Thứ Tư, 13 tháng 7, 2016

Chương trình của Đức Thánh Cha đến Georgia, Azerbaijan được tiết lộ

Chương trình của Đức Thánh Cha đến Georgia, Azerbaijan được tiết lộ

Trong chuyến Tông du mùa thu này, Đức Phanxico sẽ gặp gỡ Lãnh tụ Hồi giáo vùng Caucasus tại Đền thờ “Heydar Aliyev”
12 tháng 7, 2016
Screen Shot 2016-02-12 at 4.08.34 PM
Pope Outside Papal Flight - Screenshot
Dưới đây là chương trình được Vatican thông báo, cho biết chi tiết chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxico đến Georgia và Azerbaijan, 30 tháng 9 – 2 tháng 10:
***
Đức Thánh Cha sẽ rời sân bay Fiumicino của Roma lúc 9 giờ sáng, và theo lịch sẽ đến sân bay quốc tế Tbilisi lúc 3 giờ chiều, tại đây sẽ có nghi thức chào đón.
Theo sau chuyến thăm ngoại giao tới Tổng thống Cộng hòa tại dinh tổng thống, và gặp gỡ các viên chức dân sự và ngoại giao đoàn trong sân, Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ Giáo chủ và Đại thượng phụ của toàn Georgia, đức Ilia II, trong Tòa Thượng phụ.
Ngày đầu tiên của ngài sẽ kết thúc với cuộc gặp gỡ cộng đồng Assyria-Chalde trong Nhà thờ Công giáo Chalde Thánh Simon the Tanner.
Thứ Bảy, 1 tháng 10
Đức Thánh Cha sẽ dâng Thánh lễ trong sân vận động M. Meskhi, tiếp theo là gặp gỡ các linh mục và tu sĩ nam nữ trong nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời. Sau đó ngài sẽ gặp những nhân viên bác ái của Giáo hội và những người đang được hỗ trợ tại trung tâm cứu trợ Camillian, tiếp theo là chuyến viếng thăm đến Thánh đường Đại thượng phụ Svietyskhoveli Mskheta.
Chủ nhật, 2 tháng 10
Sau nghi thức tạm biệt tại sân bay quốc tế Tbilisi, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành bằng máy bay đến Baku, Azerbaijan, theo lịch ngài sẽ đến sân bay quốc tế Heydar Aliyev lúc 9.30 sáng.
Tiếp theo nghi thức chào đón chính thức, ngài sẽ dâng lễ trong trung tâm Salesian ở Baku.
Sau bữa trưa với cộng đoàn Salesian, ngài sẽ tham dự nghi thức chào đón ngoại giao trong dinh tổng thống Genclik, và đi thăm ngoại giao tổng thống nước Cộng hòa.
Buổi chiều ngài sẽ gặp các giới chức trong Trung tâm Heydar Aliyev, sau đó là cuộc gặp gỡ riêng với lãnh tụ Hồi giáo vùng Caucasus trong Đền thờ Heydar Aliyev, và một cuộc gặp riêng với Đức Giám mục Chính Thống giáo Baku và chủ tịch của cộng đoàn Do thái.
Lúc 7.15 tối, sau nghi thức tạm biệt, Đức Thánh Cha sẽ lên máy bay về sân bay Ciampino của Roma, theo dự định ngài sẽ đáp máy bay lúc 10 tối.
Múi giờ
Rome: +2h UTC
Tbilisi: +4h UTC
Baku: +4h UTC
© Copyright – Libreria Editrice Vaticana

[Nguồn: https://zenit.org]

[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 13/07/2016]


3 lý do nên đi xưng tội càng sớm càng tốt

3 lý do nên đi xưng tội càng sớm càng tốt

Thế giới tan vỡ, bạo lực, và bất an của chúng ta đang cần điều đó!



WEB-PUZZLED-MAN-SCRATCHING-HEAD-RETRO-Everett-Collection-Shutterstock_91956314

“Nếu có ai cần xưng tội, tôi sẽ ngồi tòa trước Lễ!”
Tôi ở Nicaragua du lịch đến Guatemala thì tôi nghe thấy lời kêu mời vội vã này bằng tiếng Tây ban nha từ buồng áo nhà thờ. Đó là lần thứ hai của tôi ở Châu Mỹ La tinh. Trong chuyến đi đầu tiên của tôi tới đó, tôi đã có một trải nghiệm hoán cải và đi từ tình trạng vô thần đến tin Chúa. Và lần thứ hai, một năm sau, lần đầu tiên trong cả hơn chục năm tôi nhận ra được điều mà giáo lý gọi là “bí tích hòa giải” (CCC 1423).
Khi tôi lần đầu tiên nghe thấy lời kêu mời vội vã của linh mục, tôi lưỡng lự ngập ngừng chưa nhận lời. Tiếng Tây ban nha của tôi không quá tuyệt vời như vậy. Tôi biết là chắc sẽ rất lúng túng nếu kể lại một danh sách các tội của tôi bằng ngôn ngữ thứ hai. Những điều tôi quan tâm cứ quay cuồng trong đầu tôi cho đến khi những ý nghĩ của tôi gom lại thành một quyết định bất ngờ là nhanh chóng đứng dậy và tiến thẳng đến cái ghế trống. Tội của tôi cứ thế tuôn ra khỏi miệng và vị linh mục già sốt sắng cố gắng hiểu được cái tiếng Tây ban nha sơ đẳng của tôi. Rồi cha ban phép giải tội cho tôi. Sự thanh thản tắm mát tâm hồn tôi. Tôi đã cần phải có điều này, và tôi thậm chí không biết là tôi đã cần phải làm điều này.
Bí tích Giải tội có thể mang tính răn đe. Thật khó mà đi xưng tội, đặc biệt nếu bạn đã bỏ lâu ngày. Thường thường có một cảm giác sợ sệt về thể lý, cảm giác muốn tránh xa vì nó có vẻ khó khăn quá, quê xệ cái mặt quá. Đôi lúc chúng ta cố tự thuyết phục rằng tội của chúng ta là chỉ giữa chúng ta và Thiên Chúa, rằng chẳng cần phải có bí tích đó. Chúng ta bỏ rồi bào chữa rằng việc đó chả có gì quan trọng lắm đâu.
Nhưng có đấy.
Đây là một số lý do tại sao tôi thích đi xưng tội:
1) Giê-su đang đợi chúng ta: Có lần tôi bị một linh mục hét lên với tôi trong tòa cáo giải. Linh mục hiểu lầm điều tôi đang nói và nói chung linh mục là người gắt gỏng cho nên cha mới lớn tiếng thậm chí khi tôi vẫn chưa nói xong. Tạ ơn Chúa là lúc đó, tôi đã yêu bí tích này rồi và tôi hiểu rằng tôi đến đó để gặp Giê-su, cho dù linh mục có đại diện cho khuôn mặt của Chúa Giê-su hay không. Lúc tôi rời tòa cáo giải hơi choáng và hơi tức, tôi chả còn cách gì ngoài cách mỉm cười. “Chúa Giê-su có thể ban cho tôi những ân sủng của bí tích này, thậm chí qua cụ già cáu gắt đó! Tôi ngạc nhiên. Bí tích này không chỉ có ý là một tòa khuyên giải hay một phòng tư vấn; nó thậm chí không đòi hỏi phải có một vị linh mục thấu hiểu và yêu thương, mặc dù được vậy vẫn rất hữu ích. Như giáo lý dạy, “Chỉ một mình Thiên Chúa có thể xóa tội” (CCC 1441). Những ân sủng của bí tích này đến từ bàn tay của Chúa Giê-su và được thực hiện qua bàn tay con người của các vị linh mục, trong cả những ngày đẹp trời và ngày xấu.
2) Tăng ân sủng: Bí tích hòa giải thực sự có quyền năng canh tân sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi trong chúng ta nếu chúng ta đã làm đứt mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa vì tội trọng. Tôi lặp lại vì điều này rất quan trọng. Bí tích này có thể canh tân ân sủng bí tích rửa tội của chúng ta nếu chúng ta đã đánh mất vì tội trọng. Các linh mục trong Giáo hội gọi bí tích này là “tấm ván trôi thứ hai của ơn cứu độ sau khi bị đắm tàu tức là mất ân sủng” (CCC 1446). Chúng ta không biết chính xác nó tồi tệ đến mức nào khi chúng ta làm đứt mối quan hệ với Thiên Chúa vì vậy nó đáng để đi đến tòa cáo giải ít nhất 1 năm 1 lần theo điều răn của Giáo hội. Nhưng rất tốt nếu chúng ta có thể đi nhiều hơn thế. Cho dù chúng ta không rơi vào trọng tội. Bí tích này tăng ân sủng cho linh hồn chúng ta và giúp chúng ta vượt qua và tránh khỏi tội lỗi. Tôi không biết bạn thế nào, nhưng tôi hoàn toàn có thể có được sự trợ giúp trong lĩnh vực đó.
3) Nguồn chữa lành tâm hồn: Hồi còn nhỏ mẹ tôi nói với tôi rằng tôi sẽ cảm thấy “nhẹ như một thiên thần” sau khi tôi nhận phép giải tội trong bí tích này và tôi luôn luôn có được. Đi với lòng khiêm tốt và trút hết tội của mình ra với Thiên Chúa cho phép chúng ta bước ra về được canh tân tâm hồn và thể xác. Khi linh mục đọc lời tha tội, gánh nặng rời khỏi vai của tôi và sự thanh thản lan tỏa trong tôi. Nó là một trải nghiệm chữa lành, vì tôi biết rằng Thiên Chúa đã nghe tiếng tôi và đang đồng hành cùng tôi. Người biết nhu cầu của tôi và sẽ giúp tôi đến gần Người hơn và ban cho tôi những ơn sủng đặc biệt để giúp tôi vượt qua được tội lỗi. Vì lý do này, tôi thường bắt đầu hay kết thúc lần xưng tội với một lời khẩn cầu tha thiết xin ơn chữa lành, “Con xin Chúa Giê-su ơn sủng được …”
Bạn có thể vẫn cảm thấy chần chừ tận dụng những ơn sủng dành sẵn cho bạn trong Bí tích Hòa giài. Có thể nhiều năm bạn chưa đi. Có thể bạn không bị thuyết phục rằng bí tích thực sự hữu ích. Có thể bạn vẫn không chắc chắn bí tích có cần thiết hay không. Tôi không ở đây để thuyết phục bạn về những điều này, (mặc dù tôi đề nghị bạn làm cuộc thử nghiệm nếu bạn quan tâm).
Nhưng tôi sẽ cầu nguyện rằng bạn nhận được ơn sủng tạo nguồn hứng khởi và động lực để lãnh nhận bí tích này. Chúng ta thường cảm thấy một sức ỳ lớn trước bí tích này chỉ vì bí tích quá quyền năng và những thế lực tội lỗi của thế gian không muốn con người tận dụng được những ơn sủng dành sẵn cho họ qua những bí tích.
Thế giới tan vỡ, bạo lực, và bất an của chúng ta sẽ trở nên tốt hơn cho mỗi người nếu họ biết quay trở về với bí tích quyền năng này.

[Nguồn: http://aleteia.org]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 13/07/2016]



Giải Nobel Hòa bình 1979: Mẹ Teresa - Diễn văn Đáp từ

Giải Nobel Hòa bình 1979
Mẹ Teresa
Mẹ Teresa - Diễn văn Đáp từ
Văn bản diễn văn đáp từ của Mẹ Teresa, ngày 10 tháng 12 năm 1979 trong sảnh đường thành phố Oslo, Na Uy.

Mother Teresa delivering her Acceptance Speech.

Xin tất cả chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Chúa vì cơ hội rất đẹp này qua đó tất cả chúng ta hợp nhau công bố niềm vui mở rộng hòa bình, niềm vui yêu thương lẫn nhau và niềm vui thừa nhận rằng những người nghèo nhất trong giữa những người nghèo là anh chị em của chúng ta.

Khi chúng ta tụ họp ở đây để tạ ơn Chúa vì hồng ân hòa bình này, tôi phát cho tất cả quý vị lời cầu nguyện hòa bình mà Thánh Phanxico Assisi đã khẩn cầu nhiều năm trước, và tôi thắc mắc rằng chắc là ngài đã cảm thấy sự cần thiết mà chúng ta cảm thấy phải cầu xin hôm nay. Tôi nghĩ tất cả quý vị đã có bản giấy đó rồi chứ? Nào chúng ta cùng đọc với nhau.

Lạy Chúa, xin biến con thành một nguồn tuôn đổ hòa bình của Chúa, để nơi đâu có hận thù, con sẽ mang đến tình yêu; để nơi đâu có những sai quấy, con mang đến lòng tha thứ; để nơi đâu có bất hòa, con mang đến sự hòa thuận; để nơi đâu có lỗi lầm, con đem đến chân lý; để nơi đâu có nghi nan, con mang đến hy vọng; để nơi đâu có bóng đêm đen, con mang đến ánh sáng; để nơi đâu buồn đau, con mang lại niềm vui.

Lạy chúa, xin ban cho con biết an ủi hơn là được ủi an; để biết cảm thông hơn là được thông cảm; để yêu thương hơn là được yêu. Vì chính lúc quên mình, là tìm lại được. Vì khi tha thứ thì sẽ được thứ tha. Vì khi chết thì sẽ được sống lại trong cuộc sống vĩnh hằng. Amen.

Thiên Chúa yêu trần gian quá đỗi đến mức Người ban con của Người và trao cho một người nữ đồng trinh, Mẹ Maria Đồng trinh  Đầy Ơn phúc, và Mẹ đã vội vã giới thiệu Người ra cho mọi người ngay từ giây phút Người đi vào cuộc đời Mẹ. Rồi sau đó Mẹ làm gì? Mẹ làm công việc của người tôi tớ, chỉ vậy thôi. Lan truyền niềm vui yêu thương phục vụ. Và Giê-su Ki-tô yêu thương bạn và yêu thương tôi và Người đã ban tặng cuộc sống Người cho chúng ta, và dường như điều đó vẫn chưa là đủ với Người, Người cứ nhắc đi nhắc lại: Hãy yêu như Ta đã yêu các con, như Ta yêu các con bây giờ, và chúng ta phải yêu như thế nào, hãy yêu bằng cách cho đi. Vì Người đã cho đi mạng sống Người cho chúng ta. Và Người cứ mãi cho đi ngay tại đây mọi nơi trong cuộc sống của chúng ta và trong cuộc sống của mọi người khác.

Đối với Người chết vẫn chưa đủ cho chúng ta, Người muốn rằng chúng ta yêu nhau, rằng chúng ta nhận ra Người trong nhau, đó là lý do tại sao Người nói: Phúc cho những ai có tâm hồn thanh sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.

Và để chắc chắn chúng ta hiểu được những gì Người muốn nói, Người nói rằng trong giờ phút lâm chung chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên những gì chúng ta đã làm cho người nghèo, cho người đói, cho người trần trụi, người vô gia cư, và Người đã biến mình thành những người đói, người trần trụi, và người vô gia cư đó, không chỉ đói cơm bánh, nhưng đói tình yêu, không  chỉ trần trụi vì không quần áo mặc, nhưng là trần trụi thiếu phẩm giá con người, không chỉ vô gia cư vì không có một nơi để sống, nhưng vô gia cư vì bị lãng quên, không được yêu thương, chẳng là ai trước mặt ai , và Người nói: Bất cứ các người làm điều gì cho những người anh em bé nhỏ nhất này là các ngươi làm cho chính ta.

Thật quá đẹp cho chúng ta trở nên thánh với tình yêu này, vì nên thánh không phải là một sự xa xỉ cho ít người, nó chỉ là một bổn phận vô cùng đơn giản cho mỗi người chúng ta, và qua tình yêu này chúng ta có thể nên thánh. Bằng tình yêu này cho nhau và hôm nay khi tôi nhận được giải thưởng này, riêng tôi thấy thật không xứng đáng, và tôi đã chấp nhận nghèo khó để có thể hiểu được người nghèo. Tôi chọn sự nghèo khó của dân tộc tôi. Nhưng tôi rất biết ơn và rất hạnh phúc nhận nó nhân danh những người đói, người trần trụi, người vô gia cư, người tàn tật, người mù, người phong cùi, nhân danh tất cả những người cảm thấy không được ai cần đến, không được yêu, không được chăm sóc, bị quăng ra khỏi xã hội, nhân danh những người đã trở thành một gánh nặng cho xã hội, và là một sự xấu hổ cho mọi người.

Nhân danh họ tôi xin nhận giải thưởng này. Và tôi tin rằng giải thưởng này sẽ mang lại một tình yêu thông hiểu giữa người giàu và người nghèo. Và đây là điều Đức Giê-su quá thiết tha mong đợi, đó là lý do Giê-su xuống trần gian, để loan báo tin vui cho người nghèo. Và qua giải thưởng này và qua tất cả chúng ta có mặt ở đây hôm nay, chúng ta đều mong muốn công bố tin vui cho người nghèo rằng Thiên Chúa yêu họ, rằng họ có ý nghĩa với cúng ta, rằng họ cũng đã được tạo dựng bởi cùng bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, yêu và được yêu. Những người nghèo của chúng ta là những con người vĩ đại, là những người rất đáng yêu, họ không cần sự thương hại và thông cảm của chúng ta, họ chỉ cần tình yêu thấu hiểu của chúng ta. Họ cần sự tôn trọng của chúng ta; họ cần rằng chúng ta đối xử với họ với đúng phẩm giá. Và tôi nghĩ đây là một sự nghèo nàn to lớn nhất chúng ta đang trải nghiệm, vì chúng ta có trước mặt mình những người đang hấp hối vì thiếu một miếng bánh, nhưng họ chết với một giá trị như vậy. Tôi không bao giờ quên khi tôi mang một người đàn ông từ đường phố về. Người ông ta bị giòi bọ bu đầy người; mặt của ông ta là nơi duy nhất sạch. Và người đàn ông đó, khi chúng tôi mang ông về nhà chúng tôi để chết, ông chỉ nói một câu: Tôi đã sống một đời như thú vật trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, yêu thương và chăm sóc, và ông đã chết rất đẹp. Ông về nhà Chúa, vì chết không là gì, nhưng chỉ là về nhà Chúa. Và ông đã được sự yêu thương đó, được mong chờ, được yêu, được thành một ai đó trong người khác vào giây phút cuối, mang đến niềm vui đó trong cuộc đời ông.

Và tôi cảm nghiệm được một điều mà tôi muốn chia sẻ với tất cả quý vị đây, sự tàn phá hòa bình lớn nhất hôm nay là tiếng khóc của đứa trẻ vô tội chưa ra đời. Vì nếu một người mẹ có thể giết đứa con của chính mình đang mang trong lòng, vậy có còn là gì khi bạn và tôi giết lẫn nhau? Thậm chí trong Kinh thánh đã viết rằng: Ngay cả khi người mẹ có thể quên đứa con của mình - Ta vẫn sẽ không quên ngươi - Ta đã tạo dựng nên ngươi trong bàn tay của ta. Ngay cả khi người mẹ có thể quên, nhưng ngày nay hàng triệu đứa trẻ chưa ra đời đang bị giết. Và chúng ta chẳng nói gì cả. Trong các báo hàng ngày bạn đọc được bao nhiêu con số người này người kia bị giết, cái này bị phá hủy, nhưng chẳng ai nói đến hàng triệu sinh linh nhỏ đã được thụ thai để có sự sống như bạn và tôi, sự sống của Thiên Chúa, và chúng ta im tiếng, chúng ta cho phép điều đó. Với tôi những dân tộc đã hợp pháp hóa phá thai, họ là những dân tộc nghèo nhất. Họ sợ một sinh linh bé nhỏ, họ sợ một em bé chưa ra đời, và đứa trẻ phải chết vì họ không muốn nuôi thêm một đứa con, phải dạy dỗ thêm một đứa con, đứa trẻ phải chết.

Và tại đây tôi xin hỏi quý vị, nhân danh những sinh linh bé nhỏ này, vì đứa trẻ chưa ra đời đó đã nhận ra được sự hiện diện của Chúa Giê-su khi Mẹ Maria đến thăm bà Elizabet, người chị họ. Như chúng ta đọc được trong tin mừng, ngay khi Maria vào trong nhà, đứa trẻ trong lòng mẹ nó, nhảy mừng vui, nhận ra được Hoàng tử Hòa bình. Và vì vậy hôm nay, chúng ta ở đây hãy làm một quyết định mạnh mẽ, chúng ta sẽ cứu từng em bé nhỏ, từng em bé chưa ra đời, cho chúng có cơ hội được sinh ra. Và chúng ta phải làm gì, chúng ta hãy chống lại phá thai bằng cách chấp nhận nuôi dưỡng, và Thiên Chúa nhân từ đã chúc phúc cho công việc tốt đẹp mà chúng tôi đã cứu được hàng ngàn em bé, và hàng ngàn trẻ em đã tìm ra một gia đình nơi chúng được yêu thương, nơi chúng được mong chờ, nơi chúng được chăm sóc. Chúng tôi đã mang đến rất nhiều niềm vui trong những gia đình không có đứa bé nào, và hôm nay, tôi xin kêu gọi Các vị Cao quý ở đây trước tất cả mọi người đến từ nhiều quốc gia khác nhau, chúng ta hãy cùng nhau cầu xin cho chúng ta có lòng can đảm để đứng về phía những em bé chưa ra đời, và cho các sinh linh đó một cơ hội để yêu thương và được yêu, và tôi nghĩ rằng với hồng ân Thiên Chúa chúng ta sẽ có thể mang đến hòa bình cho thế giới. Chúng ta có một cơ hội ở đây trong đất nước Na Uy, các bạn là lời chúc lành của Chúa, các bạn làm rất tốt. Nhưng tôi chắc chắn rằng trong nhiều gia đình và nhiều gia đình của chúng ta, có thể chúng ta không đói vì thiếu bánh ăn, nhưng có thể có ai đó ở trong gia đình là người không được mong chờ, không được yêu thương, không được chăm sóc, bị lãng quên, không có tình yêu. Tình yêu bắt đầu từ trong gia đình. Và tình yêu thực sự là phải chịu đau đớn. Tôi không bao giờ quên được một em bé đã dạy tôi một bài học rất đẹp. Họ nghe nói ở Calcutta, các trẻ, nói rằng Mẹ Teresa không có đường cho các con của mẹ, và cậu bé này, cậu bé người Hindu 4 tuổi, cậu về nhà và nói với cha mẹ: Con sẽ không ăn đường trong 3 ngày, con sẽ đem đường đến cho Mẹ Teresa. Một đứa trẻ nhỏ như vậy có thể cho được bao nhiêu. Sau 3 ngày họ mang đến nhà chúng tôi, và có cậu nhỏ này chỉ vừa đủ khả năng đọc được tên của tôi, cậu bé yêu với tình yêu vĩ đại, cậu bé yêu cho đến khi nó làm đau. Và đây là điều tôi mang đến trình bày trước quý vị, hãy yêu nhau cho đến khi nó gây đau đớn, nhưng đừng quên rằng có rất nhiều trẻ em, rất nhiều trẻ em, rất nhiều người đàn ông đàn bà không có được những gì bạn có. Và hãy nhớ yêu họ cho đến khi nó gây đau đớn. Lúc nào đó trước đây, điều này nghe sẽ rất lạ đối với quý vị, nhưng tôi đã mang một đứa trẻ của Chúa từ đường phố về, và tôi nhìn thấy trên khuôn mặt của đứa trẻ biết rằng bé đang rất đói. Chúa mới biết đã bao nhiêu ngày bé không được ăn. Vì thế tôi đưa cho bé miếng bánh. Rồi đứa bé bắt đầu ăn bánh từng mẩu từng mẩu một. Tôi bảo bé, ăn bánh đi, ăn bánh đi con. Cô bé nhìn tôi và nói: Con sợ ăn hết bánh, và con sợ khi con ăn hết con sẽ lại bị đói. Đây là sự thật, và như vậy, với người nghèo họ có sự vĩ đại. Một tối kia một người đàn ông đến nhà của chúng tôi và nói, có một gia đình người Hindu và 8 đứa con không có gì ăn lâu lắm rồi. Hãy làm gì cho họ. Và tôi lấy cơm và ngay lập tức đi, và ở kia là người mẹ, những khuôn mặt bé bỏng của các con, những ánh mắt long lanh từ cơn đói dằn vặt. Bà lấy cơm từ tay của tôi, bà chia làm hai phần rồi bà đi ra ngoài. Khi bà quay trở lại, tôi hỏi bà, bà đi đâu? Bà làm gì? Và một câu trả lời của bà cho tôi: Họ cũng đang đói. Bà biết rằng người hàng xóm sát bên,  một gia đình Hồi giáo, cũng đang bị đói.

Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, không phải là bát cơm bà đem cho, nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất, là trong sự chịu đựng đau khổ của bà, trong cơn đói của bà, bà vẫn biết rằng có ai đó đang đói, và bà có can đảm để chia sẻ, chia sẻ tình yêu. Và đây là điều tôi muốn nói, tôi muốn mọi người hãy yêu thương người nghèo, đừng bao giờ quay lưng lại với người nghèo, vì quay lưng lại với người nghèo là bạn đang quay lưng lại trước Đức Ki-tô. Vì Người đã đặt mình vào trong người đang đói, người trần trụi, người vô gia cư, để bạn và tôi có cơ hội yêu Người, vì Thiên Chúa ở đâu? Làm sao tôi có thể yêu Thiên Chúa? Chỉ nói với Chúa là tôi yêu Người chưa đủ, nhưng lạy Chúa, tôi yêu Người ở đây. Tôi có thể tận hưởng điều này, nhưng tôi hy sinh. Tôi có thể ăn miếng đường đó, nhưng tôi đã đem cho miếng đường đó. Nếu tôi ở đây cả ngày cả đêm, quý vị sẽ ngạc nhiên trước những điều rất đẹp mà người ta làm cho nhau, để chia sẻ niềm vui cho đi. Và vì vậy, lời cầu nguyện của tôi cho quý vị là chân lý sẽ mang lời cầu nguyện vào trong các gia đình của chúng ta, và từ nền tảng của lời cầu nguyện sẽ làm chúng ta tin rằng trong những người nghèo kia là Đức Ki-tô. Và chúng ta sẽ thực sự tin tường, chúng ta sẽ bắt đầu yêu. Và chúng ta sẽ yêu một cách tự nhiên, chúng ta sẽ cố làm một điều gì đó. Trước tiên là từ trong gia đình, đến người hàng xóm bên cạnh trong đất nước chúng ta đang sống, trên toàn thế giới. Và tất cả chúng ta hãy cùng hiệp thông trong một lời cầu nguyện đó, xin Thiên Chúa cho chúng ta can đảm để bảo vệ những sinh linh chưa ra đời, vì một đứa trẻ là một quà tặng lớn nhất của Thiên Chúa trao ban cho một gia đình, cho một dân tộc và cho toàn thế giới. Xin Chúa chúc lành cho tất cả quý vị!

[Nguồn: nobelprize.org]


[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 12/07/2016]