ khám phá ra rằng chính chúng ta được “chăm sóc” bằng tình yêu thương xót; chúng ta sẽ cảm nhận được sự gần gũi của Chúa. Đây là nguồn mạch niềm vui của thừa tác vụ và trên hết là niềm vui của đức tin. Nó không phải là tất cả những gì chúng ta có thể hoàn thành, nhưng biết được rằng Thiên Chúa luôn ở gần chúng ta, rằng Người đã yêu thương chúng ta trước và Người luôn đồng hành với chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta.

Thưa anh chị em, đây là niềm vui của chúng ta. Nó không phải là một niềm vui rẻ tiền, giống như niềm vui mà thế gian có lúc đề xuất, làm lóa mắt chúng ta bằng pháo hoa. Niềm vui này không phải là về sự giàu có, tiện nghi hay sự an toàn. Nó thậm chí không cố gắng thuyết phục chúng ta rằng cuộc sống sẽ luôn tốt đẹp, không có thập giá và các vấn đề. Niềm vui của người Kitô hữu là kinh nghiệm của sự bình an trong tâm hồn chúng ta, ngay cả khi chúng ta đang bị những thử thách và đau khổ tấn công, vì khi đó chúng ta biết rằng chúng ta không đơn độc, nhưng được Thiên Chúa đồng hành, là Đấng không thờ ơ với phận đời của chúng ta. Khi biển động: giông bão luôn cuồn cuộn trên mặt nhưng dưới tầng biển sâu vẫn êm đềm và bình yên. Niềm vui của người Kitô hữu cũng như vậy: nó là một món quà nhưng không, biết chắc rằng chúng ta được Chúa Kitô yêu thương, nâng đỡ và đón nhận trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Bởi vì Ngài là Đấng giải thoát chúng ta khỏi sự ích kỷ và tội lỗi, khỏi nỗi buồn cô đơn, khỏi nỗi trống vắng và sợ hãi trong lòng, và cho chúng ta một cái nhìn mới về cuộc sống và lịch sử: “Với Đức Kitô, niềm vui luôn được tái sinh” (Tông huấn Evangelii Gaudium, 1).

Vì vậy, chúng ta hãy tự hỏi mình câu này: Chúng ta đang làm như thế nào để có được niềm vui? Giáo hội của chúng ta có bày tỏ niềm vui của Tin Mừng không? Trong các cộng đoàn của chúng ta có niềm tin có thể tạo sự cuốn hút bởi niềm vui mà nó chuyển tải không?

Nếu muốn đi vào gốc rễ của những câu hỏi này, chúng ta cần suy ngẫm về những gì đang đe dọa niềm vui của đức tin trong thế giới hôm nay, và từ đó có nguy cơ làm sa sút niềm tin và ảnh hưởng đến đời sống người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta có thể nghĩ ngay đến sự tục hóa, nó ảnh hưởng rất nhiều đến lối sống của con người đương thời, đẩy Thiên Chúa vào hậu trường. Dường như Thiên Chúa đã biến khỏi chân trời, và Lời của Ngài dường như không còn là chiếc la bàn hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, những quyết định cơ bản của chúng ta, các mối quan hệ con người và xã hội của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta cần phải rõ ràng về một điều. Khi chúng ta xét đến nền văn hóa xung quanh, và sự đa dạng của các ngôn ngữ và biểu tượng của nó, chúng ta phải cẩn thận để không trở thành con mồi của chủ nghĩa yếm thế hoặc phẫn uất, chuyển ngay sang những phán xét tiêu cực hoặc sự hoài niệm viển vông. Chúng ta có thể có hai cách nhìn đối với thế giới mà chúng ta đang sống: tôi gọi một cách nhìn là “cách nhìn tiêu cực”, và cách nhìn kia là “cách nhìn phân định”.

Trước hết là cách nhìn tiêu cực, thường xuất phát từ một niềm tin cảm thấy bị tấn công và coi đó như một loại “áo giáp” bảo vệ chúng ta trước thế giới. Cách nhìn này cay đắng phàn nàn rằng “thế giới là xấu xa; tội lỗi đang ngự trị”, và từ đó có nguy cơ khoác lên cho mình một “tinh thần thập tự chinh”. Chúng ta phải cẩn thận, bởi vì đây không phải là Kitô giáo; quả thật đó không phải là đường lối của Thiên Chúa, – như Tin Mừng đã nhắc nhở chúng ta – là Đấng “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Thiên Chúa ghê tởm tính thế gian và có cái nhìn tích cực về thế gian. Ngài chúc phúc cho cuộc sống của chúng ta, nói tốt về chúng ta và hoàn cảnh của chúng ta, và nhập thể vào hoàn cảnh lịch sử, không phải để lên án, nhưng làm cho hạt giống Nước Trời phát triển ở những nơi mà bóng tối dường như chiến thắng. Tuy nhiên, nếu chúng ta bị giới hạn trong cách nhìn tiêu cực, thì cuối cùng chúng ta sẽ phủ nhận sự nhập thế: chúng ta sẽ trốn chạy khỏi thực tại, thay vì làm cho nó nhập thể trong chúng ta. Chúng ta sẽ tự thu mình lại, than thở về những mất mát của mình, không ngừng kêu ca phàn nàn và rơi vào sự u ám và bi quan, đây là điều không bao giờ đến từ Thiên Chúa. Thay vì vậy, chúng ta được kêu gọi có cái nhìn giống như cái nhìn của Chúa, Đấng phân biệt điều gì là tốt và kiên trì tìm kiếm nó, nhìn thấy nó và nuôi dưỡng nó. Đây không phải là một cái nhìn ngây thơ, mà là một cái nhìn phân định thực tế.

Để thanh luyện sự phân định của chúng ta về thế giới tục hóa, chúng ta hãy lấy cảm hứng từ những lời của Thánh Phaolô VI viết trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi, một Tông huấn vẫn còn rất phù hợp cho ngày nay. Ngài hiểu sự thế tục là “một cố gắng tự nó là đứng đắn và chính đáng không hề nghịch với đức tin và đạo lý” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi, 55) để khám phá các quy luật chi phối thực tại và cuộc sống con người do Đấng Tạo Hóa ghi khắc. Thiên Chúa không muốn chúng ta là những nô lệ, nhưng trở thành những người con; Người không muốn đưa ra quyết định cho chúng ta, hoặc áp chế chúng ta bằng một quyền lực thiêng liêng, thực thi trong một thế giới được điều hành bởi các luật lệ tôn giáo. Không! Người tạo dựng nên chúng ta để được tự do, và Ngài muốn chúng ta trở thành những con người trưởng thành và có trách nhiệm trong cuộc sống cũng như trong xã hội. Thánh Phaolô VI đã phân biệt tính thế tục với chủ nghĩa tục hóa, một quan niệm sống hoàn toàn tách rời sự liên kết với Đấng Tạo dựng, để Thiên Chúa trở nên “thừa và là sự phiền toái”, và tạo ra “những hình thức vô thần mới” tinh tế và đa dạng: “một nền văn minh tiêu thụ, nâng chủ nghĩa khoái lạc lên thành giá trị tối thượng, một ý muốn tham quyền thống trị, những kỳ thị đủ loại” (sđd). Trong vai trò là Giáo hội, và trên hết là những người mục tử của Dân Chúa, là những người tận hiến, chủng sinh và những người làm công tác mục vụ, chúng ta phải thực hiện những phân biệt này, thực hiện sự phân định này. Nếu chúng ta đầu hàng cái nhìn tiêu cực và đánh giá vấn đề một cách hời hợt, chúng ta có nguy cơ gửi đi một thông điệp sai lầm, như thể sự chỉ trích tính thế tục của chúng ta là để khỏa lấp cho sự hoài niệm về một thế giới thánh hóa, một xã hội đã qua, trong đó Giáo hội và các thừa tác viên của Giáo hội có quyền bính và ảnh hưởng xã hội lớn hơn. Và đây là một cách nhìn nhận sai lầm.

Thay vào đó, như một trong những học giả lớn của thời đại chúng ta đã nhận xét, vấn đề thực sự của tính thế tục đối với người Kitô hữu chúng ta không phải là sự ảnh hưởng xã hội của Giáo hội bị giảm đi hay mất mát của cải vật chất và các đặc quyền. Đúng hơn, tính thế tục đòi hỏi chúng ta phải suy tư về những thay đổi trong xã hội đã ảnh hưởng đến cách con người suy nghĩ và tổ chức cuộc sống của họ. Nếu chúng ta xem xét khía cạnh này của vấn đề, chúng ta nhận ra rằng điều đang gặp khủng hoảng không phải là đức tin, mà là một số hình thức và cách thức chúng ta trình bày nó. Do đó, tính thế tục trình bày một thách đố cho khả năng sáng tạo mục vụ của chúng ta, nó là “một cơ hội để tái cấu trúc đời sống tinh thần theo những hình thức mới và cho những lối sống mới” (C. Taylor, A Secular Age, Cambridge 2007, 437). Theo cách này, trong khi thừa nhận những khó khăn mà chúng ta đang phải đối mặt trong việc truyền đạt niềm vui của đức tin, một cái nhìn phân định thúc đẩy chúng ta, đồng thời phát triển lòng nhiệt thành rao truyền tin mừng mới, tìm kiếm những ngôn ngữ và hình thức diễn đạt mới, để thay đổi những ưu tiên mục vụ và tập trung vào các yếu tố trọng yếu.

Anh chị em thân mến, Tin Mừng cần được công bố nếu chúng ta muốn thông truyền niềm vui đức tin cho con người ngày nay. Tuy nhiên, sự công bố này không thuần túy là lời nói, mà là chứng tá đầy tình yêu thương nhưng không, vì đó là cách của Thiên Chúa đối với chúng ta. Một sự công bố phải được định hình trong lối sống của các cá nhân và hội thánh có thể khơi dậy lòng khao khát Chúa, nuôi dưỡng hy vọng và thể hiện sự tín thác và tính khả tín. Ở đây, trong tinh thần huynh đệ, cho phép tôi gợi lên ba thách đố có thể định hình việc cầu nguyện và phục vụ mục vụ của anh chị em.

Thách đố đầu tiên là làm cho Chúa Giêsu được biết đến. Trong những sa mạc thiêng liêng của thời đại chúng ta, được tạo ra bởi sự tục hóa và thờ ơ, chúng ta cần trở lại cách loan báo ban đầu. Tôi xin nhắc lại: cần phải trở lại cách loan báo ban đầu. Chúng ta không thể cứ thông đạt niềm vui của đức tin bằng cách trình bày những khía cạnh thứ yếu cho những người chưa đón nhận Chúa trong đời sống của họ, hoặc bằng cách đơn giản là lặp lại những cách thực hành hoặc sao chép những hình thức cũ của công tác mục vụ. Chúng ta phải tìm ra những cách thức mới để loan báo trọng tâm của Tin Mừng cho những người chưa gặp gỡ Đức Kitô. Điều này đòi hỏi tính sáng tạo mục vụ có khả năng tiếp cận với mọi người ở nơi họ đang sống – không phải đợi họ tìm đến – tìm cơ hội để lắng nghe, đối thoại và gặp gỡ. Chúng ta cần trở lại với sự đơn sơ và nhiệt thành của Tông đồ Công vụ, với nét đẹp khi nhận ra rằng chúng ta là những khí cụ sinh hoa trái của Thần Khí ngày nay. Chúng ta cần trở về Galilê. Có một cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa Giêsu Phục Sinh: việc trở lại Galilê – xin anh chị em cho phép tôi sử dụng cách diễn đạt này – là bắt đầu lại sau vấp ngã. Mỗi người chúng ta đều có “Galilê” của riêng mình, là nơi công bố ban đầu. Chúng ta cần khám phá lại ký ức này.

Tuy nhiên, để loan báo Tin Mừng, chúng ta cũng phải trở nên khả tín. Đây là thách đố thứ hai: làm chứng. Tin Mừng được rao giảng một cách hữu hiệu khi chính cuộc sống nói lên và vén mở sự tự do giải phóng cho người khác, lòng trắc ẩn không đòi được đền đáp, lòng thương xót âm thầm giới thiệu Đức Kitô. Giáo hội Canada đã đi trên một con đường mới, sau khi bị tổn thương và tàn phá bởi sự dữ do một số con cái gây ra. Tôi đặc biệt nghĩ đến sự lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương, những vụ bê bối đòi hỏi hành động kiên quyết và cam kết vững chắc. Cùng với anh chị em, một lần nữa tôi muốn xin tất cả các nạn nhân tha thứ. Nỗi đau đớn và sự xấu hổ mà chúng ta cảm nhận phải trở thành một cơ hội để sám hối: không bao giờ tái phạm! Và suy nghĩ về tiến trình hàn gắn và hòa giải với các anh chị em bản xứ của chúng ta, cộng đồng Kitô giáo không bao giờ cho phép mình một lần nữa bị lây nhiễm với tư tưởng cho rằng nền văn hóa này vượt trội hơn các nền văn hóa khác, hoặc áp dụng những cách ép buộc người khác là hợp pháp. Chúng ta hãy khôi phục lại lòng nhiệt thành truyền giáo của vị Giám mục tiên khởi của anh chị em là Thánh François de Laval, người đã mạnh mẽ lên án những kẻ hạ nhục người dân bản địa bằng cách chuốc rượu mạnh cho họ để sau đó lừa gạt họ. Chúng ta không cho phép bất kỳ hệ tư tưởng nào chia cách hoặc làm sai lệch các phong tục và lối sống của các dân tộc chúng ta, như một cách để khuất phục hoặc kiểm soát họ. Những tiến bộ của nhân loại cần phải được hòa lẫn vào bản sắc văn hóa của họ bằng những điểm then chốt của văn hóa.

Để đánh bại văn hóa loại trừ này, chúng ta phải bắt đầu từ chính bản thân chúng ta: các giám mục và linh mục không nên cảm thấy mình cao hơn anh chị em của chúng ta trong Dân Chúa; những anh chị em tận hiến nên sống tình huynh đệ và tự do qua sự vâng phục trong cộng đồng; các chủng sinh cần phải sẵn sàng trở thành những người phục vụ nhu mì và dễ tiếp cận; những nhân viên mục vụ không nên hiểu sự phục vụ là quyền lực. Đây là điểm chúng ta phải bắt đầu. Anh chị em là những nhân vật then chốt và là những người xây dựng nên một Giáo hội khác: khiêm nhường, hiền lành, nhân hậu, đồng hành với các tiến trình, là những người lao công kiên định và thanh thản phục vụ sự hội nhập văn hóa, và thể hiện sự tôn trọng đối với mỗi cá nhân và mọi sự khác biệt về văn hóa và tôn giáo. Chúng ta hãy thực hiện chứng tá này!

Cuối cùng là thách đố thứ ba: tình huynh đệ. Xin nhắc lại, thách đố đầu tiên là làm cho Chúa Giêsu được biết đến và thách đố thứ hai là làm chứng. Thứ ba là tình huynh đệ. Giáo hội sẽ là nhân chứng khả tín cho Tin Mừng khi càng có nhiều thành viên thể hiện tình hiệp thông, tạo cơ hội và tình huống cho phép tất cả những ai đến với đức tin gặp được một cộng đoàn chào đón, một cộng đoàn có khả năng lắng nghe, tham gia đối thoại và thúc đẩy các mối quan hệ chất lượng. Đó là điều mà Thánh François de Laval đã nói với các nhà truyền giáo: “Thường thì một lời nói cay độc, một cử chỉ thiếu kiên nhẫn, một cái nhìn khó chịu sẽ phá hủy ngay lập tức những gì đã mất rất nhiều thời gian để hoàn thành” (Hướng dẫn cho các nhà truyền giáo, 1668).

Chúng ta đang nói về cách sống trong một cộng đoàn Kitô giáo để trở thành trường học của nhân loại theo cách này, nơi tất cả mọi người có thể học cách yêu thương nhau như anh chị em, sẵn sàng làm việc cùng nhau vì ích chung. Thật vậy, trọng tâm của việc rao giảng Tin Mừng là tình yêu của Thiên Chúa, là tình yêu biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta có khả năng hiệp thông với mọi người và phục vụ mọi người. Như một nhà thần học người Canada đã viết: “Tình yêu mà Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta đổ đầy trong sự yêu thương ... Đó là tình yêu đã thúc đẩy Người Samari Nhân hậu dừng lại và chăm sóc người đi đường đã bị kẻ cướp tấn công. Đó là một tình yêu không biên giới, tình yêu tìm kiếm Nước Thiên Chúa ... và vương quốc này là phổ quát ”(B. LONERGAN, ‘Tương lai của Kitô giáo’, trong A Second Collection: Papers by Bernard F.J. Lonergan, S.J., London 1974, 154). Giáo hội được mời gọi để thể hiện tình yêu không biên giới này, để thực hiện ước mơ của Thiên Chúa dành cho nhân loại: làm cho tất cả chúng ta trở thành anh chị em. Chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta đang làm thế nào khi nói đến tình huynh đệ thiết thực giữa chúng ta? Giữa các giám mục với nhau và với các linh mục của mình, giữa các linh mục với nhau và với Dân Chúa. Chúng ta có phải là anh em, hay là đối thủ chia thành phe phái? Và các mối quan hệ của chúng ta với những người không phải là “người của chúng ta” là như thế nào, với những người không tin, với những người có truyền thống và phong tục khác? Đây là con đường: hãy xây dựng những mối quan hệ huynh đệ với mọi người, với các anh chị em người bản địa, với mọi anh chị em mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa được phản chiếu trên từng khuôn mặt của họ.

Thưa anh chị em, đây mới chỉ là một vài thách thức. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta chỉ có thể đối mặt với chúng bằng sức mạnh của Thần Khí, là Đấng chúng ta phải luôn dâng lên lời khẩn nguyện. Chúng ta đừng để tinh thần tục hóa xâm nhập vào giữa chúng ta, vì cho rằng chúng ta có thể xây dựng các kế hoạch hoạt động một cách máy móc, và chỉ bằng nỗ lực của con người, xa rời Thiên Chúa. Xây dựng kế hoạch mà không cần Thiên Chúa là sùng bái ngẫu thần. Và, xin chúng ta đừng khép mình lại bằng cách “quay nhìn lại”, nhưng hãy tiến về phía trước với niềm vui!

Chúng ta hãy thực hành những lời nguyện sau đây mà giờ đây chúng ta dâng lên Thánh François de Laval:

Ngài là người vì tha nhân, là người đến thăm viếng bệnh nhân,

cho người nghèo quần áo mặc, bảo vệ phẩm giá của các dân tộc ban đầu,

hỗ trợ những cố gắng tích cực của các nhà truyền giáo,

luôn sẵn sàng tiến đến với những người thua kém.

Không biết bao lần dự án của ngài đã thất vọng!

Nhưng mỗi lần như vậy, ngài lại vực chúng dậy.

Ngài hiểu rằng Thiên Chúa không xây bằng đá,

và rằng trong miền đất chán nản này,

cần có một người xây dựng hy vọng.

Tôi cảm ơn mọi việc anh chị em làm, và tôi ban phép lành cho anh chị em. Xin hãy tiếp tục cầu nguyện cho tôi.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 29/7/2022]


Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada – Tham dự cuộc Hành hương ở Lac Ste. Anne và Phụng vụ Lời Chúa, 26.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada – Tham dự cuộc Hành hương ở Lac Ste. Anne và Phụng vụ Lời Chúa, 26.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến Canada – Tham dự cuộc Hành hương ở Hồ Thánh Anna và Phụng vụ Lời Chúa, 26.07.2022

*******

Chiều nay, sau khi rời Chủng viện Thánh Giuse, Đức Thánh Cha Phanxicô đã di chuyển bằng xe hơi đến Lac Ste. Anne, tại đây, lúc 17 giờ (1:00 Roma), ngài tham dự cuộc hành hương Hồ Thánh Anna và chủ sự phần Phụng vụ Lời Chúa.

Khi đến nơi, ngài được cha xứ, linh mục đặc trách các cuộc hành hương và một số tín hữu chào đón trước nhà thờ xứ. Sau đó, ngài tiến đến hồ nước, đi qua trước tượng Thánh Anna, trong tiếng trống rước. Khi đến hồ, Đức Thánh Cha làm dấu thánh giá theo hướng của bốn điểm chính, hợp với phong tục bản địa và ban phép lành cho nước của hồ. Tiếp theo ngài tiến lên đài lễ, và sau các bài đọc, Thánh vịnh đáp ca và công bố Tin Mừng, ngài có bài giảng. Và sau lời nguyện giáo dân, Kinh Lạy Cha và phép lành cuối lễ, và làm phép tượng Đức Mẹ Tháo gỡ những Nút thắt, Đức Thánh Cha lên xe giáo hoàng và trở về nhà thờ giáo xứ.

Ngài lên xe trở về Chủng viện Thánh Giuse, tại đây ngài ăn tối riêng.

Sau đây là bài giảng của Đức Thánh Cha trong phần Phụng vụ Lời Chúa.

___________________________________

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, âba-wash-did! Tansi! Oki! [Chúc ngày tốt lành!]

Tôi rất vui mừng được có mặt ở đây, một người hành hương cùng với anh chị em và ở giữa anh chị em. Trong những ngày này, và đặc biệt là hôm nay, tôi vô cùng ấn tượng với những tiếng trống cùng đồng hành với tôi bất cứ nơi nào tôi đến. Nhịp trống này dường như là tiếng vang vọng nhịp đập của rất nhiều con tim: những trái tim đã đập bên cạnh các vùng nước này suốt nhiều thế kỷ; những trái tim của nhiều người hành hương đã tiến đến “hồ nước của Chúa”! Ở đây, chúng ta thật sự có thể cảm nhận được nhịp đập hòa hợp của những người hành hương, của nhiều thế hệ đang trên hành trình tiến về với Thiên Chúa để cảm nhận sự chữa lành của Người. Biết bao trái tim đã đến đây trong sự bồn chồn thao thức, bị những gánh nặng cuộc sống đè nặng, và tìm được niềm an ủi và sức mạnh để tiếp tục bên những dòng nước này! Ở đây, đắm chìm giữa tạo vật, chúng ta cũng có thể cảm nhận một nhịp đập khác: nhịp đập trái tim của mẹ đất. Vì vậy, cũng giống như tim của các trẻ trong cung lòng mẹ hòa nhịp đập với trái tim của mẹ chúng, để lớn lên thành người, chúng ta cần phải hòa hợp nhịp sống của chúng ta với nhịp sống của tạo vật đã và đang trao tặng cho chúng ta sự sống. Vậy hôm nay, chúng ta hãy trở về với nguồn cội của sự sống: trở về với Chúa, về với cha mẹ của chúng ta, và trong ngày lễ hôm nay và trong ngôi nhà của Thánh Anna, trở về với ông bà của chúng ta, là những người mà tôi gửi đến lời chào với lòng trìu mến.

Được truyền cảm hứng từ những nhịp đập vô cùng quan trọng này, chúng ta ở đây, thinh lặng chiêm ngưỡng làn nước của hồ này. Việc đó cũng giúp chúng ta trở lại nguồn cội của đức tin. Thật vậy, nó cho phép chúng ta đến viếng những thánh địa trong tinh thần: để hình dung Chúa Giêsu đã thực hiện phần lớn sứ vụ của Ngài trên bờ hồ: Biển hồ Galilê. Tại đó, Ngài đã chọn và gọi các Tông đồ, rao giảng các Mối phúc, giảng dạy nhiều dụ ngôn, thực hiện các dấu lạ và chữa lành. Tuy nhiên, hồ nước đó, trái tim của “Galilê miền đất của dân ngoại” (Mt 4:15), là một vùng ngoại vi, là một ngã tư thương mại, nơi hội tụ nhiều dân tộc, khiến vùng này trở thành một vùng với các tôn giáo và phong tục tập quán khác nhau. Về mặt địa lý và văn hóa, nó là địa điểm xa nhất so với khu vực tôn giáo toàn tòng ở Giêrusalem, xung quanh Đền thờ. Vì vậy, chúng ta có thể nghĩ về hồ nước đó, Biển hồ Galilê, như một nơi với sự đa dạng: ngư dân và những người thu thuế, các đại đội trưởng và nô lệ, người Pharisêu và người nghèo, những người nam và nữ từ nhiều nguồn gốc và hoàn cảnh xã hội khác nhau, tất cả đều đến với nhau trên bờ biển hồ đó. Chính tại nơi đó, Chúa Giêsu đã rao giảng về Nước Thiên Chúa: không riêng cho một cộng đoàn tôn giáo được chọn lọc, nhưng cho nhiều dân tộc khác nhau, như hôm nay, tuôn đến từ những nơi khác nhau; trong một nhà hát tự nhiên như thế này, Ngài đã giảng dạy và chào đón mọi người.

Chúa đã chọn bối cảnh đa dạng phong phú đó để loan báo cho thế gian những điều mang tính cách mạng: chẳng hạn, “hãy giơ cả má bên trái ra nữa, hãy yêu kẻ thù, hãy sống như anh chị em với nhau để được trở nên con cái của Thiên Chúa, Đấng là Cha cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x. Mt 5:38-48). Hồ này, với tất cả sự đa dạng của nó, đã trở thành địa điểm của lời công bố chưa từng có về tình huynh đệ; không phải là một cuộc cách mạng mang lại sự chết chóc và thương tật khi nó xảy ra, nhưng là một cuộc cách mạng của tình yêu. Ở đây, bên bờ hồ này, những thanh âm của trống đã trải qua nhiều thế kỷ và hiệp nhất các dân tộc, đưa chúng ta trở lại thời điểm đó. Nó nhắc nhở chúng ta rằng tình huynh đệ trở nên đích thực nếu nó hiệp nhất những người ở xa nhau, rằng thông điệp về sự hiệp nhất mà Thiên Chúa đưa xuống trần gian không sợ hãi những khác biệt, nhưng mời gọi chúng ta đến với những mối tương giao, một sự hiệp thông của những khác biệt, để bắt đầu lại với nhau, bởi vì tất cả chúng ta đều là những người hành hương trên một hành trình.

Anh chị em thân mến, là những người hành hương đến các vùng nước này, lời Chúa có thể giúp chúng ta nhận biết những gì chúng ta có thể kín múc từ các dòng nước. Tiên tri Êdêkien nói với chúng ta hai lần rằng nước chảy từ trong Đền thờ vừa “ban sự sống” vừa “chữa lành” cho dân Chúa (xem Ed 47:8-9).

Nước mang lại sự sống. Tôi nghĩ đến nhiều người bà thân yêu đang ở đây với chúng ta: trái tim của các bà là suối nguồn từ đó dòng nước đức tin sống động tuôn đổ ra, và với dòng nước đó, các bà đã làm dịu cơn khát của con cháu mình. Tôi vô cùng ấn tượng trước vai trò quan trọng của người phụ nữ trong các cộng đồng bản địa: họ chiếm một vị trí cao như là nguồn mạch phúc lành không chỉ về thể chất mà cả về đời sống tinh thần. Khi nghĩ về những kokum của anh chị em, tôi cũng nhớ đến bà của tôi. Từ bà, tôi đón nhận được thông điệp đức tin ban đầu và hiểu rằng Tin Mừng được truyền đạt thông qua sự quan tâm yêu thương và sự khôn ngoan trong cuộc sống. Niềm tin hiếm khi đến từ việc đọc sách một mình trong góc phòng; thay vào đó, đức tin lan tỏa trong các gia đình, được truyền đi bằng ngôn ngữ của những người mẹ, trong tiếng ru ngọt ngào của những người bà. Tôi thấy ấm lòng khi nhìn thấy rất nhiều người ông bà và cụ cố ở đây. Xin cảm ơn ông bà! Tôi xin cảm ơn ông bà và muốn nói với tất cả những gia đình có người già ở trong nhà rằng: bạn đang sở hữu một kho báu! Hãy bảo vệ nguồn mạch sống này trong gia đình của bạn: hãy nâng niu nó, như một di sản quý giá cần được yêu thương và trân quý.

Ngôn sứ cũng nói rằng, ngoài việc mang đến sự sống, nước còn chữa lành. Điều này cũng đưa chúng ta quay trở lại bờ Biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu “chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật” (Mc 1:34). Khi hoàng hôn buông xuống, “người ta đem mọi kẻ ốm đau đến cho Người” (câu 32). Tối nay, chúng ta hãy hình dung mình đang ở quanh hồ với Chúa Giêsu, khi Người đến gần, cúi xuống và với lòng kiên nhẫn, lòng trắc ẩn và sự dịu dàng, chữa lành cho nhiều người mang những căn bệnh về thể xác hoặc tinh thần: người bị quỷ ám, người bại liệt, người mù và người phong hủi, và cả những người bị tan vỡ cõi lòng và thất vọng, người bị lạc lối và tổn thương. Chúa Giêsu đã đến khi đó, và bây giờ Ngài vẫn đang đến, để chăm sóc chúng ta, để an ủi và chữa lành cho gia đình nhân loại cô đơn và mệt mỏi của chúng ta. Người ngỏ lời mời gọi sau đây với mọi người, và với chúng ta: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28). Hoặc như Người nói trong trích đoạn chúng ta đã nghe chiều nay: “Ai khát, hãy đến với tôi, hãy đến mà uống” (Ga 7:37-38).

Thưa anh chị em, tất cả chúng ta cần sự chữa lành của Chúa Giêsu, là thầy thuốc của linh hồn và thân xác. Lạy Chúa, như những người bên bờ Biển hồ Galilê đã không ngại kêu lên cùng Chúa với những nhu cầu của họ, nên chúng con cũng đến với Người, lạy Chúa, tối nay, với tất cả những nỗi đau chúng con mang trong mình. Chúng con mang đến cho Người sự mệt mỏi và những cuộc đấu tranh của chúng con, những vết thương do bạo lực mà những người anh chị em bản địa của chúng con đã phải gánh chịu. Tại nơi diễm phúc này, nơi sự hòa hợp và bình an ngự trị, chúng con xin dâng lên Chúa những kinh nghiệm bất hòa của chúng con, những tác hại khủng khiếp của sự thực dân hóa, những nỗi đau không thể xóa nhòa của rất nhiều gia đình, những người ông bà và trẻ em. Lạy Chúa, xin giúp chữa lành những vết thương của chúng con. Lạy Chúa, chúng con biết rằng điều này đòi hỏi chúng con phải nỗ lực, phải chăm sóc và có những hành động cụ thể về phía chúng con; nhưng chúng con cũng biết rằng chúng con không thể làm được điều này một mình. Chúng con trông cậy vào Chúa và sự cầu bầu của Mẹ Người và Bà của Người.

Vâng, lạy Chúa, chúng con phó thác cho sự chuyển cầu của Thân Mẫu Người và Bà của Người, vì những người mẹ và những người bà giúp chữa lành các vết thương lòng của chúng con. Vào thời điểm đầy kịch tính của cuộc chinh phục, Đức Mẹ Guadalupe đã truyền đức tin đích thực cho người dân bản địa, nói ngôn ngữ của họ và mặc trang phục của họ, không bạo lực hay áp đặt. Ngay sau đó, với sự xuất hiện của việc in ấn, những quyển sách về quy tắc ngôn ngữ và giáo lý đầu tiên đã được xuất bản bằng các ngôn ngữ bản địa. Không biết bao điều tốt lành đã được thực hiện về mặt này bởi những nhà truyền giáo, trong vai trò là những người rao giảng Tin mừng đích thực, đã bảo tồn các ngôn ngữ và văn hoá bản địa ở nhiều nơi trên thế giới! Ở Canada, sự “hội nhập văn hóa đầy tình mẫu tử” này đã diễn ra thông qua Thánh Anna, kết hợp giữa nét đẹp của các truyền thống bản địa và đức tin, đồng thời tô điểm chúng bằng sự ngôn ngoan của một người Bà, người hai lần làm mẹ.

Giáo hội cũng là một người nữ, một người mẹ. Trên thực tế, chưa từng có lần nào trong lịch sử Giáo hội mà đức tin không được truyền lại bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, được truyền lại bởi những người bà và người mẹ. Tuy nhiên, một phần của di sản đau thương mà chúng ta đang phải đối mặt bắt nguồn từ thực tế rằng những người bà bản địa đã bị ngăn cản việc truyền lại đức tin bằng ngôn ngữ và văn hóa của họ. Sự mất mát đó chắc chắn là bi thảm, nhưng sự hiện diện của anh chị em ở đây minh chứng cho tính kiên cường và một khởi đầu mới, của cuộc hành hương hướng tới sự chữa lành, của một trái tim rộng mở với Thiên Chúa, Đấng chữa lành đời sống của các cộng đồng. Tất cả chúng ta, với tư cách là một Giáo hội, giờ đây cần được chữa lành: chữa lành khỏi cám dỗ khép mình lại, bảo vệ thể chế hơn là tìm kiếm sự thật, thích quyền lực thế gian hơn là phục vụ Tin Mừng. Anh chị em thân mến, với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta hãy giúp nhau trong việc đóng góp sức mình xây dựng một Giáo hội Mẹ đẹp lòng Người: có khả năng ôm lấy từng người con của mình; một Giáo hội rộng mở cho tất cả mọi người và nói với tất cả mọi người; một Giáo hội không chống lại bất kỳ ai, và gặp gỡ tất cả mọi người.

Những đám đông tại Biển hồ Galilê tụ tập quanh Chúa Giêsu đa phần là những con người bình thường, đơn sơ, họ mang đến cho Ngài những nhu cầu và nỗi đau của riêng họ. Nếu chúng ta muốn chăm sóc và chữa lành đời sống của cộng đồng chúng ta, chúng ta cần phải bắt đầu từ những người nghèo và bị thua thiệt nhất. Thông thường, chúng ta cho phép mình được dẫn dắt bởi lợi ích của một số ít người sung túc. Chúng ta cần nhìn nhiều hơn đến các vùng ngoại vi và lắng nghe tiếng khóc của những người anh chị em bé mọn nhất của chúng ta. Chúng ta cần học cách lắng nghe nỗi đau của những người thường kêu lên trong thầm lặng: “Xin đừng bỏ rơi chúng tôi!” trong những thành phố chật chội và thờ ơ của chúng ta, Đó cũng là lời van xin của những người già có nguy cơ bị chết cô đơn tại nhà hoặc trong viện dưỡng lão. Với những người bệnh, thay vì được sự yêu mến, họ lại được cung cấp cho cái chết. Chính những lời cầu xin bị bóp nghẹt của người trẻ trở thành con mồi của những chứng nghiện ngập chỉ đưa họ tới sự chán nản và thất vọng, không còn tin vào bản thân hoặc yêu thương chính con người của họ, không còn biết trân quý vẻ đẹp của cuộc sống của họ. Họ bị chất vấn nhiều hơn là được lắng nghe, họ trao quyền tự do của mình cho chiếc điện thoại di động, trong khi những người trẻ khác lang thang, lạc lõng, không mục đích. Xin đừng bỏ rơi chúng tôi! Đó là tiếng kêu của những người muốn một thế giới tốt đẹp hơn nhưng không biết bắt đầu từ đâu.

Trong bài Tin Mừng tối hôm nay, Chúa Giêsu, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta bằng nước hằng sống của Thần Khí, cũng yêu cầu điều đó từ chúng ta, từ tâm hồn của những người tin vào Ngài, “những dòng nước hằng sống sẽ tuôn chảy” (xem câu 38).

Nhưng liệu chúng ta có thể làm dịu cơn khát của anh chị em mình không? Trong khi tiếp tục cầu xin Thiên Chúa ban sự an ủi, chúng ta có thể mang đến sự an ủi cho người khác không? Chuyện thường xảy đến là chúng ta giải phóng bản thân khỏi nhiều gánh nặng trong lòng, những gánh nặng như không cảm thấy được yêu thương hoặc tôn trọng, đơn giản bằng cách hãy bắt đầu yêu thương người khác một cách tự do. Khi chúng ta cô đơn và bồn chồn, Chúa Giêsu thúc giục chúng ta ra đi, để cho đi, để yêu thương. Vì vậy, chúng ta hãy tự hỏi mình: tôi phải làm gì cho những người cần đến tôi? Khi nhìn vào các dân tộc bản địa và nghĩ về lịch sử của họ và những nỗi đau mà họ phải chịu đựng, tôi phải làm gì cho những người dân bản địa? Tôi chỉ lắng nghe với sự tò mò, kinh hoàng trước những gì đã xảy ra trong quá khứ, hay tôi làm điều gì đó cụ thể cho họ? Tôi có cầu nguyện, gặp gỡ, đọc, ủng hộ họ và cho phép bản thân rung động trước câu chuyện của họ không? Nhìn vào cuộc sống của riêng tôi, khi tôi thấy đau khổ, tôi có lắng nghe Chúa Giêsu, Đấng muốn đưa tôi vượt ra khỏi giới hạn của sự thiếu kiên nhẫn của tôi, Đấng mời gọi tôi làm lại từ đầu, tiến thêm một bước nữa, để yêu thương không? Đôi khi, cách tốt đẹp để giúp đỡ người khác không phải là cho họ ngay lập tức những gì họ yêu cầu, mà là đồng hành với họ, mời gọi họ yêu thương và cho đi chính bản thân họ. Bằng cách này, thông qua những việc thiện mà họ làm cho người khác, họ sẽ khám phá ra những dòng nước hằng sống của chính họ, và kho tàng độc đáo và quý giá mà họ thực sự có.

Thưa anh chị em người bản địa, tôi đến đây với tư cách là một người hành hương và cũng để nói với anh chị em rằng anh chị em quý giá như thế nào đối với tôi và với Giáo hội. Tôi muốn Giáo hội được đan kết với nhau giữa chúng ta, được đan kết chặt chẽ như những sợi chỉ trên những dải băng màu mà nhiều người trong anh chị em đeo. Xin Chúa giúp chúng ta tiến tới trong tiến trình chữa lành, hướng tới một tương lai ngày càng lành mạnh và được canh tân. Tôi tin rằng đây cũng là mong ước của những người ông bà của anh chị em, cũng như những người ông bà của chúng tôi. Xin ông bà của Chúa Giêsu là Thánh Gioakim và Thánh Anna phù hộ cho chúng ta trên hành trình.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/7/2022]


Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô ở Canada – Thánh lễ tại Sân vận động Khối thịnh vượng chung, 26.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô ở Canada – Thánh lễ tại Sân vận động Khối thịnh vượng chung, 26.07.2022


Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô ở Canada – Thánh lễ tại Sân vận động Khối thịnh vượng chung, 26.07.2022

*******

Sáng nay, sau khi rời Chủng viện Thánh Giuse, Đức Thánh Cha Phanxicô di chuyển bằng xe hơi đến Sân vận động Khối thịnh vượng chung ở Edmonton.

Khi đến nơi, Đức Giáo hoàng di chuyển vòng quanh sân vận động trên xe giáo hoàng để chào các tín hữu, kể cả tại Sân vận động Clarke liền kề lúc 10 giờ 15 (18 giờ 15 Roma), ngài chủ tế Thánh Lễ kính các Thánh Gioakim và Anna, cha mẹ của Đức Trinh Nữ Maria, với sự hiện diện của khoảng 50.000 tín hữu.

Đức Thánh Cha có bài giảng sau phần công bố Tin Mừng.

Cuối Thánh Lễ, Đức Tổng Giám Mục Richard William Smith của Edmonton ngỏ lời chào và cảm ơn Đức Thánh Cha. Sau đó Đức Thánh Cha Phanxicô trở về Chủng viện Thánh Giuse bằng xe hơi.

Sau đây là bài giảng trong Thánh Lễ của Đức Thánh Cha:

________________________________________

Bài giảng của Đức Thánh Cha

Hôm nay chúng ta mừng lễ ông bà của Chúa Giêsu. Chúa đã tập hợp tất cả chúng ta lại với nhau đúng vào dịp này, rất đỗi thân thương đối với anh chị em và với tôi. Chính tại ngôi nhà của Thánh Gioakim và Anna, trẻ thơ Giêsu đã biết được những người họ hàng lớn tuổi của Người và cảm nghiệm được sự gần gũi, tình yêu thương dịu dàng và sự khôn ngoan của ông bà mình. Chúng ta hãy nghĩ về ông bà của chúng ta, và suy ngẫm về hai điều quan trọng.

Trước hết: chúng ta là những người con của một lịch sử phải được bảo tồn. Chúng ta không phải là những cá thể biệt lập, những hòn đảo. Không ai đi vào thế giới này tách biệt khỏi những người khác. Nguồn cội của chúng ta, tình yêu đang mong chờ và chào đón chúng ta đi vào thế giới, gia đình nơi chúng ta lớn lên, là một phần của lịch sử duy nhất đã đi trước chúng ta và trao tặng cho chúng ta sự sống. Chúng ta đã không chọn lịch sử đó; chúng ta đón nhận nó như một món quà, một món quà mà chúng ta được kêu gọi phải trân quý, như Sách Huấn ca nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là “lũ cháu đàn con” của những người đi trước chúng ta; chúng ta là “cơ nghiệp” của họ (Hc 44:11). Một sự kế thừa tập trung vào sự công bình, lòng trung thành với Thiên Chúa và thánh ý của Người, chưa nói đến những khẳng định về uy tín hoặc quyền bính, trí thông minh hoặc sự sáng tạo trong bài hát hoặc thi ca. Đây là những gì họ truyền lại cho chúng ta. Để chấp nhận con người thật của chúng ta, và giá trị của chúng ta như thế nào, chúng ta phải biết chấp nhận những người mà chúng ta là hậu duệ của họ như là một phần của bản thân. Họ không nghĩ riêng cho bản thân, mà truyền lại cho chúng ta kho báu của cuộc sống. Chúng ta có mặt ở đây là nhờ cha mẹ của chúng ta, nhưng cũng nhờ ông bà của chúng ta, những người đã giúp chúng ta cảm thấy được chào đón đi vào thế giới. Họ thường là những người yêu thương chúng ta vô điều kiện, không mong nhận lại bất cứ điều gì. Họ đã nắm tay chúng ta khi chúng ta thấy sợ hãi, trấn an chúng ta trong bóng tối của màn đêm, động viên chúng ta khi chúng ta phải đối mặt với những quyết định quan trọng của cuộc đời. Nhờ ông bà, chúng ta nhận được sự âu yếm từ lịch sử đi trước chúng ta: chúng ta học được rằng lòng tốt, tình yêu thương dịu dàng và sự khôn ngoan là cội rễ vững chắc của nhân loại. Nhiều người trong chúng ta đã hít thở được hương thơm của Tin Mừng chính trong ngôi nhà của ông bà chúng ta, sức mạnh của một đức tin khiến chúng ta cảm thấy như ở nhà. Nhờ họ, chúng ta khám phá ra đức tin “quen thuộc” đó, một đức tin tại gia. Bởi vì đó là cách đức tin được truyền lại, trong gia đình, thông qua tiếng mẹ đẻ, với tình cảm và sự động viên, sự quan tâm và gần gũi.

Đây là lịch sử của chúng ta, chúng ta là những người thừa kế và chúng ta được kêu gọi phải bảo tồn. Chúng ta là con là cháu. Ông bà của chúng ta để lại một dấu ấn riêng cho chúng ta bằng cách sống của họ; họ đã cho chúng ta phẩm giá và sự tự tin vào bản thân và vào những người khác. Họ trao tặng cho chúng ta điều mà không bao giờ có thể bị lấy mất khỏi chúng ta, đồng thời cho phép chúng ta trở nên độc nhất, riêng biệt và tự do. Từ ông bà, chúng ta học được rằng tình yêu không bao giờ bị ép buộc; nó không bao giờ tước mất sự tự do tâm hồn của người khác. Đó là cách mà Thánh Gioakim và Thánh Anna yêu thương Mẹ Maria và Chúa Giêsu; và đó là cách Mẹ Maria đã yêu thương Chúa Giêsu, với một tình yêu không bao giờ làm ngột ngạt hay kìm hãm Chúa, nhưng đồng hành với Người trong việc thực hiện sứ mệnh mà Người đã đến trong thế gian. Chúng ta hãy cố gắng học lấy điều này, với vai trò là những cá nhân và là một Giáo hội. Ước mong chúng ta học cách không bao giờ tạo áp lực trên lương tâm của người khác, không bao giờ hạn chế sự tự do của những người xung quanh chúng ta, và trên hết, luôn yêu thương và tôn trọng những người đi trước và được giao phó cho chúng ta chăm sóc. Vì họ là một kho tàng quý báu lưu giữ một lịch sử lớn lao hơn chính họ.

Sách Huấn ca cũng cho chúng ta biết rằng việc bảo tồn lịch sử đã trao tặng cho chúng ta sự sống không có nghĩa là làm mờ nhạt đi “vinh quang” của tổ tiên chúng ta. Chúng ta không được lãng quên họ, cũng như không được quên lịch sử đã sinh ra cuộc đời của chính chúng ta. Chúng ta phải luôn nhớ đến những người với bàn tay vuốt ve âu yếm chúng ta và những người đã ôm chúng ta trong vòng tay của họ; vì trong lịch sử này, chúng ta có thể tìm được niềm an ủi trong những lúc ngã lòng, tìm được một ánh sáng dẫn đường cho chúng ta, và lòng can đảm đối mặt với những thử thách của cuộc sống. Tuy nhiên, bảo tồn lịch sử đã trao cho chúng ta sự sống cũng có nghĩa là luôn trở về ngôi trường đó, nơi chúng ta học cách yêu thương đầu đời. Nó có nghĩa là chúng ta phải tự hỏi bản thân rằng những người già mà chúng ta quen biết khi đối mặt với các lựa chọn hàng ngày sẽ làm điều gì khôn ngoan nhất khi ở vị trí của chúng ta, những người ông bà và ông bà cố của chúng ta sẽ cho chúng ta lời khuyên gì.

Vì vậy, thưa anh chị em thân, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi: chúng ta có phải là những người con cháu có đủ khả năng bảo vệ kho tàng mà chúng ta được thừa hưởng này không? Chúng ta có ghi nhớ những lời dạy bảo tốt đẹp mà chúng ta đã đón nhận không? Chúng ta có nói chuyện với người cao tuổi, và dành thời gian để lắng nghe họ không? Và, trong những ngôi nhà ngày càng được trang bị đầy đủ, hiện đại và tiện nghi, chúng ta có biết dành một không gian xứng đáng để lưu giữ ký ức của họ, một vị trí đặc biệt, một đài tưởng niệm nhỏ của gia đình mà qua những bức ảnh và đồ vật quý báu, chúng ta có thể nhớ đến những người đi trước chúng ta không? Chúng ta có giữ lại quyển Kinh thánh, tràng chuỗi Mân Côi của họ không? Trong làn sương mù của sự lãng quên phủ bóng mờ trong thời đại của chúng ta, thưa anh chị em, điều cần thiết là phải chăm sóc cội nguồn của chúng ta, hãy cầu nguyện cho các bậc tiền nhân và cùng với các bậc tiền nhân của chúng ta, dành thời gian để nhớ đến và bảo vệ di sản của họ. Đây là cách để một cây gia đình phát triển; đây là cách xây dựng tương lai.

Bây giờ chúng ta hãy nghĩ đến điều quan trọng thứ hai. Ngoài việc là những người con của một lịch sử phải được bảo tồn, chúng ta còn là tác giả của một lịch sử chưa được viết ra. Mỗi người trong chúng ta đều có thể nhận ra mình là ai và là gì, được đánh dấu bằng cả ánh sáng và bóng tối, và bằng tình yêu mà chúng ta đã đón nhận hoặc không được đón nhận. Đây là mầu nhiệm của cuộc sống con người: tất cả chúng ta đều là con của ai đó, được sinh ra và uốn nắn bởi người khác, nhưng khi chúng ta trưởng thành, chúng ta cũng được kêu gọi để trao ban sự sống, trở thành người cha, người mẹ hoặc ông bà đối với người khác. Nghĩ về con người chúng ta ngày nay, chúng ta muốn làm gì với bản thân? Những người ông bà đã đi trước, những người cao tuổi đã có những mơ ước và hy vọng cho chúng ta, và đã hy sinh rất nhiều cho chúng ta, đặt ra cho chúng ta một câu hỏi vô cùng quan trọng: chúng ta muốn xây dựng một xã hội như thế nào? Chúng ta đã nhận được quá nhiều từ bàn tay của những người đi trước. Đến lượt chúng ta, chúng ta muốn để lại điều gì cho những người đến sau chúng ta? “Nước hoa hồng”, đó là một đức tin bị phai nhạt, hay một đức tin sống động? Một xã hội được thành lập dựa trên lợi nhuận cá nhân hay dựa trên tình huynh đệ? Một thế giới chiến tranh hay một thế giới hòa bình? Một tạo vật bị tàn phá hay một ngôi nhà tiếp tục chào đón?

Chúng ta đừng quên rằng nhựa sống đi từ rễ đến cành, đến lá, đến hoa, và rồi đến quả của cây. Truyền thống đích thực được thể hiện theo chiều dọc này: từ dưới lên. Chúng ta cần phải cẩn thận kẻo rơi vào một bức tranh biếm họa của truyền thống, không phải theo chiều dọc – từ rễ lên đến hoa trái – mà là theo chiều ngang – tiến tới và đi lùi. Truyền thống được quan niệm theo cách này chỉ dẫn chúng ta đến một loại “văn hóa đi lùi”, là nơi ẩn náu của tính quy ngã chỉ biết nhìn hiện tại, giam hãm nó trong tâm lý cho rằng, “Chúng tôi luôn làm theo cách này”.

Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng các ông có phúc vì được nhìn thấy và nghe thấy điều mà biết bao ngôn sứ và những người công chính ao ước (x. Mt 13:16-17). Nhiều người tin tưởng lời hứa của Thiên Chúa về Đấng Mêsia sẽ đến, đã dọn đường cho Ngài và loan báo Ngài sẽ đến. Nhưng bây giờ Đấng Mêsia đã đến, những ai có thể nhìn thấy và nghe thấy Ngài được kêu gọi hãy chào đón Ngài và công bố sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta.

Thưa anh chị em, điều này cũng áp dụng đối với chúng ta. Những người đi trước chúng ta đã truyền lại cho chúng ta nhiệt huyết, sức mạnh và lòng khát khao, một ngọn lửa mà chúng ta có thể nhóm lại. Vấn đề không phải là bảo tồn tro tàn, mà là thắp lại ngọn lửa họ đã đốt lên. Ông bà của chúng ta và những người cao tuổi muốn nhìn thấy một thế giới công bằng, huynh đệ và đoàn kết hơn, và họ đã chiến đấu để mang đến cho chúng ta một tương lai. Bây giờ, chúng ta không được để họ thất vọng. Việc tiếp nhận truyền thống đã nhận được là tùy thuộc vào chúng ta, bởi vì truyền thống đó là đức tin sống động của những người đã khuất. Chúng ta đừng biến nó thành “chủ nghĩa truyền thống”, tức là đức tin đã chết của người đang sống, như lời một nhà văn từng nói. Được nuôi dưỡng bởi những người là cội rễ của chúng ta, bây giờ đến lượt chúng ta phải sinh hoa kết trái. Chúng ta là những cành phải trổ hoa và gieo rắc hạt giống mới cho lịch sử. Vậy chúng ta hãy tự hỏi mình một số câu hỏi cụ thể. Là một phần của lịch sử cứu độ, dưới ánh sáng của những người đã đi trước tôi và yêu thương tôi, bây giờ tôi phải làm gì? Tôi có một vai trò duy nhất và không thể thay thế trong lịch sử, nhưng tôi sẽ để lại dấu ấn gì? Tôi đang truyền lại điều gì cho những người sẽ đến sau tôi? Tôi đang cho đi điều gì của bản thân? Chúng ta thường đo lường cuộc sống của mình dựa trên mức thu nhập, nghề nghiệp, mức độ thành công và cách người khác nhìn nhận về chúng ta. Tuy nhiên, đây không phải là những tiêu chuẩn trao tặng sự sống. Câu hỏi đích thực là: tôi có trao tặng sự sống không? Tôi có đưa vào lịch sử một tình yêu mới và đổi mới mà trước đây không có? Tôi có đang loan báo Tin Mừng trong khu phố của tôi không? Tôi có phục vụ người khác cách nhưng không theo con đường mà những người đi trước đã làm cho tôi không? Tôi đang làm gì cho Giáo hội, cho thành phố, cho xã hội của chúng tôi? Thưa anh chị em, thật dễ dàng để chỉ trích, nhưng Chúa không muốn chúng ta là những người chỉ trích hệ thống, hoặc khép mình và “bỏ cuộc”, như tác giả Thư gửi tín hữu Do thái đã nói (xem 10:39). Ngược lại, Chúa muốn chúng ta trở thành những nghệ nhân của một lịch sử mới, là những người đan dệt hy vọng, những người xây dựng tương lai, những người kiến ​​tạo hòa bình.

Xin Thánh Gioakim và Thánh Anna cầu bầu cho chúng ta. Xin các ngài giúp chúng ta biết trân trọng lịch sử đã trao cho chúng ta sự sống, và về phần chúng ta, xây dựng một lịch sử trao ban sự sống. Xin các ngài nhắc nhở chúng ta về bổn phận thiêng liêng của chúng ta là tôn kính ông bà của chúng ta và những người cao tuổi, trân quý sự hiện diện của họ giữa chúng ta để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Một tương lai trong đó người cao tuổi không bị gạt sang một bên vì theo quan điểm “thực dụng”, họ “không còn hữu ích nữa”. Một tương lai không đánh giá giá trị của con người chỉ đơn thuần dựa trên những gì họ có thể tạo ra. Một tương lai không thờ ơ trước nhu cầu được quan tâm và lắng nghe của người già. Một tương lai trong đó lịch sử bạo lực và gạt ra ngoài lề mà các anh chị em người bản địa của chúng ta phải gánh chịu sẽ không bao giờ lặp lại. Tương lai đó là có thể nếu chúng ta không cắt đứt mối dây liên kết giữa chúng ta với những người đi trước, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, và nếu chúng ta thúc đẩy đối thoại với những người sẽ đến sau chúng ta. Người trẻ và người già, ông bà và con cháu. Tất cả chúng ta hãy cùng nhau tiến về phía trước, và cùng nhau, chúng ta hãy ước mơ. Ngoài ra, chúng ta đừng quên lời dạy của Thánh Phaolô với môn đệ Timôthê: Hãy nhớ đến mẹ và bà của anh (xem 2 Ti 1:5).


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/7/2022]


Thứ Tư, 27 tháng 7, 2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô ở Canada – Gặp gỡ các Dân tộc bản địa First Nations, Nétis và Inuit, 25.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô ở Canada – Gặp gỡ các Dân tộc bản địa First Nations, Nétis và Inuit, 25.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô ở Canada – Gặp gỡ các Dân tộc bản địa First Nations, Nétis và Inuit, 25.07.2022

*******

Lúc 8.45 sáng nay (16.45 giờ Roma), sau khi dâng lễ riêng, Đức Thánh Cha Phanxicô di chuyển bằng xe hơi đến Maskwacis, nơi diễn ra cuộc gặp gỡ với các dân tộc First Nations, Métis và Inuit lúc 10:00.

Khi đến, Đức Thánh Cha được chào đón bởi vị linh mục quản xứ Nhà thờ Đức Bà Bảy sự Thương khó, và một số trưởng lão của các dân tộc First Nations, Métis và Inuit. Sau đó, ngài cùng với họ tiến ra nghĩa trang trong tiếng trống rước.

Vào nghĩa trang, Đức Thánh Cha dừng lại và thinh lặng cầu nguyện một lúc. Sau đó, ngài đến Bear Park Pow-Wow Grounds. Tại đây ngài được một phái đoàn các nhà lãnh đạo người bản địa từ khắp nơi trên đất nước đón chào tại cổng.

Sau lời chào của các nhà lãnh đạo người bản địa và những lời chào mừng của một người đại diện, Đức Thánh Cha Phanxicô đọc diễn từ của mình. Tiếp theo, hòa trong những tiếng trống nhịp nhàng, họ dâng tặng Đức Giáo hoàng một chiếc mũ lông vũ, đặc trưng của các dân tộc thổ dân địa phương.

Tiếp theo sau một bài thánh ca và Kinh Lạy Cha, Đức Giáo hoàng chào riêng từng vị trưởng lão người bản địa.

Kết thúc cuộc gặp gỡ với các dân tộc First Nations, Métis và Inuit, Đức Thánh Cha trở về Chủng viện Thánh Giuse bằng xe hơi.


Sau đây là diễn từ của Đức Thánh Cha trong buổi gặp gỡ:

Diễn từ của Đức Thánh Cha

Thưa Bà Toàn quyền,

Thưa ông Thủ tướng,

Thưa các dân tộc bản địa của Maskwacis và của vùng đất Canada này,

Thưa anh chị em!

Tôi đã chờ đợi để được đến đây và ở với anh chị em! Ở đây, từ nơi gắn với những ký ức đau thương này, tôi xin bắt đầu việc mà tôi coi là một cuộc hành hương, một cuộc hành hương sám hối. Tôi đến miền đất quê hương của anh chị em để trực tiếp nói với anh chị em về sự đau buồn của tôi, để khẩn xin sự tha thứ, chữa lành và hòa giải của Thiên Chúa, để bày tỏ sự gần gũi của tôi và cầu nguyện với anh chị em và cho anh chị em.

Tôi nhớ lại những cuộc gặp gỡ chúng ta đã có ở Roma bốn tháng trước. Khi đó, tôi được tặng hai đôi giày moccasins như một dấu chỉ của sự đau khổ mà thiếu nhi người bản địa phải chịu đựng, đặc biệt là những trẻ không bao giờ trở về từ các trường nội trú. Tôi được yêu cầu trả lại những đôi giày moccasins khi đến Canada; tôi đã mang chúng đến, và tôi sẽ gửi lại chúng khi kết thúc những lời chia sẻ, trong đó tôi muốn phản ánh về biểu tượng này, mà trong những tháng qua nó đã khiến tôi cảm thấy đau buồn, phẫn nộ và xấu hổ. Ký ức về những thiếu nhi đó quả thực rất đau đớn; nó thúc giục chúng ta làm việc để bảo đảm rằng mọi trẻ em đều được đối xử bằng tình yêu thương, danh dự và sự tôn trọng. Đồng thời, những đôi giày moccasins đó cũng nói cho chúng ta biết con đường để đi, một hành trình mà chúng ta mong muốn cùng nhau thực hiện. Chúng ta muốn cùng nhau tiến bước, cùng nhau cầu nguyện và cùng nhau làm việc, để những đau khổ trong quá khứ có thể dẫn đến một tương lai công bằng, chữa lành và hòa giải.

Đó là lý do tại sao phần đầu trong cuộc hành hương của tôi đến giữa anh chị em diễn ra ở vùng đất này, miền đất từ xa xưa đã chứng kiến sự hiện diện của các dân tộc bản địa. Đây là những vùng đất nói với chúng ta; chúng làm cho chúng ta ghi nhớ.

Ghi nhớ: thưa anh chị em, anh chị em đã sống trên những miền đất này hàng ngàn năm, tuân theo cách sống tôn trọng trái đất mà anh chị em đã đón nhận như một di sản từ các thế hệ đi trước và đang gìn giữ cho những thế hệ sắp tới. Anh chị em đã coi nó như một món quà của Đấng Tạo Hóa để chia sẻ với những người khác và trân trọng trong sự hài hòa với tất cả mọi sự tồn tại, trong mối tương giao sâu sắc với tất cả mọi loài. Bằng cách này, anh chị em đã học được cách nuôi dưỡng ý thức về gia đình và cộng đồng, và xây dựng những mối ràng buộc bền chặt giữa các thế hệ, tôn kính người cao tuổi và chăm sóc những người bé mọn. Một kho tàng các phong tục và lời dạy tốt lành, tập trung vào việc quan tâm đến người khác, thật thà, dũng cảm và tôn trọng, khiêm tốn, trung thực và khôn ngoan!

Tuy nhiên, nếu đó là những bước chân đầu tiên được thực hiện trên vùng đất này, thì thật đáng buồn, sự hồi tưởng sẽ dẫn chúng ta đến với những bước đi tiếp theo. Nơi mà chúng ta đang họp mặt gợi lên trong tôi cảm giác đau đớn và hối hận sâu sắc mà tôi đã cảm nhận trong những tháng qua. Tôi nghĩ đến những hoàn cảnh bi thương mà rất nhiều người trong anh chị em, gia đình và cộng đồng của anh chị em đã biết; những điều anh chị em đã chia sẻ với tôi về những đau khổ mà anh chị em phải chịu đựng ở các trường nội trú. Đây là những tổn thương tinh thần được đánh thức lại theo một cách nào đó bất cứ khi nào đụng chạm đến vấn đề; tôi cũng biết rằng cuộc gặp gỡ của chúng ta ngày hôm nay có thể gợi lại những kỷ niệm và tổn thương cũ, và nhiều người trong anh chị em có thể cảm thấy không dễ chịu ngay cả khi tôi nói. Tuy nhiên, phải ghi nhớ, bởi vì sự lãng quên dẫn đến thái độ thờ ơ, và như câu nói rằng, “đối nghịch với yêu thương không phải là hận thù, nó là sự thờ ơ… và đối nghịch với sự sống không phải là cái chết, nó là sự thờ ơ” (E. WIESEL). Ghi nhớ những kinh nghiệm đau buồn đã xảy ra trong các trường nội trú, sự tổn thương, tức giận, gây ra đau đớn, nhưng nó là cần thiết.

Cần phải nhớ các chính sách đồng hóa và giải phóng, trong đó bao gồm cả hệ thống các trường nội trú, đã gây ra sự tàn phá như thế nào đối với người dân ở các vùng đất này. Khi những người thực dân Châu Âu đầu tiên đến đây, có một cơ hội tuyệt vời để mang đến sự gặp gỡ tốt đẹp giữa các nền văn hóa, truyền thống và những hình thức tâm linh. Tuy nhiên, phần lớn điều đó đã không xảy ra. Một lần nữa, tôi nghĩ lại những câu chuyện mà anh chị em đã kể: các chính sách đồng hóa cuối cùng đã gạt các dân tộc bản địa ra bên lề một cách hệ thống như thế nào; các ngôn ngữ và văn hóa của anh chị em đã bị vùi dập và ngăn chặn như thế nào thông qua hệ thống các trường học nội trú; trẻ em bị lạm dụng về thể chất, lời nói, tâm lý và tinh thần ra sao; các em đã bị đưa ra khỏi nhà khi còn nhỏ như thế nào, và việc đó đã ảnh hưởng quá lớn đến những mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, ông bà và các cháu ra sao.

Tôi cảm ơn anh chị em đã làm cho tôi hiểu rõ về điều này, đã cho tôi biết về những gánh nặng mà anh chị em vẫn đang phải gánh, đã chia sẻ với tôi những kỷ niệm cay đắng. Hôm nay tôi ở đây, ở nơi mảnh đất đã lưu giữ những vết sẹo của các vết thương còn hở, cùng với những ký ức xa xưa. Tôi ở đây bởi vì bước đi đầu tiên của cuộc hành hương sám hối của tôi đến giữa anh chị em là một lần nữa xin tha thứ, để một lần nữa nói với anh chị em rằng tôi vô cùng xin lỗi. Xin lỗi vì những cách thức mà qua đó nhiều người Kitô giáo đã ủng hộ cho não trạng thực dân hóa của các thế lực áp bức những dân tộc bản địa. Tôi xin lỗi. Đặc biệt, tôi xin tha thứ cho những cách thức mà nhiều thành viên của Giáo hội và các cộng đoàn dòng tu đã hợp tác, nhất là qua sự thờ ơ của họ, trong các dự án phá hủy văn hóa và cưỡng bức đồng hóa do các chính phủ thời đó thúc đẩy, mà đỉnh điểm là hệ thống các trường học nội trú.

Mặc dù không thiếu các hoạt động bác ái của Kitô giáo, và có nhiều trường hợp nổi bật về sự tận tụy chăm sóc thiếu nhi, nhưng hậu quả chung của các chính sách liên quan đến trường nội trú là rất bi thảm. Đức tin Kitô giáo cho chúng ta biết rằng đây là một lỗi lầm tai hại, hoàn toàn không phù hợp với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Thật đau đớn khi nghĩ đến nền đất vững chắc của các giá trị, ngôn ngữ và văn hóa tạo nên bản sắc đích thực cho các dân tộc của anh chị em đã bị xói mòn như thế nào, và anh chị em vẫn tiếp tục phải trả giá cho điều này. Trước sự xấu xa tệ hại này, Giáo hội phủ phục trước Thiên Chúa và cầu xin Người tha thứ cho tội lỗi của con cái của Giáo hội (xem GIOAN PHAOLÔ II, Huấn lệnh Incarnationis Mysterium [29/11/1998), 11: AAS 91 [1999], 140). Tôi xin khẳng định lại điều này cách rõ ràng với sự xấu hổ. Tôi khiêm nhường cầu xin sự tha thứ cho tội ác của rất nhiều người Kitô giáo chống lại các dân tộc bản địa.

Anh chị em thân mến, nhiều người trong anh chị em và các vị đại diện của anh chị em đã nói rằng việc xin tha thứ không phải đã kết thúc vấn đề. Tôi hoàn toàn đồng ý: đó chỉ là bước đầu tiên, là điểm khởi đầu. Tôi cũng thừa nhận rằng, “nhìn về quá khứ, việc cố gắng xin tha thứ và tìm cách sửa chữa những tổn hại đã gây ra dù bao nhiêu cũng sẽ không đủ” và “nhìn về tương lai, phải tận dụng mọi nỗ lực để xây dựng một văn hóa có thể ngăn chặn những tình huống như vậy xảy ra” (Thư gửi Dân Chúa, ngày 20 tháng Tám năm 2018). Một phần quan trọng của tiến trình này sẽ là tiến hành một cuộc điều tra nghiêm túc về những gì đã xảy ra trong quá khứ và hỗ trợ những nạn nhân còn sống của các trường nội trú qua việc chữa lành những tổn thương mà họ phải chịu đựng.

Tôi tin tưởng và cầu nguyện rằng các Kitô hữu và xã hội dân sự ở miền đất này có thể phát triển khả năng chấp nhận và tôn trọng bản sắc cũng như kinh nghiệm của các dân tộc bản địa. Tôi hy vọng những đường hướng cụ thể có thể được tìm thấy để làm cho các dân tộc đó được biết đến và được quý trọng nhiều hơn, để tất cả mọi người có thể học cách cùng nhau tiến bước. Về phần tôi, tôi sẽ tiếp tục khuyến khích những nỗ lực của tất cả mọi người Công giáo hỗ trợ các dân tộc bản địa. Tôi đã thực hiện điều đó trong những trường hợp khác và ở những nơi khác, qua các cuộc họp, những lời kêu gọi và cũng như qua việc viết một Tông Huấn. Tôi biết rằng tất cả những điều này sẽ đòi hỏi có thời gian và sự kiên nhẫn. Chúng ta đang nói đến những tiến trình phải thấm nhuần vào tâm hồn. Sự hiện diện của tôi ở đây và cam kết của các Giám mục Canada là minh chứng cho ý chí kiên trì của chúng tôi trên con đường này.

Các bạn thân mến, cuộc hành hương này sẽ diễn ra trong nhiều ngày và ở những nơi cách xa nhau; mặc dù vậy, nó vẫn không cho phép tôi chấp nhận nhiều lời mời mà tôi đã nhận được để đến thăm các trung tâm như Kamloops, Winnipeg và những nơi khác ở tỉnh Saskatchewan, Yukon và các vùng Lãnh thổ Tây Bắc. Mặc dù điều đó không thể diễn ra, nhưng xin hãy tin rằng tất cả các bạn luôn ở trong suy nghĩ và trong lời cầu nguyện của tôi. Xin hãy tin rằng tôi hiểu rõ những đau khổ và tổn thương, những khó khăn và thách đố mà các dân tộc bản địa ở mọi miền trên đất nước này phải trải qua. Những lời tôi nói trong suốt hành trình sám hối này xin gửi đến mọi cộng đồng và người bản xứ. Tôi trìu mến ôm lấy tất cả các bạn.

Trong bước đầu tiên của cuộc hành trình, tôi muốn tạo không gian cho ký ức. Ở đây, hôm nay, tôi cùng các bạn cùng nhớ lại quá khứ, cùng đau buồn với các bạn, cùng cúi đầu trong thinh lặng và cầu nguyện trước những nấm mồ.

Chúng ta hãy cho phép những giây phút thinh lặng này giúp chúng ta khắc sâu nỗi đau của mình. Thinh lặng. Và cầu nguyện. Đứng trước sự dữ, chúng ta cầu xin Thiên Chúa Nhân lành; đứng trước cái chết, chúng ta cầu xin với Thiên Chúa của sự sống. Chúa Giêsu Kitô của chúng ta đã lấy một ngôi mộ, dường như là nơi chôn vùi mọi hy vọng và ước mơ, chỉ để lại sự đau buồn, nỗi đau đớn và cam chịu, và biến nó thành nơi tái sinh và phục sinh, nơi khởi đầu lịch sử của sự sống mới và hòa giải phổ quát. Những nỗ lực riêng của chúng ta không đủ để thực hiện được sự chữa lành và hòa giải: chúng ta cần ơn của Chúa. Chúng ta cần sự khôn ngoan âm thầm và mạnh mẽ của Thần Khí, tình yêu dịu dàng của Đấng Ủi an. Xin Người làm cho những mong đợi tha thiết nhất trong tâm hồn chúng ta được hiện thực. Xin Người nắm lấy tay chúng ta và giúp chúng ta cùng nhau thăng tiến trên hành trình của mình.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/7/2022]


Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô ở Canada – Những lời chia sẻ của Đức Thánh Cha trên chuyến bay từ Roma đến Edmonton, 24.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô ở Canada – Những lời chia sẻ của Đức Thánh Cha trên chuyến bay từ Roma đến Edmonton, 24.07.2022

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô ở Canada – Những lời chia sẻ của Đức Thánh Cha trên chuyến bay từ Roma đến Edmonton, 24.07.2022

*******

Sáng nay, trên chuyên cơ đưa ngài đến Canada, theo thông lệ Đức Thánh Cha Phanxicô ngỏ lời chào với các nhân viên truyền thông tháp tùng ngài trên chuyến bay giáo hoàng.

Sau lời giới thiệu của ông Matteo Bruni, Giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh, Đức Giáo hoàng đã có những lời chia sẻ sau đây với các nhà báo:

________________________________________

Những lời chia sẻ của Đức Thánh Cha

Ông Matteo Bruni:

Xin chào Đức Thánh Cha, chúc người buổi sáng tốt lành. Hôm nay, cùng đồng hành với Đức Thánh Cha có khoảng tám mươi nhà báo, từ hơn mười quốc gia, với chuyến đi mà người mô tả là “một cuộc hành hương sám hối”, một cuộc hành trình có phần đặc biệt. Chúng con rất hạnh phúc được lắng nghe lời của người trong những ngày này, và ngay bây giờ, nếu người có lời muốn chia sẻ với chúng con.


ĐTC Phanxicô:

Chúc tất cả anh chị em Chúa nhật phúc lành, xin chào mừng! Xin cảm ơn anh chị em về sự phục vụ và đồng hành này. Tôi có được kinh nghiệm như một cộng đoàn … Cảm ơn vì công việc của anh chị em. Tôi muốn chào anh chị em như mọi khi. Tôi nghĩ tôi có thể đi vòng quanh được, chúng ta có thể đi.

Chúng ta phải thận trọng về hành trình này: như anh [Matteo Bruni] đã nói, nó là một cuộc hành trình sám hối, chúng ta hãy thực hiện nó trong tinh thần này. Tôi xin chào mừng sự trở lại của “vị lão làng” [chị Valentina Alazraki, nhà báo người Mexico]: chị đã trở lại, sau một vài chuyến đi thiếu mặt chị …

Chúc anh chị em Chúa nhật hạnh phúc! Hôm nay tôi muốn … Không có giờ Kinh Truyền tin, nhưng chúng ta hãy đọc Kinh Truyền tin ở đây.

Hôm nay là ngày của Ông Bà: những người ông, những người bà, họ là những người lưu truyền lại lịch sử, truyền thống, phong tục và rất nhiều điều. Hôm nay chúng ta cần phải: trở về với ông bà - tôi sẽ nói điều này cách ngắn gọn -, với ý là người trẻ phải có sự liên hệ với ông bà, trở về với ông bà, trở về với cội nguồn của họ, nhưng không phải là dừng ở đó, không, mà phải đưa cội nguồn tiến tới, giống như cây hút sức mạnh từ gốc rễ và chuyển nó tới những nụ hoa và quả của cây. Tôi vẫn luôn nhớ bài thơ của thi sĩ Bernárdez: mọi hoa trái trổ sinh trên cây đều đến từ gốc rễ dưới lòng đất, đó là ông bà. Và trong cương vị là một tu sĩ, tôi cũng muốn nhớ đến tất cả các tu sĩ nam nữ cao tuổi, những “người ông bà” của đời sống thánh hiến: xin đừng giấu họ đi, họ là sự khôn ngoan của một gia đình dòng tu; và ước mong rằng những người tu sĩ trẻ, những tập sinh, có sự liên hệ với họ: họ sẽ cho chúng ta tất cả kinh nghiệm sống giúp ích chúng ta rất nhiều để tiến bước.

Mỗi người chúng ta đều có ông có bà, một số ông bà đã ra đi, có những người vẫn còn sống; hôm nay chúng ta hãy nhớ đến họ theo cách đặc biệt. Chúng ta đã đón nhận quá nhiều từ họ, trước hết là lịch sử. Cảm ơn anh chị em!


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/7/2022]


Thứ Hai, 25 tháng 7, 2022

Đức Giáo hoàng đến Canada tập trung vào người cao tuổi và sự thống hối

Đức Giáo hoàng đến Canada tập trung vào người cao tuổi và sự thống hối

Đức Giáo hoàng đến Canada tập trung vào người cao tuổi và sự thống hối

Đức Giáo hoàng Phanxicô được chào đón bởi các nhà lãnh đạo người Bản địa và ông Justin Trudeau, thủ tướng Canada, ở trung tâm, và bà Mary Simon, toàn quyền, (không xuất hiện trong ảnh) trong nghi thức chào đón tại Sân bay Quốc tế Edmonton ngày 24 tháng Bảy năm 2022. Đức Giáo hoàng bắt đầu chuyến thăm Canada kéo dài 6 ngày. (CNS photo/Paul Haring)


Cindy Wooden

24 tháng Bảy, 2022


EDMONTON, Alberta (CNS) — Sau chuyến bay kéo dài hơn 10 giờ từ Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã hạ cánh xuống Edmonton và có cuộc gặp gỡ trong thời gian ngắn tại sân bay với các nhà lãnh đạo người Bản địa, bà toàn quyền Canada và thủ tướng trước khi đến chủng viện địa phương để nghỉ ngơi.

Bà Toàn quyền Mary Simon và Thủ tướng Justin Trudeau đi bên cạnh Đức Giáo hoàng khi một người hầu cận đẩy ngài ngồi trên xe lăn vào trong nhà để máy bay ở sân bay để tham dự nghi thức chào đón thân mật. Bốn tay trống người bản địa loan báo sự xuất hiện của vị khách đặc biệt của họ.

Đức Giáo hoàng, bà toàn quyền và thủ tướng được chào đón bởi: bà RoseAnn Archibald, nhà lãnh đạo quốc gia của Hội đồng First Nations; ông Gerald Antoine, nhà lãnh đạo miền của Hội đồng First Nations; ông Natan Obed, chủ tịch của tổ chức Inuit Tapiriit Kanatami; và bà Audrey Poitras, chủ tịch Métis Nation của Alberta.

Trên chuyến bay dài từ Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn giữ thói quen đưa ra một vài nhận xét ngắn gọn với các phóng viên đi cùng với ngài và sau đó — phải chống gậy bạc — ngài đi dọc theo lối đi và đi ngược lại ở lối bên kia để trực tiếp chào từng người trong số hơn 75 phóng viên, nhiếp ảnh gia và người quay phim tháp tùng với ngài.

Ngài nói: “Tôi rất vui được chào anh chị em như mọi khi. Tôi nghĩ tôi có thể đi vòng quanh.”

Đức giáo hoàng lên máy bay bằng “thang nâng”, một bệ nâng ngài ngồi trên xe lăn lên máy bay ITA.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói với các phóng viên rằng chuyến thăm Canada của ngài từ ngày 24 đến 29 tháng Bảy sẽ là “một chuyến đi sám hối” để gặp gỡ, lắng nghe và xin lỗi thành viên của các cộng đồng dân tộc First Nation, Métis và Inuit của Canada, đặc biệt là những người từng bị lạm dụng hoặc cưỡng bức đồng hóa tại các trường nội trú do giáo hội điều hành.

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng lưu ý rằng ngài sẽ bay đến Canada trong thời gian ngài xướng đọc kinh Truyền tin. “Nhưng chúng ta hãy đọc Kinh Truyền tin ở đây,” ngài nói, đề cập đến bài huấn từ trưa Chúa nhật theo thông lệ của ngài.

Cùng với Giáo hội Công giáo trên toàn cầu đánh dấu Ngày Thế giới Ông Bà và Người cao tuổi 24 tháng Bảy, bài huấn từ Kinh Truyền tin ngắn gọn trên máy bay của Đức Giáo hoàng tập trung vào cách thức “ông bà là những người đã lưu truyền lại lịch sử, truyền thống, phong tục — nhiều điều.”

“Người trẻ cần phải tiếp xúc với ông bà của họ, trở về với ông bà, về với cội nguồn của họ, không dừng lại ở đó, không, mà là đưa cội nguồn tiến về phía trước,” ngài nói, giống như một cái cây hút chất dinh dưỡng từ gốc rễ để sinh hoa kết trái.

Là một tu sĩ Dòng Tên, Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết ngài cũng muốn thúc giục thành viên của các dòng tu hãy quý trọng các thành viên cao tuổi của họ — “những người ông người bà của đời sống thánh hiến”.

Đức Thánh Cha nói: “Xin làm ơn, đừng giấu họ đi.”

Tầm quan trọng của người cao tuổi như là những người gìn giữ sự khôn ngoan và giáo dục lớp người trẻ dự kiến sẽ là một chủ đề được lặp lại trong chuyến thăm của Đức Thánh Cha tới Alberta, Quebec và Nunavut.

Đức Hồng y Pietro Parolin, quốc vụ khanh Vatican, tháp tùng Đức Thánh Cha Phanxicô trong chuyến tông du. Ngài nói với Vatican News ngày 23 tháng Bảy rằng trọng tâm của đức giáo hoàng sẽ là thừa nhận và xin lỗi về quá khứ, nhưng cũng nhìn vào hiện tại và hướng về tương lai.

Khi Đức Giáo hoàng gặp gỡ các đại diện của các dân tộc First Nation, Métis và Inuit ngày 1 tháng Tư tại Vatican, Đức hồng y nói, “Đức giáo hoàng đã bày tỏ sự xấu hổ và phẫn nộ trước hành động của không ít người Kitô hữu, thay vì làm chứng cho Tin Mừng, lại tuân theo tâm lý thực dân và các chính sách đồng hóa văn hóa của chính quyền trong quá khứ, đã gây tổn hại nghiêm trọng đến các cộng đồng bản địa.”

Đức Hồng y nói: “Thật đau đớn trước vai trò của một số người Công giáo trong cái gọi là hệ thống trường học nội trú, đã dẫn đến việc tách lìa nhiều trẻ em người bản địa khỏi gia đình của các em”. Nhiều trẻ em đã phải chịu đựng sự lạm dụng tình cảm, thể chất và tình dục tại các trường học, ngoài việc bị cắt đứt khỏi ngôn ngữ bản địa, phong tục và nghi lễ của các em.

Đức Hồng Y Parolin cho biết quá khứ đó là lý do tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô mô tả chuyến đi của ngài là một “cuộc hành hương sám hối” và sẽ tập trung vào “việc chữa lành vết thương và hòa giải”.

Tuy nhiên, ngài nói, chuyến thăm của Đức Giáo hoàng cũng bao gồm việc phản ánh các giá trị của người Bản địa có thể được chia sẻ và cần được chia sẻ với xã hội và giáo hội ngày nay.

Đức hồng y nói, “Thật vậy, rất hữu ích để mọi người khám phá lại nhiều giá trị và những giáo huấn,” chẳng hạn như quan tâm đến gia đình và cộng đồng, chăm sóc tạo vật, tầm quan trọng của tâm linh, mối ràng buộc bền chặt giữa các thế hệ và sự tôn trọng người cao tuổi.

Chuyến đi của Đức Giáo hoàng đã được lên kế hoạch vào dịp lễ các Thánh Gioakim và Anna, là ông bà của Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha Phanxicô dự kiến sẽ cùng tham dự lễ vào ngày 26 tháng Bảy, tại Lac Ste. Anne với những người hành hương bản địa.

Tại một cuộc họp báo được phát trên YouTube trước khi Đức Giáo hoàng đến, Đức Tổng Giám mục Richard Smith của Edmonton nói với các phóng viên: “Tôi tin rằng đây sẽ là một thời điểm rất quan trọng trong lịch sử của đất nước chúng tôi.”

Cha Cristino Bouvette, một linh mục người Bản địa thuộc Giáo phận Calgary, cho biết rằng mọi điều về chuyến thăm của Đức Giáo hoàng đã được lên kế hoạch trong các cộng đồng người Bản địa, đặc biệt là những nạn nhân của các trường nội trú, và việc tìm kiếm công lý, chữa lành và hòa giải của họ.

Cha nói, chương trình “đã được thiết kế với mục đích rõ ràng là làm nổi bật những nhu cầu và mối quan tâm từ ban đầu đã thôi thúc Đức giáo hoàng đến đây. Có thể là ngài thích Canada, nhưng ngài không đến đây vì thích Canada. Ngài đến đây để giải quyết nhu cầu mục vụ cụ thể và đặc biệt này với tư cách là một mục tử.”


[Nguồn: catholicnews]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/7/2022]