Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2022

Chuyến tông du của Đức Phanxicô tại Kazakhstan – Giờ cầu nguyện của các nhà lãnh đạo tôn giáo, Khai mạc và Phiên họp Khoáng đại của Đại hội 7 các Nhà Lãnh đạo các Tôn giáo Truyền thống và Thế giới, 14.09.2022

Chuyến tông du của Đức Phanxicô tại Kazakhstan – Giờ cầu nguyện của các nhà lãnh đạo tôn giáo, Khai mạc và Phiên họp Khoáng đại của Đại hội 7 các Nhà Lãnh đạo các Tôn giáo Truyền thống và Thế giới, 14.09.2022

Chuyến tông du của Đức Phanxicô tại Kazakhstan – Giờ cầu nguyện của các nhà lãnh đạo tôn giáo, Khai mạc và Phiên họp Khoáng đại của Đại hội 7 các Nhà Lãnh đạo các Tôn giáo Truyền thống và Thế giới, 14.09.2022

*******

Sáng nay, Đức Thánh Cha Phanxicô rời Tòa Khâm sứ và di chuyển bằng xe hơi đến Cung Điện Độc Lập, lúc 10:00 (6h00, giờ Roma) diễn ra giờ cầu nguyện của các nhà lãnh đạo tôn giáo trong Nghị trường.

Sau giờ cầu nguyện, Đại hội 7 các Nhà Lãnh đạo Tôn giáo Truyền thống và Thế giới khai mạc và Phiên họp Khoáng đại được bắt đầu.

Sau diễn văn của ông Kassym-Jomart K. Tokayev, Tổng thống nước Cộng hòa Kazakhstan, Đức Giáo hoàng đã đọc diễn từ của ngài.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha cùng với các vị Lãnh đạo khác tiến đến gian chính của Cung Điện Độc Lập. Sau khi chụp ảnh nhóm, Đức Thánh Cha Phanxicô gặp riêng với một số nhà lãnh đạo tôn giáo.

Sau đó, Đức Giáo hoàng tạm biệt những người có mặt và trở về Tòa Khâm sứ bằng xe hơi.

Sau đây là bài diễn từ của Đức Thánh Cha trong phiên khai mạc Đại hội các Nhà Lãnh đạo các Tôn giáo Truyền thống và Thế giới, trong Phiên họp Khoáng đại:

______________________________________________

Diễn từ của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến!

Cho phép tôi ngỏ lời với quý vị theo cách trực tiếp và quen thuộc này, như là những người anh chị em. Vì đó là cách tôi muốn gửi lời chào đến tất cả quý vị – các nhà lãnh đạo tôn giáo và các nhà chức trách, các thành viên của ngoại giao đoàn và các tổ chức quốc tế, đại diện của những tổ chức học thuật và văn hóa của xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ – nhân danh tình huynh đệ hiệp nhất chúng ta như những người con của cùng một Nước Trời.

Trước sự huyền nhiệm của sự vô cùng vô tận vượt quá trí hiểu và thu hút chúng ta, các tôn giáo nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là những thụ tạo; chúng ta không có quyền tuyệt đối, nhưng là những con người đang hành trình hướng tới cùng một mục tiêu trên trời. Do đó, bản chất chung của chúng ta là những thụ tạo dẫn đến một mối dây ràng buộc chung, một tình huynh đệ đích thực. Nó làm cho chúng ta nhận biết rằng ý nghĩa của cuộc sống không thể bị thu hẹp vào lợi ích cá nhân của chúng ta, nhưng được liên kết chặt chẽ với tình huynh đệ là một phần trong căn tính của chúng ta. Chúng ta trưởng thành với những người khác và nhờ những người khác. Thưa các nhà lãnh đạo và đại diện của các tôn giáo truyền thống và thế giới, chúng ta đang gặp nhau tại một đất nước đã trải qua nhiều thế kỷ với những đoàn người lữ hành khổng lồ. Tại những vùng đất này, đặc biệt thông qua con đường tơ lụa xa xưa, nhiều lịch sử, nhiều tư tưởng, niềm tin và hy vọng đã gặp gỡ nhau. Ước mong Kazakhstan một lần nữa là miền đất của sự gặp gỡ giữa những người từ phương xa. Ước mong nó mở ra một con đường mới, tập trung vào các mối quan hệ của con người: tôn trọng, đối thoại chân thành, tôn trọng phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người và hợp tác với nhau. Một lộ trình của tình huynh đệ, để cùng nhau đồng hành hướng tới mục tiêu hòa bình.

Hôm qua tôi đã nói chuyện bằng cách sử dụng hình ảnh của cây đàn dombra; hôm nay tôi muốn kết hợp một giọng nói với loại nhạc cụ đó: giọng nói của thi hào nổi tiếng nhất của đất nước và cha đẻ của nền văn học hiện đại, một nhà giáo dục và nhà soạn nhạc thường được miêu tả chân dung cùng với cây đàn dombra. Thi hào Abai (1845-1904), như ông được nhiều người biết đến, đã để lại cho chúng ta những tác phẩm thấm đẫm lòng sùng mộ tôn giáo và phản ánh tâm hồn cao quý của dân tộc này: sự phân định khôn ngoan, khao khát hòa bình của dân tộc được tìm thấy qua những câu hỏi khiêm tốn, và theo đuổi sự khôn ngoan thực sự mang tính nhân văn, không bao giờ khép kín nhưng luôn rộng mở để được truyền cảm hứng từ nhiều kinh nghiệm khác nhau. Nhà thơ Abai thách thức chúng ta bằng cách đặt một câu hỏi bất hủ: “Vẻ đẹp của cuộc sống là gì nếu người ta không trở nên sâu sắc?” (Những bài thơ, 1898). Một nhà thơ khác, suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, đã đặt lên môi một người chăn cừu trong những vùng đất mênh mông này của Châu Á một câu hỏi quan trọng không kém: “Cuộc lang thang ngắn ngủi này của tôi sẽ đi về đâu?” (G. LEOPARDI, Canto notturno di un pastore errante dell’Asia). Những câu hỏi như thế này cho thấy sự cần thiết của tôn giáo đối với con người; chúng nhắc nhở chúng ta rằng con người chúng ta không sống để thỏa mãn những thú vui thuộc thế gian hoặc để dệt nên những mối quan hệ thuần túy mang tính kinh tế, nhưng để cùng nhau bước đi, như những người lữ khách, với đôi mắt hướng lên trời. Chúng ta cần hiểu rõ những vấn đề nền tảng, để vun đắp một tính tâm linh; như thi hào Abai nói, chúng ta cần giữ cho “linh hồn sống và trí óc minh mẫn” (Book of Words, Word 6).

Anh chị em thân mến, thế giới mong đợi chúng ta là những tấm gương về linh hồn sống và trí óc minh mẫn; thế giới mong chờ chúng ta mang đến một tôn giáo đích thực. Đã đến lúc nhận ra rằng chủ nghĩa chính thống làm vẩn đục và băng hoại mọi tín ngưỡng; đã đến thời gian cho những tâm hồn rộng mở và nhân ái. Cũng đã đến lúc phải ký thác vào sử sách những cách nói dẫn đến sự ngờ vực và khinh miệt đối với tôn giáo từ quá lâu nay, ở đây và ở những nơi khác, như thể nó là một sức mạnh gây bất ổn trong xã hội hiện đại. Những vùng đất này đều quá quen thuộc với di sản của chủ nghĩa vô thần do nhà nước áp đặt trong nhiều thập kỷ: tâm lý bị áp bức và đè nén mà chỉ cần nhắc đến từ “tôn giáo” là được chào đón bằng sự im lặng khó hiểu. Tôn giáo không phải là một vấn đề, nhưng là một phần của giải pháp cho một đời sống hòa hợp hơn trong xã hội. Việc theo đuổi tính siêu việt và giá trị thiêng liêng của tình huynh đệ có thể truyền cảm hứng và soi sáng các quyết định cần phải đưa ra trong bối cảnh những cuộc khủng hoảng địa chính trị, xã hội, kinh tế, sinh thái, nhưng về cơ bản nó là cuộc khủng hoảng tinh thần mà nhiều thể chế hiện đại, kể cả các nền dân chủ, đang trải qua, gây phương hại đến nền an ninh và sự hòa thuận giữa các dân tộc. Chúng ta cần tôn giáo, để đáp ứng cho lòng khát khao hòa bình cho thế giới và lòng khát khao sự vô cùng vốn có trong tâm hồn của mỗi con người.

Vì lý do này, một điều kiện nền tảng cho sự phát triển con người thực sự và toàn diện là tự do tôn giáo. Thưa anh chị em, chúng ta được tự do. Đấng Tạo Hóa của chúng ta đã “bước sang một bên vì chúng ta”; theo một cách rằng Ngài đã “giới hạn” sự tự do tuyệt đối của Ngài để cho phép chúng ta, những thụ tạo của Ngài, được tự do. Vậy làm sao chúng ta lại dám ép buộc anh chị em của mình nhân danh Người? Thi hào Abai một lần nữa nói với chúng ta: “Là những người tín hữu và thờ phượng, chúng ta không được tuyên bố rằng chúng ta có thể ép buộc người khác tin và thờ phượng” (Word 45). Quyền tự do tôn giáo là một quyền cơ bản, nguyên thủy và bất khả xâm phạm, cần được thúc đẩy ở mọi nơi, một quyền không thể bị giới hạn đơn thuần ở quyền tự do thờ phượng. Mỗi người có quyền đưa ra lời tuyên bố công khai đối với tín ngưỡng của riêng mình, đề xuất nó nhưng không bao giờ áp đặt nó. Đây là phương pháp rao giảng đúng đắn, trái ngược với việc chiêu mộ tín đồ và nhồi sọ, điều mà tất cả mọi người được kêu gọi phải gạt bỏ. Đẩy những niềm tin quan trọng nhất của chúng ta vào phạm vi riêng tư trong cuộc sống sẽ là tước đi một kho báu vô cùng to lớn của xã hội. Mặt khác, làm việc cho một xã hội mang đậm dấu ấn của sự chung sống tôn trọng giữa những sự khác biệt về tôn giáo, sắc tộc và văn hóa là cách tốt nhất để thăng tiến các nét riêng của mỗi người, gắn kết mọi người lại với nhau trong khi vẫn tôn trọng tính đa dạng của họ, và thúc đẩy những khát vọng cao thượng nhất của họ mà không làm ảnh hưởng đến sức sống của chúng. Theo đó, chúng ta nhìn thấy tầm quan trọng lâu dài của tôn giáo và tính thích đáng nó đối với thời đại của chúng ta, điều mà Kazakhstan đã làm nổi bật một cách ấn tượng trong hai thập kỷ qua với việc đăng cai tổ chức Đại hội toàn thế giới này. Cuộc gặp gỡ này mời gọi chúng ta suy ngẫm về vai trò mà chúng ta có trách nhiệm đóng góp trong sự phát triển tinh thần và xã hội của nhân loại trong thế giới hậu đại dịch này.

Đại dịch, giữa tính dễ bị tổn thương và trách nhiệm, đại diện cho thách đố đầu tiên trong bốn thách đố toàn cầu mà tôi muốn đặt ra. Những thách đố đó kêu gọi tất cả chúng ta – và đặc biệt là các tôn giáo – tiến đến sự hiệp nhất cao hơn về mục đích. Covid-19 đưa tất cả chúng ta vào cùng một con thuyền. Như thi hào Abai đã nói, chúng ta nhận ra rằng “chúng ta không phải là những siêu nhân mà chỉ là người phàm” (sđd). Tất cả chúng ta đều cảm thấy dễ bị tổn thương, tất cả chúng ta đều cần được giúp đỡ, không ai trong chúng ta hoàn toàn không bị phụ thuộc, không ai hoàn toàn độc lập. Nhưng hiện nay, chúng ta đang đứng trước thách đố không lãng phí ý thức đoàn kết mạnh mẽ mà chúng ta đã có kinh nghiệm bằng cách tiếp tục tiến bước như thể không có gì xảy ra, mà không thừa nhận rằng chúng ta phải cùng nhau đương đầu với những nhu cầu cấp thiết mà tất cả chúng ta quan tâm. Các tôn giáo không được thờ ơ trước điều này: tôn giáo được mời gọi có mặt trên tiền tuyến, với tư cách là những người thúc đẩy sự hiệp nhất giữa những thách thức to lớn có nguy cơ chia rẽ gia đình nhân loại nhiều hơn.

Cụ thể đối với chúng ta là những người tin Thượng Đế, chúng ta có trách nhiệm giúp anh chị em của chúng ta trong hiện tại không quên tính dễ bị tổn thương của chúng ta. Không rơi vào ảo tưởng về quyền năng vô hạn của sự tiến bộ kinh tế và công nghệ mà bản thân nó là không đủ. Không để mình bị trói buộc vào mạng lưới lợi nhuận và thu nhập, xem chúng như là giải pháp cho mọi sự dữ. Không ủng hộ sự phát triển thiếu bền vững không tôn trọng các giới hạn do tạo hóa đặt ra. Không để mình bị lôi kéo bởi sức quyến rũ bề ngoài của chủ nghĩa tiêu dùng, bởi vì của cải vật chất được tạo nên cho con người chứ không phải con người cho của cải vật chất. Nói tóm lại, ý thức về tính dễ bị tổn thương xuất hiện trong đại dịch sẽ thúc đẩy chúng ta tiến lên phía trước, không phải như trước đây, mà bây giờ với lòng khiêm nhường và tầm nhìn xa hơn.

Ngoài việc nhắc nhở chúng ta về tính dễ bị tổn thương và trách nhiệm của mình, người tín hữu trong thế giới hậu đại dịch được kêu gọi biết quan tâm: quan tâm đến nhân tình trong tất cả mọi khía cạnh bằng cách trở thành những nghệ nhân của sự hiệp thông, thành những chứng nhân của một sự hợp tác vượt qua các giới hạn của cộng đồng, sắc tộc, quốc gia và tôn giáo của chúng ta. Làm thế nào để chúng ta bắt tay vào một sứ mệnh đòi hỏi quá nhiều như vậy? Chúng ta bắt đầu từ đâu? Chúng ta bắt đầu bằng cách lắng nghe người nghèo, bằng cách lên tiếng nói cho những người không có tiếng nói, bằng cách làm chứng cho một tình liên đới toàn cầu mà trước hết là quan tâm đến họ, người nghèo và người túng thiếu, những người chịu đựng nhiều nhất từ ​​đại dịch, điều đã làm lộ ra tính bất công của sự bất bình đẳng và mất cân bằng toàn cầu. Không biết bao nhiêu người, ngay cả hôm nay, không được tiếp cận với vaccine! Chúng ta hãy đứng về phía họ, không đứng về phía những người có nhiều hơn và cho ít hơn. Chúng ta hãy trở thành những tiếng nói tiên tri và can đảm của lương tâm. Chúng ta hãy thể hiện mình là người thân cận với tất cả mọi người, nhưng đặc biệt đối với những người bị lãng quên nhất trong thời đại của chúng ta: những người không được thừa hưởng, người nghèo và người không được bảo vệ, và những người chịu đau khổ trong thầm lặng và bị khinh khi. Những gì tôi đề xuất không chỉ là một con đường dẫn đến sự quan tâm và đoàn kết hơn, mà còn là một con đường để chữa lành cho xã hội của chúng ta. Vì nghèo đói chính là thứ tạo điều kiện cho sự lây lan của dịch bệnh và các tệ nạn to lớn khác phát triển mạnh mẽ trên vùng đất của sự túng thiếu và bất bình đẳng. Nghèo đói tiếp tục là yếu tố rủi ro hàng đầu trong thời đại của chúng ta. Với sự khôn ngoan tuyệt vời, thi hào Abai đặt câu hỏi, “Những người đang đói có thể giữ cho đầu óc tỉnh táo … và thể hiện sự siêng năng trong học tập không? Nghèo đói và cãi vã… sinh ra bạo lực và tham lam” (Word 25). Chừng nào sự bất bình đẳng và bất công tiếp tục sinh sôi nảy nở, sẽ không có hồi kết đối với những loại virus thậm chí còn kinh khủng hơn cả Covid: đó là những loại virus của hận thù, bạo lực và khủng bố.

Điều này đưa chúng ta đến thách thức thứ hai trên toàn cầu, một thách thức có sự đòi hỏi đặc biệt đối với các tín hữu: thách thức về hòa bình. Trong những thập kỷ gần đây, đối thoại giữa các nhà lãnh đạo tôn giáo chủ yếu giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, chúng ta nhìn xung quanh mình và thấy thời đại của chúng ta vẫn còn bị bất an bởi tai họa của chiến tranh, bởi bầu khí thù địch và đối đầu, bởi sự bất lực không thể bước lùi lại và đưa tay ra với bên kia. Thưa anh chị em, cần phải có một bước nhảy vọt, và bước nhảy đó cần phải đến từ phía chúng ta. Nếu Đấng Tạo Hóa, là Đấng mà chúng ta dâng hiến đời mình cho Ngài, là tác giả của sự sống con người, thì làm sao chúng ta, những người xưng mình là người có niềm tin, lại có thể đồng thuận với việc hủy diệt sự sống đó? Và làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được rằng con người trong thời đại của chúng ta, trong đó nhiều người sống như thể Thiên Chúa không tồn tại, có thể được truyền cảm hứng để tham gia vào cuộc đối thoại đầy tôn trọng và có trách nhiệm nếu các tôn giáo lớn, vốn là linh hồn của rất nhiều nền văn hóa và truyền thống, lại không cam kết vì hòa bình cách tích cực?

Lưu tâm đến những điều sai trái và lỗi lầm của quá khứ, chúng ta cùng chung sức để bảo đảm rằng Đấng Toàn năng sẽ không bao giờ bị bắt làm con tin trước cơn khát quyền lực của con người. Thi hào Abai nhận xét rằng, “ai cho phép điều ác mà không chống lại nó thì không thể được coi là một tín đồ chân chính. Cùng lắm thì người đó chỉ là người tin nửa vời” (x. Word 38). Anh chị em thân mến, mỗi người trong chúng ta đều cần được thanh tẩy khỏi sự dữ. Nhà thơ vĩ đại người Kazakhstan nhấn mạnh về điều này; theo cách nói của ông, “ai từ bỏ học tập sẽ tự mình tước bỏ một phúc lành của nước trời”, và “một người không nghiêm túc trong đường lối của mình và không có lòng từ bi thì không thể được coi là một tín hữu” (Word 12). Vì vậy, thưa anh chị em, chúng ta hãy thanh lọc bản thân khỏi sự kiêu ngạo cho mình là công chính tự lực, không cần phải học hỏi bất cứ điều gì từ người khác. Chúng ta hãy tự giải thoát mình khỏi những quan điểm hẹp hòi và phá hoại xúc phạm danh Thượng Đế bằng sự hà khắc, chủ nghĩa cực đoan và các hình thức của chủ nghĩa chính thống, và báng bổ danh Người qua sự thù hận, cuồng tín và khủng bố, đồng thời làm xấu hình ảnh của con người. Như thi hào Abai nói, “cội nguồn của nhân loại là tình yêu và công bình… Chúng là vương miện của tạo vật của Chúa” (Word 45). Mong rằng chúng ta không bao giờ biện minh cho bạo lực. Mong rằng chúng ta không bao giờ cho phép sự thánh thiêng bị lợi dụng bởi những điều ô uế. Sự thánh thiêng không bao giờ được là chỗ dựa cho quyền lực, cũng như quyền lực không bao giờ là cột chống cho sự thánh!

Thiên Chúa là hòa bình. Ngài luôn hướng dẫn chúng ta theo con đường hòa bình, không bao giờ là con đường chiến tranh. Vì vậy, chúng ta phải cam kết mạnh mẽ hơn nữa để quyết tâm không giải quyết những xung đột bằng sức mạnh, bằng vũ khí và những đe dọa không dẫn đến kết quả, mà bằng phương tiện duy nhất được Chúa chúc phúc và xứng đáng với con người: gặp gỡ, đối thoại và kiên trì thương thảo, dẫn đến sự tiến triển, đặc biệt là khi chúng chú ý đến người trẻ và các thế hệ tương lai. Vì người trẻ mang trong mình hy vọng rằng hòa bình sẽ đến, không phải là kết quả mong manh của các cuộc đàm phán vô cùng khó khăn, mà là kết quả của cam kết bền bỉ đối với một nền giáo dục có thể hỗ trợ những khát vọng phát triển và một tương lai an bình. Theo ý nghĩa đó, nhà thơ Abai khuyến khích mở rộng việc học tập vượt ra ngoài giới hạn của nền văn hóa riêng của một đất nước, để nắm bắt kiến thức, lịch sử và văn học của những nước khác. Tôi xin các bạn, chúng ta hãy đầu tư vào việc này: đừng đầu tư để có nhiều vũ khí hơn, mà là giáo dục!

Ngoài những thách thức của đại dịch và hòa bình, bây giờ chúng ta hãy chuyển sang thách thức thứ ba, đó là sự chấp nhận huynh đệ. Ngày nay chúng ta cảm thấy thật khó để chấp nhận con người. Mỗi ngày, các trẻ em, đã chào đời và chưa chào đời, người di cư và người già, bị gạt bỏ sang một bên, bị vứt bỏ. Một văn hóa vứt bỏ đang tồn tại. Nhiều anh chị em của chúng ta hy sinh bị hiến tế trên bàn thờ của lợi nhuận, giữa những làn khói hương trầm của sự thờ ơ bất kính. Nhưng mỗi con người là thánh thiêng.

Người xưa nói: “Homo sacra res homini” (xem SENECA, Epistulae Morales ad Lucilium, 95, 33). Trên hết nhiệm vụ của chúng ta, nhiệm vụ của các tôn giáo, là nhắc nhở thế giới về điều này. Hiện nay, chúng ta chưa bao giờ chứng kiến những cuộc di tản khổng lồ của các dân tộc do chiến tranh, đói nghèo, biến đổi khí hậu và theo đuổi sự thịnh vượng mà thế giới toàn cầu hóa của chúng ta quảng cáo, nhưng thường rất khó đạt được. Một cuộc di tản vĩ đại đang diễn ra, khi người từ những khu vực nghèo đói nhất trên thế giới phải vật lộn để đến được những nơi thịnh vượng hơn. Chúng ta nhìn thấy điều này hàng ngày, trong các phong trào di cư khác nhau trên thế giới. Đây không chỉ là một mục trên bản tin hàng ngày; nó là một biến cố lịch sử đòi hỏi các giải pháp phù hợp và có tầm nhìn xa. Chắc chắn, chúng ta muốn bảo vệ những sự an toàn rất khó có được của chính mình và đóng chặt cửa vì sợ hãi; nghi ngờ những người lạ, cáo buộc và lên án họ thì dễ hơn là làm quen và thấu hiểu họ. Tuy nhiên, bổn phận của chúng ta phải luôn nhớ rằng Đấng Tạo Hóa, Đấng luôn trông chừng từng thụ tạo của Người, dạy chúng ta biết quan tâm đến người khác như Ngài, và nhìn thấy khuôn mặt của một người anh em, chị em nơi họ. Những người anh chị em di cư của chúng ta cần được chấp nhận, được đồng hành, thăng tiến và hội nhập.

Ngôn ngữ Kazakhstan mời gọi chúng ta có ánh mắt chào đón này: trong đó, động từ “yêu thương” theo nghĩa đen là “nhìn vào người khác cách tốt lành”. Văn hóa truyền thống của những vùng đất này có cùng quan điểm với một câu tục ngữ nổi tiếng: “Khi bạn gặp người khác, hãy cố gắng làm họ vui, vì đó có thể là lần cuối cùng bạn gặp được họ”. Thói quen hiếu khách đặc trưng của vùng thảo nguyên phản ánh giá trị bất khả xâm phạm của mỗi con người. Thi hào Abai tái khẳng định điều này bằng câu nói rằng, “con người cần phải là bạn của con người” và tình bạn đó dựa trên sự chia sẻ chung, vì những thực tại quan trọng nhất của cuộc sống và thế giới bên kia đều có điểm chung. Ông tiếp tục nói rằng, “tất cả mọi người đều là khách quý của nhau” và rằng, “chính con người là khách trong cuộc sống này” (Word 34). Chúng ta hãy khám phá lại nghệ thuật của sự hiếu khách, của sự chấp nhận, của lòng trắc ẩn. Và chúng ta cũng hãy học cách biết xấu hổ: vâng, để có được sự xấu hổ tốt lành đó sinh ra từ lòng trắc ẩn khi đứng trước những người đau khổ, sự cảm thông và quan tâm đến tình trạng và số phận của họ, điều mà chúng ta nhận ra rằng chúng ta cũng chung phần. Đây là con đường của lòng từ bi, làm cho chúng ta trở thành những con người tốt hơn và những tín hữu tốt hơn. Trách nhiệm của chúng ta không chỉ là khẳng định phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi con người, mà còn phải dạy cách khóc vì người khác. Vì chỉ khi chúng ta có thể cảm nhận được những khó khăn của người khác như của chính mình, thì chúng ta mới thực sự là con người.

Một thách thức toàn cầu cuối cùng mà chúng ta phải đối mặt là chăm sóc cho ngôi nhà chung của chúng ta. Để chống lại những biến đổi khí hậu cực đoan, chúng ta phải bảo vệ môi trường tự nhiên, để nó không trở thành miếng mồi cho sự trục lợi, nhưng được gìn giữ cho các thế hệ mai sau, để ngợi khen Đấng Tạo hóa. Theo lời của thi hào Abai, “Đấng Tạo hóa đã ban tặng cho chúng ta một thế giới thật tuyệt vời! Người hào phóng ban cho chúng ta ánh sáng của Người, khi mẹ đất nuôi dưỡng chúng ta từ bầu sữa, Cha chúng ta trên trời ân cần nghiêng mình trên chúng ta” (Bài thơ “Mùa xuân”). Với sự quan tâm đầy lòng yêu thương, Đấng Tối Cao đã ban một ngôi nhà chung cho mọi loài. Làm thế nào chúng ta, những người tự xưng là thuộc về Người, lại để cho ngôi nhà đó bị ô nhiễm, bị ngược đãi và bị tàn phá? Chúng ta hãy chung sức để giải quyết thách đố này. Thách đố này không phải là kém quan trọng nhất. Thật ra, nó được kết nối với thách thức đầu tiên đó là đại dịch. Những loại virus như Covid-19, mặc dù cực nhỏ nhưng có sức mạnh phá tan những ước mơ to lớn về sự tiến bộ của chúng ta, thường liên quan đến việc phá vỡ sự cân bằng đối với môi trường tự nhiên – phần lớn là do chính chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta hãy nghĩ đến nạn phá rừng, buôn bán bất hợp pháp các loài động vật sống và chăn nuôi thâm canh. Tư duy khai thác triệt để thực chất là hủy hoại ngôi nhà chúng ta đang sống. Và không chỉ có vậy. Nó đang dẫn đến sự mờ nhạt đối với tầm nhìn về tôn giáo và biết tôn trọng theo ý định của Đấng Tạo Hóa. Do đó, điều vô cùng cần thiết là phải khuyến khích và thúc đẩy việc bảo vệ sự sống dưới mọi hình thức của nó.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cùng nhau tiến lên, để cuộc hành trình của các tôn giáo ngày càng được ghi đậm dấu ấn của tình bằng hữu. Thi hào Abai nói rằng “một người bạn giả dối giống như một hình bóng: khi mặt trời chiếu rọi trên bạn, bạn không thể thoát khỏi anh ta, nhưng khi những đám mây đen tụ lại trên bạn thì sẽ không thấy anh ta đâu cả” (Word 37). Mong rằng điều này không bao giờ xảy ra với chúng ta! Cầu mong Đấng Toàn năng giải thoát chúng ta khỏi những bóng tối của sự nghi ngờ và giả dối, đồng thời cho phép chúng ta vun đắp tình bằng hữu cởi mở và huynh đệ thông qua việc thường xuyên đối thoại và sự chân thành minh bạch về mục đích. Ở đây, tôi xin bày tỏ sự đánh giá cao đối với những nỗ lực mà Kazakhstan đang thực hiện về vấn đề này: luôn tìm kiếm sự hiệp nhất, luôn tìm cách thúc đẩy đối thoại, luôn tìm kiếm con đường xây dựng tình bằng hữu. Đây là một tấm gương mà Kazakhstan đang đưa ra cho tất cả chúng ta và chúng ta phải đi theo con đường đó và ủng hộ nó. Ước mong chúng ta không bao giờ nhắm đến các hình thức chiết trung chủ nghĩa giả tạo, vì những hình thức này là vô ích, nhưng thay vào đó duy trì bản sắc riêng của mình, can đảm rộng mở trước sự khác biệt và gặp gỡ huynh đệ. Chỉ bằng cách này, theo con đường này thì chúng ta mới có thể tỏa rạng ánh sáng của Đấng Tạo Hóa trong những thời kỳ tăm tối mà chúng ta đang sống. Xin cảm ơn tất cả anh chị em!


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 17/9/2022]


Tòa thánh và Kazakhstan ký Thỏa thuận về Chăm sóc Mục vụ cho Người Công giáo

Tòa thánh và Kazakhstan ký Thỏa thuận về Chăm sóc Mục vụ cho Người Công giáo

Cấp thị thực và giấy phép cư trú cho các nhân viên của giáo hội và dòng tu

Tòa thánh và Kazakhstan đã ký Thỏa thuận về Chăm sóc Mục vụ cho Người Công giáo

© Vatican Media



Thông cáo báo chí của Tòa thánh

Hôm nay, Thứ Tư, ngày 14 tháng Chín năm 2022, tại trụ sở Bộ Ngoại giao ở thủ đô Nur-Sultan, một Thỏa thuận đã được ký kết giữa Tòa thánh và nước Cộng hòa Kazakhstan.

Ký tên phía Tòa Thánh là Đức ông Paul Richard Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh, và phía Cộng hòa Kazakhstan là ông Mukhtar Tileuberdi, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

Thỏa thuận mới nhằm triển khai rộng rãi hơn cho Điều khoản 2 của Thỏa thuận Song phương năm 1998, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cấp thị thực và giấy phép cư trú cho các nhân viên của giáo hội và dòng tu đến từ nước ngoài và tham gia vào việc chăm sóc mục vụ cho các tín hữu Công giáo ở Kazakhstan. Bản soạn thảo gồm một Lời mở đầu và tám đoạn, tài liệu này củng cố hơn nữa mối quan hệ hữu nghị và hợp tác đã có giữa hai bên.

Thỏa thuận sẽ có hiệu lực sau khi trao đổi các văn kiện phê chuẩn.


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 18/9/2022]