Thứ Ba, 2 tháng 10, 2018

10 bước để trở thành một người xây dựng hòa bình trong gia đình và thế giới

10 bước để trở thành một người xây dựng hòa bình trong gia đình và thế giới

23 tháng Chín, 2018
10 bước để trở thành một người xây dựng hòa bình trong gia đình và thế giới


Một đức tổng giám mục đã từng là người đứng đầu trong tiến trình hòa bình của Colombia trình bày hòa bình thật sự là gì, và làm sao để đạt được nó

Nhân dịp Đại Hội đồng chung của Liên Hợp Quốc, Phái bộ Tòa Thánh tại Liên Hợp quốc tổ chức Buổi Cầu nguyện cho Cộng đồng Ngoại giao Liên Hợp quốc và ban nhân sự, cùng với các nhà lãnh đạo tôn giáo và đại kết trong khu vực New York, vào ngày 17 tháng Chín, 2018.

Năm nay đức Tổng Giám mục Luis Castro Quiroga của Colombia, cựu Chủ tịch Hội đồng Giám mục Colombia và là một trong những nhà lãnh đạo Tiến trình Hòa bình của Columbia, đọc bài suy niệm bao gồm mười điểm nói về hòa bình.

Chúng tôi cung cấp ý bài suy niệm của ngài dưới đây:


* * *


Trước hết, HÒA BÌNH LÀ MỘT MÓN QUÀ CỦA THIÊN CHÚA: Kinh Thánh nói cho chúng ta biết về hòa bình. Trên tất cả, hòa bình là một sự chúc phúc của Thiên Chúa, một món quà và không phải là một sự áp đặt. Thiên Chúa tặng ban phúc lành hòa bình và Người muốn chúng ta đón nhận nó. Chấp nhận món quà hòa bình của Người là một dấu chỉ của sự khôn ngoan. Chủ đề chính của đức Thánh Cha Phanxico trong suốt chuyến thăm viếng của ngài đến Columbia vào tháng Chín năm trước là hòa bình. Ngài đề cập đến hòa bình 42 lần trong các bài diễn từ của ngài và ngài xướng kinh cho tất cả người Columbia cầu nguyện để xin món quà này. Chúng ta ở đây tối nay cầu nguyện có được món quà này cho những vùng bị chiến tranh xé nát trên khắp địa cầu.

Thứ Hai, HÒA BÌNH KÊU GỌI ĐỐI THOẠI: Nền hòa bình thật sự không thể bị áp đặt bằng vũ lực. Hòa bình bắt đầu sức sống và định hình tại bàn đàm phán với sự đối thoại chân thành và trung thực. Ở Columbia, sự đối thoại cuối cùng đã dẫn đến hiệp định hòa bình. Bằng sự làm việc miệt mài, thật nhiều quyết tâm và nhiều lời cầu nguyện, hiệp ước hòa bình đã được thực thi từng bước.

Thứ Ba, HÒA BÌNH ĐÒI PHẢI CÓ SỰ CỐNG HIẾN: Hòa bình cũng có thể rất mong manh như chính sự sống. Vì thế, cần phải chăm sóc và nuôi dưỡng nó. Hòa bình đòi hỏi mức độ quan tâm và cống hiến giống như cha mẹ dành ra cho sự phát triển của đứa con của họ.

Thứ Tư, HÒA BÌNH LÀ BẢO VỆ SỰ SỐNG: Hòa bình không phải là thụ động nhưng năng động. Chính hòa bình được thể hiện trong việc bảo vệ sự sống của những người dễ bị xúc phạm. Đó có thể là người nghèo, tội nhân, bệnh nhân, các nạn nhân của bạo lực, hoặc trẻ em. Sự bảo vệ này là một cuộc nổi dậy chống lại tính ích kỷ, tham lam, bất công, hoặc chống lại bất cứ điều gì có thể gây nguy hại cho con người.

Thứ Năm, HÒA BÌNH CÓ HAI CHIỀU KÍCH: hòa bình trong tâm hồn và hòa bình ngoại giới. Hòa bình trong tâm hồn dẫn đến hòa bình ngoại giới và hòa bình ngoại giới nuôi dưỡng hòa bình trong tâm hồn. Thiếu vắng sự bình an nội tâm dẫn đến sự ganh đua, ghen tỵ, trả thù và phẫn uất. Trong các phạm vi xã hội, con người và môi trường sinh thái của chúng ta đòi phải có hòa bình ngoại giới. Nếu không có hòa bình ngoại giới, thì sự bình an nội tâm không trọn vẹn và trở nên hão huyền, một hình thức cô lập của con người thoát ra khỏi thực tại. Hai chiều kích này của hòa bình không thể tách rời nhau. Cả hai phải đi cùng nhau.

Thứ Sáu, HÒA BÌNH MANG ĐẾN NIỀM VUI: Hòa bình mang đến sự cảm nhận hạnh phúc sâu thẳm. Đặc điểm này của hòa bình thường không được chú ý nhiều, nhưng nó là một kết quả được mong đợi nhất. Một con người hạnh phúc là một người có sự bình an.

Thứ Bảy, HÒA GIẢI VỚI THIÊN CHÚA VÀ VỚI THA NHÂN: Hòa giải là hành động thương xót của Thiên Chúa để cho chúng ta được trở nên bạn bè của Người. Thiên Chúa là chủ thể của sự hòa giải. “Chân trời của sự hòa giải cũng mênh mông bao la như toàn thể tạo vật.” Vì thế, chúng ta phải hân hoan chào đón ân ban hòa giải của Thiên Chúa vì thế gian. Hòa bình là đích đến và là hoa trái của hòa giải.

Thứ Tám, SỰ THẬT LÀ MỘT CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HÒA GIẢI: Các nạn nhân chiến tranh ở Colombia mong đợi Sự thật, Công bình, sự Đền bù, và không có sự Tái diễn. Chúng ta không được phép giấu giếm sự thật. Đây là lý do tại sao chúng tôi ủng hộ Ủy ban Sự thật và Hòa bình. Chúa Giê-su nói, lời của Ngài cho tất cả mọi người chứ không dành riêng cho Ki-tô hữu, rằng “Sự thật sẽ giải phóng các ông,” (Ga 8, 32). Ủy ban Sự thật Nam Phi có một câu khẩu hiệu, “Sự thật, con đường dẫn đến hòa giải.”

Thứ Chín, CÔNG LÝ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT: Trong Sách Thánh tiếng Hê-brơ , tiên tri A-mốt (5:24) nói rằng có hai loại công lý khác nhau. Một là công lý được áp dụng trọn vẹn theo luật (mispat) bởi một Thẩm phán trong tòa. Loại thứ hai là công lý theo lòng thương xót (Sedaqa) như được áp dụng bởi những vị Thông thái. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II có lần nói rằng Công lý nếu chỉ thuần là công lý sẽ nhanh chóng không còn là công lý và trở thành bất công. Câu cách ngôn của triết gia Cicero là Summum ius, summa iniuria, hàm ý rằng luật khắt khe thường là sự bất công và có thể gây ra sự tổn hại lớn. Vì công lý là công lý thật, nó phải có điều gì đó vượt hơn công lý trừng phạt nghiêm khắc; điều vượt hơn đó là lòng thương xót. Transitional justice (tạm dịch: công lý chuyển tiếp) gần với loại công lý thứ hai này hơn. Nó không phải là công lý không trừng phạt nhưng cũng không phải là công lý trừng phạt lạnh lùng. Công lý với lòng thương xót có thể là sự chuyển tiếp từ chiến tranh sang hòa bình.

Thứ Mười, XÂY DỰNG HÒA BÌNH: Liên Hợp quốc hoạt động theo hai khái niệm về hòa bình: PEACEMAKING và PEACEBUILDING. Peacemaking hàm ý chấm dứt chiến tranh bằng những hiệp ước. Peacebuilding giới thiệu một cấu trúc mới và một nền tảng mới và vững chắc. Peacebuilding có ba yếu tố: một nền tảng luân lý của sự trung thực, thoát khỏi sự hủ hóa; một nền tảng tinh thần của sự tha thứ và hòa giải; và một nền tảng văn hóa để thúc đẩy tính huynh đệ và một nền “văn hóa sự sống” đích thực.

Tôi xin minh họa các nền tảng luân lý, tinh thần và văn hóa của peacebuilding bằng một câu chuyện.

Một người đàn ông đi săn trong rừng. Bất chợt, ông ta nhìn thấy một bóng khổng lồ thấp thoáng và chuẩn bị bắn. Ông ta quan sát kỹ thêm một chút và nhận ra đó là bóng của một người. Ông ta nghĩ, “Chắc là một kẻ thù” và chuẩn bị bắn. Ông ta lại quan sát kỹ thêm nữa và nhận ra đó là bóng của người em trai của ông, người cũng cùng đi săn với ông. Họ ôm lấy nhau.

Sự thay đổi về nhận thức từ động vật sang người và từ một con người sang người anh em là điều chúng ta cần có ở Columbia và trên khắp thế giới để tất cả chúng ta có thể trở thành một Liên Hợp quốc thật sự, hợp nhất trong hòa bình và trong tình huynh đệ.



[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: 24/9/2018]

Toàn văn họp báo trên máy bay của Đức Thánh Cha trên chuyến bay trở về từ các quốc gia vùng Baltic

Toàn văn họp báo trên máy bay của Đức Thánh Cha trên chuyến bay trở về từ các quốc gia vùng Baltic

Toàn văn họp báo trên máy bay của Đức Thánh Cha trên chuyến bay trở về từ các quốc gia vùng Baltic

Đối thoại với các phóng viên trên chuyến bay từ Estonia về Roma

27 tháng Chín, 2018 14:31
Trong chuyến bay ngày 25 tháng Chín, 2018, từ Tallinn, Estonia, trở về Roma, kết thúc chuyến Tông du đến Lithuania, Latvia và Estonia (22-25 tháng Chín, 2018), Đức Thánh Cha Phanxico gặp gỡ các ký giả trên máy bay trong một cuộc họp báo, được ghi chép và dịch lại dưới đây. Ông Greg Burke, Giám đốc Văn phòng Báo chí Vatican, điều phối cuộc trao đổi.

(Phần II)

* * *

Văn bản chính


Ông Greg Burke:

Chúng ta nói về chuyến đi … 

Một phóng viên từ đài Phát thanh Truyền hình Lithuania.

Edvardas Spokas:

Con sẽ nói bằng tiếng Anh. Trong cả ba quốc gia, cha đều trình bày đến vấn đề mở lòng: mở lòng đối với người di cư, mở lòng với người khác. Nhưng ví dụ ở Lithuania đã có một sự mâu thuẫn trong vụ một cô gái chào Đức Thánh Cha khi người hạ cánh, ngay trước máy bay; quả thật, cô gái này không có diện mạo người Lithuania. Cô ấy một phần giống người Ý, với làn da hơi sậm … Câu hỏi của con là: trong những quốc gia Baltic, có phải người ta chỉ muốn nghe những điều người ta thích nghe mà cha nói, hay họ lắng nghe những gì cha muốn nói với họ? Họ có lắng nghe thông điệp của cha về sự mở lòng không?

ĐTC Phanxico:

Thông điệp về sự mở lòng đối với người nhập cư là rất phù hợp cho dân tộc của anh; không có những ngọn lửa theo chủ nghĩa dân túy mạnh ở đó, không có. Estonia và Latvia cũng có những người với tâm hồn rộng mở muốn hội nhập những người nhập cư, nhưng không nhiều, vì như vậy thì không thực hiện được, hội nhập họ với sự khôn ngoan thận trọng của chính phủ. Chúng tôi đã nói về vấn đề này với hai vị nguyên thủ nhà nước, và họ đụng chạm đến vấn đề, chứ không phải tôi. Và trong các bài diễn văn của các Tổng thống, anh thường nghe thấy các từ “lòng hiếu khách,” “mở lòng.” Điều này cho thấy với ý chí chung về biện pháp thì có thể thực hiện được, vì không gian, công việc, v.v... ; — điều này rất quan trọng — với biện pháp không là mối đe dọa chống lại bản sắc của một người. Đó là ba điều mà tôi hiểu về việc di cư của ở đây. Và điều này làm tôi xúc động: thận trọng và suy nghĩ kỹ về sự mở lòng. Tôi không biết anh có nghĩ khác không.

Edvardas Spokas:

Câu hỏi của con là sự đón nhận thông điệp của đức thánh cha như thế nào?

ĐTC Phanxico:

Tôi tin là tốt, theo ý nghĩa tôi đã nói đến. Vì ngày nay vấn đề người di cư trên khắp thế giới là một vấn đề nghiêm trọng — và không phải chỉ là di cư ra nước ngoài, mà cả trong nước, trong các Châu lục; không dễ nghiên cứu được nó. Trong mỗi quốc gia, trong mỗi vị trí, trong mỗi nơi, nó có những ý nghĩa bao hàm khác.

Ông Greg Burke:

Cảm ơn Đức Thánh Cha. Chúng ta kết thúc những câu hỏi về chuyến đi.

ĐTC Phanxico:

Rất tốt. Tôi muốn nói đôi điều về một số điểm của chuyến đi mà tôi đã sống những cảm xúc đặc biệt.

Sự thật về lịch sử của các bạn, về lịch sử của các quốc gia vùng Baltic: một lịch sử của những cuộc chiếm đóng, của những chế độ độc tài, của tội phạm, của những cuộc lưu đày … Khi tôi đến thăm Viện Bảo tàng ở Vilnius: “viện bảo tàng” là một cụm từ làm chúng ta nghĩ đến Louvre … Không phải. Nhà Bảo tàng đó trước đây là một nhà tù; nó là một nhà tù trong đó những người bị giam cầm, vì lý do chính trị hoặc tôn giáo, bị lấy đi mạng sống. Và tôi đã nhìn thấy những ô ngục giam giữ kích cỡ vừa bằng cái ghế ngồi này, trong đó tù nhân chỉ có thể đứng, những phòng tra tấn. Tôi đã nhìn thấy những phòng tra tấn, nơi mà trong thời tiết giá rét ở Lithuania, người ta bắt những tù nhân cởi hết quần áo và xối nước vào họ, và họ phải đứng ở đó giờ này sang giờ khác, nhằm bẻ gãy sức chịu đựng của họ. Rồi tôi vào trong phòng lớn, căn phòng hành hình rộng lớn. Các tù nhân bị đưa đến đó bằng vũ lực và bị giết chết, bằng một phát súng bắn vào sau gáy. Rồi xác của họ được một băng chuyền đưa ra một xe tải và quăng xác họ vào rừng. Người ta giết trên dưới 40 người một ngày. Cuối cùng, có đến gần 15.000 người bị giết. Đây là một phần lịch sử của Lithuania, nhưng cũng là của những quốc gia khác. Những gì tôi nhìn thấy ở Lithuania. Rồi tôi đến một chỗ gọi là Great Ghetto, nơi hàng ngàn người Do thái bị giết. Và cũng cùng buổi chiều hôm đó, tôi đến Đài Tưởng Niệm những người bị kết án, bị giết, bị tra tấn và bị trục xuất. Ngày hôm đó — tôi nói sự thật với anh chị em — người tôi nặng trĩu; nó khiến tôi phải suy nghĩ về sự tàn ác. Nhưng tôi nói với anh chị em rằng, dựa trên thông tin mà chúng ta có, thì sự tàn ác đó chưa kết thúc. Ngày nay cũng có những sự tàn ác tương tự ở rất nhiều nơi giam giữ, nó được tìm thấy ở rất nhiều nhà tù; sự quá tải của một nhà tù cũng là một hệ thống tra tấn, một cách sống mất hết phẩm giá. Một nhà tù ngày nay không cho người bị giam giữ một viễn cảnh hy vọng, thì đã là một sự tra tấn. Rồi chúng ta nhìn thấy trên truyền hình sự tàn ác của ISIS; những kẻ khủng bố: viên phi công người Gio-đan đó bị thiêu sống, những người Ki-tô hữu Cốp-tíc kia bị chặt đầu trên bãi biển Lybia, và rất nhiều người khác. Ngày nay sự tàn ác vẫn chưa kết thúc. Nó tồn tại khắp nơi trên thế giới. Và tôi muốn gửi thông điệp này đến anh chị em là những ký giả: đây là một sự ô nhục, một sự ô nhục nặng nề của văn hóa và xã hội chúng ta.

Một điều nữa mà tôi nhìn thấy ở ba quốc gia này là lòng thù hận [của chế độ cũ] đối với tôn giáo, bất kể đó là tôn giáo nào. Lòng thù hận. Tôi gặp một Đức Giám mục Dòng Tên của Lithuania hay Latvia, tôi cũng không nhớ rõ nữa, ngài đã bị đày đến Siberia suốt 10 năm, sau đó sang một trại tập trung khác … Bây giờ ngài đã già, ngài vẫn cười … Như vậy rất nhiều người nam nữ đã bị tra tấn và bị đày đến Siberia, vì bảo vệ đức tin của họ, đó là bản sắc của họ, và họ đã không trở về hoặc đã bị giết. Đức tin của ba quốc gia này rất mạnh; quả thật đó là một đức tin được sinh ra từ sự tử đạo, và đây nó là điều mà có thể anh chị em đã nhìn thấy khi nói chuyện với mọi người, với tư cách là những phóng viên để lấy tin tức của đất nước.

Ngoài ra, kinh nghiệm đức tin rất quan trọng này đã sản sinh ra một hiện tượng riêng biệt trong những quốc gia này: một đời sống đại kết, mà không nơi nào có được, nó quá phổ biến. Có một tinh thần đại kết thật sự: tinh thần đại kết giữa người Tin lành, người Baptist, người Anh giáo và cả người Chính thống giáo. Chúng ta đã nhìn thấy trong Nhà thờ Chính tòa ngày hôm qua, trong buổi gặp gỡ đại kết tại Riga, ở Latvia: một điều tuyệt vời; những người anh em, thân mật, cùng nhau trong một nhà thờ … gần gũi. Tinh thần đại kết đã đâm rễ ở đó.

Và có một hiện tượng khác nữa trong những quốc gia này, hiện tượng quan trọng cần phải nghiên cứu, và anh chị em có thể sẽ có thể có nhiều điều thú vị để làm trong công việc, nghiên cứu điều này: hiện tượng truyền đạt văn hóa, bản sắc, đức tin. Thông thường ông bà là người làm công việc truyền đạt này. Tại sao? Vì cha mẹ phải đi làm, cha và mẹ đều phải làm việc, và phải đăng ký gia nhập đảng — hoặc trong chính quyền Xô-viết hoặc trong Đức Quốc xã – và cũng được nhồi nhét chủ nghĩa vô thần. Tuy nhiên, ông bà đã có thể truyền đạt đức tin và văn hóa. Suốt thời gian khi việc sử dụng ngôn ngữ của người Lithuania bị cấm, khi nó bị loại ra khỏi các trường học, khi họ đến tham dự những nghi thức tôn giáo — bất kể đó là người Công giáo hay người Tin lành — họ cầm lên những quyển sách kinh để xem chúng có được viết bằng tiếng Lithuania hay bằng tiếng Nga hay tiếng Đức. Và rất nhiều người — cả một thế hệ khi đó — đã học tiếng mẹ đẻ từ ông bà: chính những người ông người bà đã dạy viết và đọc bằng tiếng mẹ đẻ. Điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ và cần phải có những mục viết, những loạt truyền hình nói về sự truyền đạt văn hóa, ngôn ngữ, nghệ thuật, và đức tin trong những thời gian dưới chế độ độc tài và bắt bớ. Chúng ta không thể nghĩ cách khác, vì tất cả mọi phương tiện truyền thông khi đó còn rất ít – chỉ có radio – nhưng do nhà nước nắm giữ. Khi một chính phủ trở nên — hoặc muốn trở nên độc tài, thì điều đầu tiên họ làm là nắm giữ toàn bộ mọi phương tiện thông tin truyền thông.

Tôi muốn nhấn mạnh đến những điều này.

Và bây giờ, tôi muốn nói về buổi gặp gỡ với giới trẻ hôm nay. Giới trẻ đã trở nên bất mãn: ở đây tôi giới thiệu về câu hỏi đầu tiên đi ra ngoài chủ đề của chuyến đi. Giới trẻ bất mãn vì thói đạo đức giả của người lớn. Giới trẻ bất mãn vì chiến tranh; họ bất mãn vì sự mâu thuẫn; họ bất mãn vì sự bê bối. Và về vấn đề bê bối, có vấn đề mà anh đã nhấn mạnh, đó là những vụ lạm dụng tình dục. Đúng là có sự lên án về phía Giáo hội, và tất cả chúng ta đều biết, chúng ta biết những con số thống kê, tôi không nhắc lại ở đây. Tuy nhiên, cho dù giả sử chỉ có một linh mục lạm dụng một thiếu nhi, thì điều này cũng đã là gớm ghiếc, vì con người đó được chọn bởi Chúa để giúp dẫn đưa đứa trẻ về nước Trời. Tôi hiểu rằng giới trẻ rất bất mãn vì sự bê bối rất lớn này. Họ biết rằng nó có ở khắp nơi, nhưng ở trong Giáo hội thì nó đáng hổ thẹn hơn, vì trẻ em phải được dẫn đưa lên tới Chúa, chứ không phải tàn phá. Giới trẻ tìm cách để tạo ra con đường bằng kinh nghiệm. Buổi gặp gỡ hôm nay với giới trẻ rất rõ ràng: họ muốn được lắng nghe; họ muốn được lắng nghe. Họ không muốn những công thức cứng nhắc. Họ không muốn một sự đồng hành mang tính chỉ huy. Và phần thứ hai của câu hỏi này, đó là câu hỏi đầu tiên ra ngoài chủ đề chuyến đi, nó là “Giáo hội không làm những gì đáng lẽ mình phải làm, đó là làm trong sạch sự bê bối này.

Chẳng hạn, tôi lấy trường hợp Bản Báo cáo của Pennsylvania, và chúng ta thấy rằng trong những năm đầu của thập niên 70 đã có nhiều linh mục rơi vào tình trạng bê bối này. Rồi trong những thời gian gần đây hơn, họ đã giảm bớt vì Giáo hội nhận ra rằng Giáo hội phải chống lại theo một con đường khác. Trong quá khứ, những vụ bê bối này bị bao che. Chúng được bao che ngay trong gia đình khi mà một người chú xâm hại một đứa cháu gái hay khi người cha xâm hại con. Chúng được bao che vì đó là một điều vô cùng xấu hổ. Đó là cách nghĩ của những thế kỷ trước, và của thế kỷ vừa qua. Có một nguyên tắc trong vấn đề này giúp tôi rất nhiều trong cách giải thích lịch sử: một biến cố lịch sử phải được giải thích bằng phương pháp thông diễn theo thời điểm của biến cố xảy ra, không phải phép thông diễn của ngày nay. Chẳng hạn, vấn đề người thổ dân: trước đây có quá nhiều bất công, quá nhiều sự tàn bạo. Tuy nhiên, không thể giải thích theo lối thông diễn của ngày nay, khi mà chúng ta đã có nhận thức khác. Một ví dụ cuối cùng: án tử hình. Vatican cũng là một Nhà nước, khi nó còn là một Nhà nước của Giáo hoàng, lúc đó vẫn có án tử hình: người cuối cùng bị chém đầu vào khoảng năm 1870, một tội phạm, một thanh niên. Nhưng rồi ý thức luân lý phát triển, ý thức luân lý phát triển. Sự thật là luôn luôn có những con dê tế thần, luôn luôn có những bản án tử hình bí mật: ông già rồi, chỉ thêm phiền toái, tôi không cho ông thuốc uống …, rồi sau đó họ báo: “ông ta đi rồi.” Đó là sự kết án tử của xã hội ngày nay. Tuy nhiên, tôi cho rằng với những điều này thì tôi đã trả lời được câu hỏi. [...]

Ông Greg Burke:

Antonio Pelayo thuộc “Vida Nueva” (Tây Ban nha)”

Antonio Peayo:

Thưa Đức Thánh Cha, vài ngày trước một Thỏa thuận đã được ký giữa Tòa Thánh và nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa. Đức Thánh Cha có thể cho chúng con thêm thông tin về vấn đề này, về nội dung của nó? Vì một số người Công giáo Trung quốc, đặc biệt là Đức Hồng y Zen, đã cáo buộc người bán Giáo hội cho Chính quyền Cộng sản Trung quốc, sau quá nhiều năm đau khổ. Câu trả lời của Đức Thánh Cha như thế nào trước cáo buộc này?

ĐTC Phanxico:

Đây là một tiến trình của nhiều năm, một sự đối thoại giữa Ủy ban Vatican và Ủy ban Trung hoa, để giải quyết vấn đề bổ nhiệm Giám mục. Nhóm Vatican đã làm việc rất nhiều. Tôi muốn nêu lên một số vị: Đức ông Celli, ngài đã đầy lòng kiên nhẫn đi lại, đối thoại, trở lại … năm này sang năm khác! Rồi Đức ông Rota Graziosi, một Đức ông thuộc Giáo triều 72 tuổi vô cùng khiêm nhường, ngài muốn làm một linh mục xứ nhưng đã ở lại Giáo triều để trợ giúp trong tiến trình này. Rồi trong đó có ngài Quốc Vụ khanh, Đức Hồng y Parolin, một người rất nhiệt thành, ngài tận tâm nghiên cứu: ngài nghiên cứu tất cả mọi tài liệu: từng dấu chấm, dấu phẩy, từng dấu nhấn … Và điều này giúp tôi rất an tâm. Và nhóm làm việc này, với những khả năng như vậy, tiến bước. Anh biết rằng khi một hiệp định hòa bình được ký hoặc một cuộc đàm phán, cả hai bên đều phải nhượng bộ một điều gì đó; đây là quy luật; cả hai phía. Tiến trình này đi theo cách như vậy: tiến tới hai bước, lui một bước, tiến tới hai bước, lui một bước ... ; nhiều tháng trôi qua không có cuộc nói chuyện nào với nhau, và rồi … Thời gian là của Chúa, cũng tương tự như thời gian của người Trung quốc: chậm chậm … Đây là sự khôn ngoan, sự khôn ngoan của người Trung quốc. Hoàn cảnh của các Giám mục trong tình trạng khó khăn được nghiên cứu từng trường hợp một, và cuối cùng, các tài liệu được chuyển lên bàn của tôi và chính tôi là người chịu trách nhiệm ký, về trường hợp của các giám mục. Liên quan đến Thỏa thuận, các bản nháp được chuyển đến tôi, chúng tôi thảo luận, tôi đưa ra ý kiến, những người khác tranh luận và rồi tiến tới. Tôi nghĩ đến sự chống đối, đến những người Công giáo đã chịu đau khổ: thật vậy; họ sẽ phải đau khổ. Luôn luôn có sự đau khổ trong một thỏa thuận. Nhưng họ có đức tin rất mạnh và họ viết, học gửi thông điệp, khẳng định rằng những gì Tòa Thánh, những gì Phê-rô nói, là những điều Chúa Giê-su nói: đức tin “tử đạo” của những con người này ngày nay đã vững mạnh. Họ là những con người tuyệt vời. Tôi đã ký Thỏa thuận, những Thư Ủy quyền (Plenipotentiary Letters) để ký Thỏa thuận. Tôi là người chịu trách nhiệm. Những vị khác mà tôi bổ nhiệm, đã làm việc trong suốt thời gian hơn mười năm. Nó không phải là một việc làm không có chuẩn bị; nó là một hành trình, một hành trình thật sự.

Và bây giờ là một giai thoại nho nhỏ và một sự thật lịch sử, hai câu chuyện trước khi kết thúc. Trước đây lúc có một bài báo nổi tiếng đăng về một vị cựu Sứ thần Tòa Thánh, hàng giám mục trên toàn thế giới viết gửi cho tôi nói rằng các ngài chia sẻ tình hiệp thông, rằng các ngài cầu nguyện cho tôi; người tín hữu Trung quốc cũng viết, và chữ ký trên lá thư này là của Đức Giám mục – chúng ta hiểu là vậy – của Giáo hội Công giáo truyền thống và của vị Giám mục của Giáo hội Yêu nước: cùng chung, cả hai, và tín hữu của cả hai giáo hội. Việc này cho tôi một tín hiệu từ Thiên Chúa. Và điều thứ hai: chúng ta không quên rằng ở Châu Mỹ La tinh — tạ ơn Chúa là điều này đã qua! — chúng ta quên rằng trong 350 năm chính các vua của Bồ Đào nha và Tây Ban nha bổ nhiệm giám mục. Và Giáo hoàng chỉ trao quyền cai quản. Chúng ta quên rằng trường hợp của Đế quốc Áo-Hung: Marie Therese thấy mệt mỏi với việc ký những bổ nhiệm Giám mục và trao quyền lại cho Vatican. Những thời gian khác, tạ ơn Chúa là những điều này ngày nay không còn lặp lại! Tuy nhiên, trường hợp hiện nay không phải là việc bổ nhiệm Giám mục: đó là cuộc đối thoại về các ứng viên sau cùng. Nó được thực hiện qua sự đối thoại, nhưng việc bổ nhiệm là của Roma; sự bổ nhiệm là của Giáo hoàng, điều này rất rõ ràng. Và chúng ta cầu nguyện cho những sự đau khổ của một số người không hiểu hoặc những người mà sau lưng họ là nhiều năm phải sống trong bí mật.

Cảm ơn anh chị em rất nhiều! Họ nói là bữa tối đã sẵn sàng và chuyến bay không dài lắm. Cảm ơn anh chị em rất nhiều! Cảm ơn anh chị em rất nhiều vì công việc của anh chị em. Và xin cầu nguyện cho tôi.

Ông Greg Burke: 

Xin cảm ơn Đức Thánh Cha. Chúc Cha ngon miệng và thời gian nghỉ ngơi dễ chịu.

© Libreria Editrice Vatican

[Văn bản chính: Tiếng Ý] [Bản dịch (tiếng Anh) của Virginia M. Forrester của ZENIT]


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 28/9/2018]