Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2020

Đức Thánh Cha công nhận phép lạ qua sự chuyển cầu của Cha Charles de Foucauld

Đức Thánh Cha công nhận phép lạ qua sự chuyển cầu của Cha Charles de Foucauld
Copyright: Vatican Media

Đức Thánh Cha công nhận phép lạ qua sự chuyển cầu của Cha Charles de Foucauld

Sự sống sót không thể giải thích được của một người công nhân sau cú ngã

28 tháng Năm, 2020 14:34

Vatican đã công nhận phép lạ thứ hai qua sự chuyển cầu của Chân phước Phanxico Charles de Foucauld (Charles của Chúa Giêsu) (1858-1916), linh mục triều, từ đó mở con đường tuyên phong thánh cho ngài.

Tin nhận được từ Bộ Phong Thánh, ngày 26 tháng Năm năm 2020, Giáo hội Công giáo công nhận năm phép lạ, bảy vị tử đạo và “các dũng đức” của một tín hữu: thật vậy Đức Thánh Cha Phanxico đã cho phép Bộ Phong Thánh công bố tám Sắc lệnh ngày hôm đó.

Một phép lạ thứ hai, qua sự chuyển cầu của Chân phước Charles de Foucauld xảy ra năm 2016 — kỷ niệm 100 năm ngày mất của Cha Charles de Foucauld — tại Saumur, thuộc miền Loire của Pháp. Đó là sự sống sót không thể giải thích được của một công nhân đang làm việc trên gác xép của nhà nguyện, ở “phía trên vòm” rơi xuống một số vật chướng ngại; các tảng đá đổ xuống, anh ta bị một số cọc gỗ đâm qua người, nhưng anh ta đứng dậy bình an và khỏe mạnh, theo lời kể của Cha Vincent Artarit, linh mục giáo xứ Charles de Foucauld ở Saumur trên micrô với RCF. “người công nhân bình an vô sự; anh ta được kiểm tra bởi các bác sĩ ở Pháp và Ý. Tất cả họ đều kết luận về biến cố không thể giải thích được đối với mạng sống của người đàn ông này … Trong giáo xứ Charles de Foucauld, nó là biến cố liên kết đến kỷ niệm 100 ngày giỗ, với mối liên kết giữa cầu nguyện, đời sống tinh thần, và sự liên kết giữa giáo xứ và Cha Charles de Foucauld.”

Cha Charles de Foucauld sinh tại Strasbourg ngày 15 tháng Chín năm 1858. Ngài mồ côi lúc lên 5 tuổi, ghi chú tiểu sử được Đức ông Claude Rault, Giám mục Laghouat, ở Algeria, phát hành.

Đức ông Rault viết, “Ngay lập tức ngài bắt đầu cuộc đời vừa vui tươi vừa đau khổ. Trong thời gian học trung học phổ thông ngài mất đức tin, đổi lấy sự đam mê học đòi một đời sống thoải mái và những người bạn vui vẻ. Say mê một người bạn, ngài không chịu chia tay với cô ta khi ngài được gửi sang Algeria, và ngài đã rời bỏ quân ngũ. Tuy nhiên, khi biết rằng trung đoàn của ngài chuẩn bị cuộc hành quân, ngài đã chia tay bạn gái và trở về Algeria! Đó là năm 1881.”

Năm 24 tuổi, Charles de Foucauld dứt khoát rời quân ngũ. Giữa năm 1882 và 1884 ngài đi thám hiểm Marốc. Trong thời gian ở đó, ngài trải qua những kinh nghiệm thiêng liêng quan trọng. “Người Hồi giáo là lý do tạo sự thay đổi sâu sắc trong tôi. Hình ảnh của tôn giáo đó, của những con người sống trong sự hiện hữu liên tục của Thượng đế làm cho tôi nhận thức có điều gì đó lớn lao hơn và thật sự hơn những công việc thế gian của tôi,” ngài viết.

Cuối tháng Mười năm 1886, ngài gặp Đức Viện phụ Huvelin ở Paris. Ngài xưng tội và rước lễ. Đó là sự khởi đầu cho một đời sống mới.

Sau bảy năm tìm kiếm đời sống chiêm niệm (ở Đất thánh, là một đan sĩ dòng Trappist ở Pháp và sau đó ở Syria. Ngài rời bỏ đời sống đan viện và đến Nadarét, tại dòng Thánh Clare Hèn mọn (1897): Khi ở đó, ngài phân chia thời gian giữa công việc lao động, nhiều giờ Tôn thờ và suy niệm Sách thánh. Ơn gọi của ngài phát triển ở đó.

Ngài được truyền chức linh mục ngày 9 tháng Sáu năm 1901 tại Giáo phận Viviers. Ngài xin được trở lại Sa mạc Sahara và đến Beni Abbes ở Algeria, và ngài ở đó hai năm. “Tôi muốn tất cả các cư dân ở đó quen thuộc với tôi và xem tôi như người anh em của họ, một người anh em phổ quát,” ngài viết.

Đức ông Rault viết, “Qua những bóng tối và ánh sáng, Cha Charles de Foucauld đã mở ra cho chúng ta ý thức về tình huynh đệ phổ quát. Chiều kích đời sống rao giảng phúc âm này là vô cùng cần thiết trong thời đại của chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta hãy thoát ra khỏi sự yếu đuối và những giam hãm của bản thân để bước đi trên con đường đã được vạch ra.”

Tháng Tám năm 1905 Cha Charles xác định bản thân ở Tamanrasset, thuộc miền nam Algeria. Ở đó ngài sống “một đời sống bao gồm việc cầu nguyện, nghiên cứu, tiếp xúc với người Tuaregs và có một mối quan hệ gây tranh cãi với các binh sĩ Pháp đóng trong vùng.” Ngài sáng tác những bài thơ tiếng Touareg (6000 câu thơ được ghi chép và giải mã), và để lại một bộ từ điển tiếng Touareg gồm 4 quyển, và “vẫn còn hiệu lực.”

Ngày 1 tháng Mười Hai năm 1916 ngài bị bắt làm tù nhân bởi một nhóm chiến binh Senoussite, ngài bị giết bởi một người thanh niên canh giữ ngài, do bị hoảng loạn.

Đức Giáo hoàng Benedict XVI phong chân phước cho ngài ngài 13 tháng Mười Một năm 2005. Vào tháng Mười năm 2005 ngài nói: “Tôi xin gửi lời chào đặc biệt đến các thành viên của Tổng Công hội Dòng Tiểu muội Chúa Giêsu, được kêu gọi để theo đuổi việc loan báo Tin mừng theo tinh thần của Tu huynh Charles de Foucauld, là người sẽ sớm được tuyên phong chân phước. Ước mong ngài là một mẫu gương cho sự phó thác thiêng liêng trọn vẹn trong tay Chúa đối với tất cả các Dòng tu được khai sinh từ trực giác của ngài và cho tất cả mọi người Kitô hữu.”

Ngày 13 tháng Mười Một năm 2005 ngài nói, về vị tân Chân phước: “Cha Charles de Foucauld, người vừa được tuyên phong chân phước, mời gọi chúng ta noi theo tinh thần con đường Nadarét và sự thinh lặng ngài đã sống trong sa mạc. Thật vậy, chính từ đó, cùng với Mẹ Maria, mà chúng ta có thể khám phá mầu nhiệm của Đức Kitô, Đấng tự hạ mình khiêm nhường trở thành một người nghèo khó để giải thoát chúng ta, để làm cho chúng ta trở thành con cái của một Cha chung và là anh em của nhau. Như Tu huynh Charles, chúng ta hãy đi vào mầu nhiệm Thánh Thể và trong sự chiêm niệm sức mạnh cho sự sống và cho chứng tá mà qua đó chúng ta góp phần vào việc rao giảng phúc âm.”



[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 29/5/2020]


Đức Thánh Cha Phanxico trên Twitter từ 22-24/05/2020

Đức Thánh Cha Phanxico trên Twitter từ 22-24/05/2020

Đức Thánh Cha Phanxico trên Twitter từ 22-24/05/2020


22 tháng Năm: Mỗi năm lại chứng kiến sự biến mất của hàng ngàn chủng loài thực vật và động vật mà chúng ta sẽ không bao giờ biết, và con cái chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy. Bởi vì chúng ta mà hàng ngàn chủng loài sẽ không còn ca khen vinh quang của Thiên Chúa qua sự hiện diện của chúng. Chúng ta không có quyền như vậy. #Biodiversity #LaudatoSi5

23 tháng Năm: Những người nam và nữ #cầu nguyện bảo vệ những sự thật nền tảng. Họ lặp lại cho mọi người rằng sự sống này, bất kể tất cả những ngày gian khổ, thử thách, và khó khăn, vẫn đầy tràn ân sủng luôn làm chúng ta kinh ngạc. Vì vậy sự sống phải luôn luôn được giữ gìn và bảo vệ.

23 tháng Năm: Chăm sóc thiên nhiên là một phần của lối sống bao gồm khả năng sống chung và hiệp nhất. Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng chúng ta có Thiên Chúa là Cha chung và do đó chúng ta là anh chị em với nhau. #LaudatoSi5

24 tháng Năm: Sinh thái toàn diện bao gồm việc dành thời gian để khám phá sự hòa hợp thanh bình với tạo vật, phản ánh qua lối sống và những lý tưởng của chúng ta, và chiêm ngưỡng Đấng Tạo dựng là Đấng sống giữa chúng ta. #LaudatoSi5

24 tháng Năm: Sự hiểu biết về Thiên Chúa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu qua cách kể chuyện rằng Ngài vẫn luôn tiếp tục hiện diện. Thiên Chúa của sự sống giao tiếp với chúng ta qua câu chuyện sự sống.

24 tháng Năm: Lễ #Chúa Lên trời kể cho chúng ta rằng Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang và vẫn luôn ở giữa chúng ta. Đây là nguồn mạch sức mạnh, sự kiên trì và niềm vui.

24 tháng Năm: Chúng ta hãy dâng những anh chị em người Công giáo Trung quốc cho sự dẫn dắt và bảo vệ của Mẹ Thiên Quốc, để họ được kiên vững trong đức tin và vững vàng trong tình hiệp nhất huynh đệ, là những chứng nhân niềm vui, và là những người thúc đẩy bác ái và hy vọng.

24 tháng Năm: Chúng ta hãy dâng lên Mẹ Maria hằng cứu giúp người Kitô hữu trong thời gian khó khăn này tất cả những người hoạt động cho hòa bình, cho sự đối thoại giữa các dân tộc, cho sự phục vụ người nghèo, cho việc chăm sóc tạo vật, và cho sự chiến thắng của con người đối với bệnh tật về thân xác, tâm hồn và linh hồn.

24 tháng Năm: Thiên Chúa tình yêu, cho chúng ta thấy vị trí của chúng ta trong thế giới này như là những kênh chuyển tải tình yêu của Người cho tất cả mọi thụ tạo trên trái đất, để không một loài nào bị lãng quên trước mặt Người. Ngợi khen Người! #LaudatoSi5




[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 25/5/2020]


Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2020

Câu chuyện thú vị về Đền thờ Thánh Mẫu Quốc gia và Đức Bà Grotto Mellieħa, ở Malta

Câu chuyện thú vị về Đền thờ Thánh Mẫu Quốc gia và Đức Bà Grotto Mellieħa, ở Malta

Câu chuyện thú vị về Đền thờ Thánh Mẫu Quốc gia và Đức Bà Grotto Mellieħa, ở Malta
Courtesy of Malta Tourism Authority

25 tháng Năm, 2020

Một trong những truyền thống lâu đời nhất là Thánh Luca đã vẽ bức bích họa trên tường này trong thời gian ngài lưu trú ở Malta, khoảng năm 60 sau Chúa Giáng sinh.

Thông tin được sưu tầm bởi Jean Pierre Fava, từ Malta Tourism Authority.

Trong bài viết trước, tôi đã đề cập đến Đền thờ Thánh Mẫu Mellieha Quốc gia và linh ảnh Mẹ cổ xưa của nó. Hôm nay tôi sẽ chia sẻ thêm những chi tiết về Đức Mẹ và Chúa Con. Chúng ta sẽ có một cái nhìn sơ lược về lịch sử hàng thiên niên kỷ của nó, không còn nghi ngờ gì về lòng sùng kính Mẹ Maria ở Malta đã có từ lúc khởi đầu của Kỷ nguyên Kitô giáo. Đức Bà Mellieħa có lịch sử rất dài bao trùm trong sự huyền nhiệm và truyền thống. Một truyền thống lâu đời nhất nói rằng người bạn đồng hành của Thánh Phaolô, Tác giả Tin mừng Luca, đã vẽ bức bích họa trên tường trong thời gian ngài lưu trú ở Malta khoảng năm 60 sau Chúa Giáng sinh. Một truyền thống khác khẳng định điều này và thuật lại rằng năm 409 sau Chúa Giáng sinh, một nhóm các Giám mục Công giáo đến viếng Đền Grotto linh thiêng và và thánh hiến nó như một Nhà thờ. Tuy nhiên, Linh ảnh hiện nay có nguồn gốc Siculo-Byzantine. Có thể nó được vẽ trong khoảng thế kỷ 13. Trong những thế kỷ sau đó lòng sùng kính Linh ảnh gia tăng mạnh mẽ.

Người hành hương từ mọi miền đất Kitô giáo thuộc Địa Trung hải và từ mọi hành trình cuộc sống đến để cầu nguyện tại Thánh địa nơi sinh của Đức Nữ Đồng trinh Diễm phúc. Đến đây họ xin những ơn đặc biệt, đôi khi là phép lạ, qua sự chuyển cầu của Đức Mẹ, như chứng tá được thể hiện qua nhiều bia tạ ơn đặt trong phòng áo.

Trong chuyến Tông du 30 năm trước, thậm chí chính Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến sùng kính cầu nguyện trước Mẹ Maria và Chúa Con. Đúng vậy, ngày này 30 năm về trước, vào ngày 26 tháng Năm năm 1990, vị Thánh nhân vĩ đại này đã đến thăm Malta và Đền thờ Thánh Mẫu Mellieħa dấu yêu! Một điều tuyệt diệu khác nữa là hôm thứ Hai ngày 18 tháng Năm, chỉ cách đây vài ngày, là kỷ niệm sinh nhật thứ 100 của ngài! Khi ngài đến thăm Malta ngài vừa bước sang tuổi 70.

Câu chuyện thú vị về Đền thờ Thánh Mẫu Quốc gia và Đức Bà Grotto Mellieħa, ở Malta

Ảnh của Tổng giáo phận Malta, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thành kính cầu nguyện trước Đức Mẹ và Chúa Con - 26 tháng Năm năm 1990.

Nội dung của bức tranh phản ánh điều xác quyết của Công đồng Êphêxô (năm 431 sau Chúa Giáng sinh) về Mẹ Maria như là Theotokos (người ẵm Chúa). Mẹ ẵm Chúa Giêsu trong vòng tay của Mẹ. Truyền thống về Thánh Luca là họa sĩ dựa trên một truyền thống khác nói rằng Thánh sử đã vẽ Mẹ Maria ở Giêrusalem là bức ảnh được đem đến Constantinople trong thế kỷ thứ 5. Bức tranh này được sao chép rộng rãi và nó trở thành một trong những ảnh phổ biến nhất về Đức Mẹ. Tuy nhiên một truyền thống khác lại đồng nhất bức vẽ của Thánh Luca với bức Salus Populi Romani ở Santa Maria Maggiore. Bắt đầu năm 2013, một dự án bảo tồn và phục chế mới đây đã thấy nó bị hư hỏng nặng do độ ẩm dưới lòng đất và môi trường không thân thiện. Phục vụ như một Thánh địa trong nhiều thế kỷ gây thiệt hại cho tất cả các tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, sự chăm sóc rất khó khăn và tỷ mỷ và công việc phục hồi chuyên nghiệp đã đem lại cho chúng ta gia tài vô giá này.

Nhờ các tác phẩm này, những bí mật đáng kinh ngạc của Linh Ảnh được đưa ra ánh sáng – dòng chữ bên trái và bên phải, MAT DEI, là chữ viết tắt của ‘Mẹ Thiên Chúa; một bông hoa hoặc ngôi sao trên trán của Đức Maria tượng trưng cho sự đồng trinh trọn đời của Mẹ. Những nét thú vị khác đó là chi tiết của hai vầng hào quang, như ngọc trai, ánh sáng tỏa rạng; những vệt màu tối trên vầng hào quang của Chúa Hài đồng khi kết nối tạo thành hình thập giá bên trong nó. Biểu tượng này được tìm thấy trong nhiều ảnh Đức Kitô theo kiểu Byzantine. Màu sắc ban đầu của khăn trùm đầu Đức Mẹ có màu đỏ đậm — màu của uy quyền, trên thực tế được gọi là ‘Màu tím quyền uy,’ biểu tượng của Hoàng gia. Nó là truyền thống tiêu biểu của Byzantine, Mẹ Maria trong toàn bộ sự cao quý của Mẹ. Tác phẩm phục hồi cho thấy rằng người họa sĩ muốn gửi một thông điệp về Đức Trinh nữ Hodegetria (Mẹ là người chỉ đường). Mẹ ngụ ý rằng Chúa Con là con đường dẫn đến ơn cứu độ.

Câu chuyện thú vị về Đền thờ Thánh Mẫu Quốc gia và Đức Bà Grotto Mellieħa, ở Malta

Courtesy of Valentina Lupo and Maria Grazia Zenzani - Atelier del RestauroIcon of Our Lady of Mellieħa after restoration interventions.

Đoạn mô tả sau đây tổng hợp một loạt các sự kiện và diễn biến mà Đền Grotto và bức họa đã trải qua, nó cũng làm sáng tỏ cách thức mà Linh Ảnh  phải chịu những thay đổi lớn qua thời gian do các cuộc tấn công lùng sục, điều kiện môi trường không thuận lợi và các can thiệp phục hồi được cho là để bù đắp cho những mất mát trong bức hình. Tôi cảm thấy rằng Valentina Lupo và Maria Grazia Zenzani, những người đã phục chế Linh Ảnh  cho hậu thế, xứng đáng với lòng biết ơn của chúng ta.

Ba chuyến thăm mục vụ quan trọng đến Thánh địa Mellieħa là: Đức Giám mục Senatore De Mello vào năm 1436, khi nó được phân định là một trong mười giáo xứ của Malta; Đức Giám mục Dusina vào năm 1575; và Đức cha Tommaso Gargallo vào năm 1587, khi đó ngài thấy rằng Linh Ảnh  bị hư hỏng nặng. Ngài quyết định chỉ định cho các tu sĩ Augustine phủ lên trên nó bằng một Linh Ảnh mới. Tuy nhiên, vào năm 1600, giáo xứ đã bị đàn áp do các cuộc tấn công thường xuyên của cướp biển Hồi giáo. Trên thực tế, vào năm 1614, Thánh địa bị phá hoại nặng nề trong một cuộc đột kích như vậy của những tay cướp biển Barbary. Phần dưới của bức tranh bị hư hại nghiêm trọng. Trước năm 1644, những người sùng kính Đức Trinh Nữ đã tài trợ cho việc phục chế Linh Ảnh  và phủ nó bằng một lớp Riza bạc, để lộ rõ khuôn mặt của Đức Mẹ và Chúa Con. Bất chấp nguy hiểm và khó khăn liên quan đến việc viếng thánh địa trong những thời điểm khó khăn đó, lòng sùng kính Đức Mẹ không bao giờ dừng lại, và thực tế những chuyến hành hương và khách hành hương thường xuyên đến viếng và xin Đức Mẹ bảo vệ ngay cả trong những thời gian khủng hoảng của đất nước, chẳng hạn trong những lúc có bệnh truyền nhiễm lây lan, nguy cơ bị xâm lược và hạn hán với chứng tá là khải hoàn môn được xây dựng năm 1719 tại đường dẫn vào sân thánh địa. Năm 1882, Thánh địa được Hồng y Charles Lavigerie đến viếng. Các hồ sơ ghi lại rằng Đức Hồng y thấy Linh Ảnh ở trong tình trạng rất kém, màu sắc bị phai và không thể nhận ra các khuôn mặt. Vào năm 1899, người ta quyết định phủ lên trên bức bích họa trên tường bằng một bức ảnh Đức Mẹ vẽ trên vải. Bức ảnh này được thực hiện bởi nghệ sĩ Favray thuộc thế kỷ 18. Năm 1972, trong quá trình phục chế các tác phẩm trên trần Thánh địa, Samuel Bugeja, là họa sĩ và nhà phục chế, cảm nhận bằng trực giác rằng có thể có một bức ảnh khác đằng sau Linh Ảnh. Ông xin Đức Tổng Giám mục Michael Gonzi cho phép tháo bỏ lớp thạch cao. Nhờ cái nhìn sâu sắc của Bugeja, một trong số những hình ảnh chồng lên nhau của Đức Mẹ đã được phát hiện. Điều này mở đường cho việc phát hiện ra Linh Ảnh gốc trong lần phục chế năm 2013 để ngày nay một lần nữa ảnh được khôi phục lại cho hậu thế. Nó được đưa ra ánh sáng sau khi bị chôn giấu 400 năm.

Hiện tại, Đền Linh Ảnh là một trong hai mươi Đền thờ Thánh Mẫu quốc gia tạo thành Mạng lưới Thánh Mẫu Châu Âu. Ngoài ra, Đền Thánh mẫu Mellieħa là một thành viên của Hiệp hội Maria Mẹ Châu Âu. Vào năm 2015, Hội đồng Giám mục Malta thiết lập thành Đền thờ Đức Mẹ Quốc gia cho giáo phận Malta.

Câu chuyện thú vị về Đền thờ Thánh Mẫu Quốc gia và Đức Bà Grotto Mellieħa, ở Malta

Courtesy of the Archdiocese of Malta - church.mt/photos The Archbishop of Malta His Excellency Mgr. Charles Jude Scicluna celebrating Holy Mass at the National Marian Shrine during which he consecrated newly ordained priests to Our Lady - The Icon of the Madonna can be seen in the background.

Đền Thánh Mẫu Grotto của Mellieħa 

Hang Grotto dưới lòng đất tôn kính Thánh Mẫu tạo thành một phần của khu phức hợp Thánh địa Đức Mẹ Mellieħa, và gồm có một nhà nguyện được đẽo vào lớp đá vôi cứng, màu nâu – giấc mơ biến thành sự thật của một người đàn ông, người Sicilia sùng kính Đức Mẹ và là người khách thường xuyên đến viếng Thánh địa Thánh Mẫu Mellieħa. Để thực hiện ước nguyện cả đời của mình, sau đó ông đã dựng một bức tượng Đức Mẹ màu trắng ẵm Chúa Hài nhi trên cánh tay trái ở cuối Nhà nguyện.

Mario de Vasi, một nhà buôn rượu vang từ Catania thường đến thăm Đảo của chúng tôi vì công việc của ông. Ông là một người sùng mộ nhiệt thành của Thánh địa, đến nỗi ông muốn xây một Đền thờ nhỏ khác để tôn vinh Mẹ trên cùng một địa điểm. Thật vậy, nó nằm đối diện Nhà thờ Đức Bà chiến thắng ở phía bên kia đường chính, liền kề với Thánh địa Thánh Mẫu Mellieħa. Năm 1644, de Vasi đã chi trả để cho người đục một phòng thánh nhỏ vào trong khối đá đằng sau Linh Ảnh của Thánh địa. Có người cho rằng ông cũng trả tiền để vẽ bức ảnh mới, hoặc trả tiền cho việc phục chế bức bích họa trên trần, thể hiện Thiên Chúa Cha cùng với một số giám mục chung quanh, là những vị theo truyền thống đã thánh hiến Giáo hội trong thế kỷ thứ 5 sau Chúa Giáng sinh.

Câu chuyện thú vị về Đền thờ Thánh Mẫu Quốc gia và Đức Bà Grotto Mellieħa, ở Malta

AlamyStatue of Our Lady in the subterranean grotto.

Chứng thư để lại cho chúng ta thấy chi tiết của một hợp đồng được ký vào Chúa nhật, ngày 21 tháng Hai năm 1644 giữa de Vasi và hai thợ xây đá bậc thầy, là những người phải thực hiện nhiều công việc khác nhau kể cả việc tiến vào hầm mộ gần Thánh địa. Phong cách, những kích thước và số lượng các bậc thang được viết chi tiết. Nhà nguyện được đục vào đá như thỏa thuận. Các phòng trưng bày dưới lòng đất cũng được đào để tìm dòng chảy của nước, sau đó uốn dòng lại để nước chảy dưới chân tượng Đức Mẹ. Chẳng bao lâu sau nó được gọi là Đền Thánh Mẫu Grotto giữa các cộng đồng nông dân rải rác canh tác tại những thung lũng màu mỡ. Ngày Chúa nhật 6 tháng Bảy năm 1617, các cộng đồng nông nghiệp trở thành nạn nhân của những cuộc tấn công cướp bóc của cướp biển Bắc Phi. Các kẻ tấn công người Hồi giáo lùng sục chiến lợi phẩm. Chúng cũng tấn công Thánh địa. Bất chấp sự kháng cự dũng cảm của cha sở được hỗ trợ bởi một số nông dân, Thánh địa Linh Ảnh bị thiệt hại nghiêm trọng. Ba bức tượng bằng đá, hai tượng Đức Mẹ và một tượng Thánh Giuse bị chặt đầu và bị bỏ trong hầm mộ như những lời nhắc nhớ về một cuộc tấn công tàn khốc.

Những nơi thờ phượng cổ xưa ở Malta và những nơi khác nằm rải rác trên vùng đất Kitô giáo thuộc Địa Trung Hải có lai lịch được tô điểm bởi nhiều truyền thuyết khác nhau. Nhà nguyện Grotto cũng không ngoại lệ. Ở đây chúng tôi có thời gian để nhắc đến ba truyền thuyết phổ biến. Đầu tiên là ở dạng câu đố, yêu cầu khách đến viếng đếm các bậc thang khi họ đi xuống, và sau đó đếm lại khi đi lên. Họ nói những con số tổng của bạn sẽ không bao giờ khớp nhau. Các bậc thang được xây dựng theo cách buộc bạn phải thận trọng. Nếu một ngày nào đó bạn ghé thăm Đền, hãy cố gắng giải câu đố này! Một truyền thuyết khác kể rằng: ‘Bức tượng Đức Mẹ với Chúa Giêsu bằng đá trắng được đưa lên Thánh địa ba lần, và mỗi lần người ta lại tìm thấy tượng trở về vị trí ban đầu trong hang Grotto.’ Họ không bao giờ di chuyển bức tượng nữa. Truyền thuyết thứ ba liên quan đến việc, ‘Vì lý do nào đó, một số phụ nữ trẻ đi dạo trong phòng trưng bày nước suối và họ biến mất không dấu vết. Tuy nhiên, có một điều là chắc chắn. ‘Qua những năm tháng, hàng ngàn người hành hương đã đến viếng Đền thờ dưới lòng đất và cầu nguyện với Đức Mẹ, cho rằng Mẹ đã thực hiện nhiều sự can thiệp và chữa lành kỳ diệu, cả về tâm linh và thế gian.’ Đáng chú ý là các sự kiện được ghi lại vào năm 1887, 1888 và 1948. Nhiều nhóm người khác nhau vào các ngày và thời gian khác nhau tập trung để cầu nguyện và chú ý thấy tượng Đức Mẹ trắng liên tục di chuyển bàn tay phải của Mẹ, làm Dấu Thánh giá. Trong Văn khố của Thánh địa có 13 tài liệu riêng biệt ghi lại những sự kiện này. Tất cả đều có mô tả rất chi tiết về mỗi lần xuất hiện và được ký có tuyên thệ bởi tất cả những người có mặt. Sự kiện đầu tiên xảy ra vào ngày 2 tháng Tám năm 1887, khi Thượng sĩ Vittorio Gauci tuyên bố rằng Đức Mẹ chuyển động cánh tay lên xuống vào ba thời điểm khác nhau trong cùng một ngày. Điều tương tự xảy ra đã được nhìn thấy vào ngày 13 tháng Tám bởi 10 người khác nhau, trong đó có linh mục xứ Mellieħa là Cha Franscesco Magri. Những sự kiện khác tương tự đã được chứng kiến và tuyên bố của các linh mục và giáo dân. Chúng lan nhanh như lửa trên khắp Đảo, và ngày 20 tháng Mười Một năm 1887, Đức cha Fra Antonio Buhagiar cùng với các Giáo sĩ và rất nhiều người hành hương đến viếng Đền Grotto và hát Te Deum.

Trong một lần viếng Đền Đức Bà Grotto ngày 20 tháng Ba năm 1893, Cha John M’hale dòng Tên, và một tu sĩ Dòng Tên khác đã đưa năm mươi thiếu niên trong một chuyến đi đến Mellieħa, đã nhìn thấy: ‘... tay phải của Đức Mẹ chuyển động chậm chậm. Rồi Hài nhi Giêsu cũng thực hiện các động tác tương tự. Các Ngài chúc phúc cho toàn bộ nhóm bằng cách làm Dấu Thánh Giá. Đầu Chúa Giêsu chuyển động một cách đáng yêu trong khi biểu cảm trên khuôn mặt là niềm hạnh phúc.’ Cha M’hale khẳng định tất cả điều này trong một bài viết dài, chi tiết, và tất cả đều công nhận các cử động kéo dài khoảng 30 phút. Lần gần đây nhất xảy ra điều tương tự được tường thuật sau Đệ Nhị Thế chiến, vào năm 1948. Một nhóm gồm 10 người tuyên bố có tuyên thệ rằng họ đã chứng kiến Đức Nữ trắng của Nhà nguyện chuyển động bàn tay phải của Mẹ. Những điều kỳ diệu đã xảy ra trong Đền Grotto khiêm tốn không được chôn giấu ở đó. Chúng phải được trân quý trong lòng chúng ta. Hàng ngàn người hành hương thường xuyên viếng Đền Grotto và cầu nguyện ở đó, tất cả đều bày tỏ sự mãn nguyện tinh thần. Bất chấp những khó khăn khi xuống Hầm, họ vẫn đến, mang theo những tấm bia tạ ơn, lễ vật, nến, của dâng cúng và những lá thư. Họ bày tỏ lòng tôn kính với Đức Mẹ yêu dấu của chúng ta, Theotokos, Mẹ Thiên Chúa.

Tham khảo:


The Icon of Our Lady of Mellieha: A Journey through the multi-disciplinary conservation project, Valentina Lupo and Maria Grazia Zenzani (Aletier del Restauro Ltd.). Treasures of Malta No. 67 Christmas 2016, Volume 23, Issue 1.




[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/5/2020]


Đức Thánh Cha Phanxico trên Twitter từ 19-21/05/2020

Đức Thánh Cha Phanxico trên Twitter từ 19-21/05/2020

Đức Thánh Cha Phanxico trên Twitter từ 19-21/05/2020


19 tháng Năm: Nếu chúng ta trong sáng trước mặt Chúa như pha lê thì ánh sáng của Người – ánh sáng của lòng thương xót – sẽ chiếu soi trong chúng ta, và qua chúng ta chiếu tỏa vào thế giới.

19 tháng Năm: Khi chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa phản ánh trong mọi sự tồn tại, tâm hồn chúng ta sẽ rung động để ca khen Thiên Chúa vì tất cả những thụ tạo của Người và cùng hiệp nhất với chúng để tôn thờ Người. #LaudatoSi5

20 tháng Năm: Nếu những biến cố cuộc đời – với tất cả những đắng cay của nó – có nguy cơ bóp nghẹt ơn #cầu nguyện trong chúng ta, chỉ cần chiêm ngắm một bầu trời đầy sao, một buổi hoàng hôn, một bông hoa, để khơi lên tia sáng tạ ơn. #GeneralAudience

20 tháng Năm: Nhân vị càng phát triển thì càng trưởng thành hơn, và được thánh hóa hơn đến mức độ người đó đi vào những mối tương quan, thoát ra khỏi bản ngã của mình để sống trong sự kết hiệp với Thiên Chúa, với tha nhân và với tất cả các tạo vật. #LaudatoSi5

21 tháng Năm: Sự sống này là ân huệ mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta. Nó quá ngắn ngủi để sống trong sầu buồn. Chúng ta hãy ngợi khen Thiên Chúa, đơn sơ hài lòng với cuộc sống. Chúng ta là con cái của Đức Vua vĩ đại, có khả năng đọc được dấu ấn của Người trong mọi tạo vật. #LaudatoSi5

21 tháng Năm: Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng Người sẽ sai Thần Khí đến cho các ông, Đấng An ủi, trước khi Người lên trời. Bằng cách này, Người cũng trao phó công cuộc tông đồ của Hội Thánh cho Thần Khí mọi thời đại, cho đến khi Người trở lại. #Ascension http://w2.vatican.va/content/francesco/en/messages/pont-messages/2020/documents/papa-francesco_20200521_messaggio-pom.html

21 tháng Năm: Nếu chúng ta theo Chúa Giêsu, hạnh phúc gắn kết với Ngài, người khác sẽ chú ý. Họ có thể sẽ sửng sốt. Niềm vui tỏa ra từ những người được gắn kết bởi Đức Kitô và bởi Thần Khí của Ngài là điều có thể làm cho mọi sáng kiến truyền giáo sinh hoa kết trái.

21 tháng Năm: Đón nhận niềm vui của Thần Khí là một ân huệ. Hơn nữa, đó là sức mạnh duy nhất giúp chúng ta có thể rao giảng Tin mừng và tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa. Đức tin có nghĩa là làm chứng cho niềm vui mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Một niềm vui như vậy không là kết quả của những cố gắng của chúng ta.




[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 19/5/2020]


Thứ Năm, 28 tháng 5, 2020

Đức Thánh Cha tiếp tục giảng dạy về việc cầu nguyện trong buổi Tiếp Kiến Chung (Toàn văn)

Đức Thánh Cha tiếp tục giảng dạy về việc cầu nguyện trong buổi Tiếp Kiến Chung (Toàn văn)
© Vatican Media

Đức Thánh Cha tiếp tục giảng dạy về việc cầu nguyện trong buổi Tiếp Kiến Chung (Toàn văn)

‘Lời cầu nguyện của người công chính’

27 tháng Năm, 2020 16:20

Tiếp Kiến Chung sáng nay được tổ chức lúc 9:30 sáng trong Thư viện của Điện Tông tòa Vatican.

Tiếp tục loạt giáo lý về việc cầu nguyện, trong huấn từ bằng tiếng Ý Đức Thánh Cha tập trung suy tư chủ đề: “Lời cầu nguyện của người công chính” (Tv 17:1-3.5).

Sau phần tóm lược bài giáo lý bằng một số ngôn ngữ, Đức Thánh Cha gửi lời chào đặc biệt đến các tín hữu.

Tiếp Kiến Chung kết thúc với bài hát Kinh Lạy Cha và Phép lành Tòa Thánh.

* * *

Bài Giáo lý của Đức Thánh Cha

Anh chị em thân mến, xin chào anh chị em!

Chúng ta dành riêng bài giáo lý hôm nay nói về lời cầu nguyện của người công chính.

Chương trình của Thiên Chúa cho nhân loại là tốt lành nhưng trong các hoạt động hàng ngày, chúng ta có kinh nghiệm về sự hiện hữu của sự dữ: đó là một kinh nghiệm hàng ngày. Những chương đầu tiên của Sách Sáng thế mô tả sự lan rộng ngày càng nhiều tội lỗi trong hoạt động của con người. Ađam và Eva (x. St 3:1-7) nghi ngờ về những dự định tốt lành của Thiên Chúa, nghĩ rằng đó là ý định của Thiên Chúa ghen tuông ngăn cản niềm hạnh phúc của họ. Từ đó sinh ra sự nổi loạn: tôi không còn tin vào một Đấng Tạo hóa quảng đại khao khát hạnh phúc cho họ. Đầu hàng trước cám dỗ của Ác thần, tâm hồn họ bị vây kín bởi những ảo tưởng về quyền năng vô biên: “Nếu ông bà ăn trái cây biết mọi sự đó, ông bà sẽ trở nên như Thiên Chúa” (x. c. 5). Và đây là cám dỗ; đây là sự tham vọng xâm nhập vào tâm hồn. Tuy nhiên, trải nghiệm đó đi theo hướng ngược lại: mắt họ mở ra và họ thấy mình trần truồng (c. 7), chẳng có gì cả. Đừng quên điều này: tên cám dỗ là một kẻ trả công rất tệ; hắn trả công vô cùng tệ.

Sự dữ bùng lên dữ dội hơn với thế hệ thứ hai của con người, nó mạnh mẽ hơn: đó là câu chuyện của Cain và Aben (x. St 4:1-16). Cain ghen tức với em trai của mình: đó là con sâu của lòng ghen tuông. Dù anh ta là con đầu lòng, anh ta lại xem Aben như là địch thủ, là người làm xói mòn sự riêng tư của anh ta. Sự dữ xuất hiện trong lòng anh ta và Cain không thể khống chế được nó. Sự dữ bắt đầu len lỏi vào tâm hồn: những suy nghĩ về người kia luôn luôn tiêu cực, đầy nghi ngờ. Và điều này cũng xảy ra với ý nghĩ rằng: “ này thì ác, hắn ta sẽ làm hại mình.” Và tư tưởng này đi vào tâm hồn … Và vì thế câu chuyện của tình anh em đầu tiên kết thúc với tội giết người. Cha nghĩ đến tình huynh đệ con người ngày nay … chiến tranh ở khắp nơi.

Những thủ đoạn và mưu mẹo của dòng giống Cain phát triển, và bạo lực cũng phát triển, được diễn tả bởi bài tụng ca báo điềm xấu của Laméc, nghe nó giống như một bài bi ca phục hận: “Vì một vết thương, ta đã giết một người, vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ. [...] Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4:23-24). Sự trả thù: “Hắn đã làm điều đó hắn sẽ phải trả giá cho nó.” Tuy nhiên, vị thẩm phán lại không nói điều này, chỉ tôi nói điều này thôi. Và tôi tự đặt mình ở vị trí quan tòa cho tình huống. Và vì thế sự dữ lan tràn như một vết dầu loang, cho đến khi nó phủ hết toàn bức tranh: “Đức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày” (St 6:5). Bức bích họa của trận đại hồng thủy trên toàn cõi đất (các chương 6-7) và của Tháp Baben (chương 11) cho thấy rằng cần phải có một sự khởi đầu mới, giống như một công trình tạo dựng mới sẽ được kiện toàn trong Đức Giêsu Kitô.

Tuy nhiên, trong những trang đầu của Kinh Thánh có một câu chuyện khác được viết lên, ít được chú ý hơn, khiêm tốn và chân thành hơn đại diện cho sự cứu thoát của hy vọng. Nếu hầu như tất cả mọi người đều cư xử tàn nhẫn, biến lòng thù hận và sự xâm chiếm trở thành cỗ máy vĩ đại cho hoạt động của con người, thì vẫn có những con người có khả năng cầu nguyện chân thành với Thiên Chúa, có khả năng viết lên vận mệnh của con người theo một hướng khác. Aben dâng lên Thiên Chúa của lễ là hoa trái đầu mùa. Sau khi cậu chết, Ađam và Eva có người con trai thứ ba, là Sết, từ đó sinh ra Enót (có nghĩa là “ắt phải chết”), và kể rằng: “Bấy giờ, người ta bắt đầu kêu cầu danh Đức Chúa” (4:26). Rồi Enót xuất hiện, là người “đi với Thiên Chúa” và được đưa về Trời (x. 5:22.24). Và cuối cùng là câu chuyện của Nôê, một người công chính cùng “đi với Thiên Chúa” (6:9) mà nhờ ông Thiên Chúa đã rút lại ý định tiêu diệt con người (x. 6:7-8).

Đọc những câu chuyện này, chúng ta có cảm giác rằng lời cầu nguyện như là bờ đê che chắn, là nơi nương náu của con người trước cơn sóng của sự dữ dâng tràn trên thế gian. Trong phạm vi gần hơn, chúng ta cũng cầu nguyện để được giải thoát khỏi cái tôi của mình. Cần phải cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin hãy giải thoát con khỏi bản ngã của con, khỏi những tham vọng, khỏi những đam mê. Con người cầu nguyện của những trang đầu tiên trong Kinh Thánh là những người xây dựng hòa bình. Thật vậy, khi lời cầu nguyện thật chân thành, nó sẽ giải phóng chúng ta khỏi những bản năng của tính bạo lực, và hướng nhìn về Chúa, để Người sẽ đoái trông đến và chăm sóc cho tâm hồn con người. Chúng ta đọc thấy trong Giáo lý: “Nhiều người công chính thuộc tất cả các tôn giáo sống con đường cầu nguyện như vậy” (CCC, 2569). Cầu nguyện gieo trồng những luống hoa tái sinh ở những nơi mà lòng thù hận con người chỉ mở rộng thêm sa mạc. Và cầu nguyện có sức mạnh rất lớn, vì nó hút lấy sức mạnh của Thiên Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa luôn luôn tạo sinh sự sống — luôn luôn. Người là Thiên Chúa của sự sống, và Người làm hồi sinh. Ta thấy tại sao uy quyền của Chúa truyền đi trong chuỗi dây liên kết những con người nam và nữ này, thường bị hiểu lầm hoặc bị gạt ra bên lề trên thế gian. Nhưng thế gian sống và phát triển nhờ sức mạnh của Chúa, điều mà những người tôi tớ của Ngài thu hút bằng lời cầu nguyện của họ. Họ hoàn toàn không phải là chuỗi liên kết ồn ào, hiếm khi có sự chú ý của báo chí, nhưng là vô cùng quan trọng để khôi phục lại lòng tin trên thế giới! Cha nhớ câu chuyện của một người đàn ông: một nhà lãnh đạo quan trọng của chính phủ, không thuộc thời đại này, nhưng trong quá khứ; một người vô thần hoàn toàn không có ý thức về tôn giáo trong lòng, nhưng khi còn bé đã nghe thấy người bà của ông cầu nguyện, và điều đó đọng lại trong lòng ông. Và trong một thời khắc khó khăn của cuộc sống, ký ức đó ùa về trong tâm hồn và ông nói: “Nhưng bà của ta đã cầu nguyện …” Vì thế ông bắt đầu cầu nguyện theo những công thức của người bà và ông đã tìm thấy Chúa Giêsu ở đó. Cầu nguyện là một chuỗi liên kết của cuộc sống — luôn luôn. Rất nhiều người nam và nữ cầu nguyện gieo mầm sự sống. Cầu nguyện gieo mầm sống, một lời cầu nguyện nhỏ bé; vì thế, dạy cho trẻ nhỏ cầu nguyện là rất quan trọng. Điều làm cha đau đớn là khi cha gặp những trẻ em không biết cách làm dấu thánh giá. Rất cần phải dạy chúng làm dấu thánh giá đúng cách, vì đó là lời cầu nguyện đầu tiên. Trẻ em học cầu nguyện là rất quan trọng. Sau này, có thể chúng quên, đi theo con đường khác; tuy nhiên, những lời cầu nguyện đầu đời học được khi còn bé lưu lại trong lòng, vì chúng là một hạt mầm của sự sống, một hạt mầm của sự đối thoại với Thiên Chúa. Hành trình của Chúa trong lịch sử truyền qua chúng: nó đã truyền qua một “dấu tích” của nhân loại, là điều đã không đi theo luật của kẻ mạnh nhất, nhưng xin Chúa kiện toàn những phép lạ của Người, đặc biệt là biến đổi những con tim bằng đá thành những con tim bằng thịt (x. Ed 36:26). Và điều này giúp lời cầu nguyện hữu hiệu, vì cầu nguyện mở ra cánh cửa đến với Thiên Chúa để biến đổi tâm hồn chúng ta, rất thường khi là bằng đá, trở thành tâm hồn của con người. Và đang cần thật nhiều nhân tính, và với nhân tính chúng ta sẽ cầu nguyện hữu hiệu.

© Libreria Editrice Vatican

[Văn bản chính: tiếng Ý] [Bản dịch (tiếng Anh) của Virginia M. Forrester của ZENIT]



Tiếng Ý

Cha chào các tín hữu nói tiếng Ý. Hai ngày nữa chúng ta sẽ cử hành phụng vụ Lễ nhớ Thánh Giáo hoàng Phaolô VI. Ước mong tấm gương của vị Giám mục Roma này, Đấng đã tiến lên đỉnh cao của sự thánh thiện, động viên mỗi người chúng ta quảng đại ôm lấy những lý tưởng rao giảng phúc âm.

Suy nghĩ cha hướng về các ông bà cao tuổi, các bạn trẻ, các bệnh nhân và những đôi uyên ương mới. Trong không khí chuẩn bị cho Đại Lễ Chúa Thánh Thần gần đến, cha kêu gọi anh chị em hãy luôn vâng nghe hoạt động của Chúa Thánh Thần, để đời sống anh chị em luôn được nồng ấm và được soi sáng bởi tình yêu mà Thần Khí Chúa rót đổ trong tâm hồn. Cha ban phép lành cho tất cả anh chị em!

© Libreria Editrice Vatican

[Văn bản chính: tiếng Ý] [Bản dịch (tiếng Anh) của Virginia M. Forrester của ZENIT]



[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 28/5/2020]


Đức Thánh Cha Phanxico hồi tưởng lại thời học lớp 6

Đức Thánh Cha Phanxico hồi tưởng lại thời gian học lớp 6

Đức Thánh Cha Phanxico hồi tưởng lại thời học lớp 6
© AFP PHOTO/Bergoglio family

25 tháng Năm, 2020

Kể lại việc học từ các thầy dòng Salêdiêng cách để thưởng thức cái đẹp, việc làm, và niềm vui.

Có lẽ cũng chẳng có gì sai khi nói rằng vị Giáo hoàng dòng Tên của chúng ta cũng mang gốc tích của Dòng Salêdiêng. Đức Thánh Cha Phanxico nhắc thoáng qua về điều này hôm Chúa nhật, ngày 24 tháng Năm, Lễ Mẹ Maria hằng cứu giúp người Kitô hữu, và cũng là ngày lễ quan trọng của Dòng Salêdiêng.

Ngài nói trong giờ đọc Kinh Lạy Nữ vương Thiên đàng trong Thư viện của Điện Tông tòa: “Hôm nay là Ngày kính Mẹ Maria hằng cứu giúp người Kitô hữu, xin gửi lời chào thân ái và nồng ấm đến các nam nữ tu sĩ Dòng Salêdiêng. Với lòng tri ân, cha nhớ đến sự đào tạo thiêng liêng mà cha nhận đón được từ những người con của Thánh Don Bosco.”

Đức Thánh Cha không đề cập trực tiếp, nhưng ngài hàm ý về năm 1949 khi ngài và người em trai, Oscar, đăng ký học nội trú tại trường Colegio Wilfrid Barón de los Santos Ángeles do Dòng Salêdiêng điều hành tại Ramos Mejía.

Đức Thánh Cha trong trường Salêdiêng

Mẹ Maria Đồng trinh, với tước hiệu Maria Mẹ hằng cứu giúp người Kitô ‘hữu, là bổn mạng của Dòng Salêdiêng Don Bosco, dòng tu do Thánh Don Bosco thành lập năm 1859 tại thành phố Turin miền bắc nước Ý, để phục vụ thanh thiếu niên.

Vương cung Thánh đường Mẹ Maria hằng trợ giúp người Kitô hữu của thành phố, là đền thờ do chính Thánh Don Bosco ủy thác, vẫn duy trì là trung tâm của Dòng Salêdiêng Don Bosco.

Nhận xét của đức Giáo hoàng người Argentina hôm Chúa nhật không phải là lần đầu tiên ngài nói về ảnh hưởng của Dòng Salêdiêng Don Bosco đối với tuổi thơ của ngài.

Turin, 22 tháng Sáu, 2015

Đức Thánh Cha Phanxico đã đến thăm Turin ngày 21-22 tháng Sáu năm 2015, nhân dịp đó ngài đã cùng tham dự kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Thánh Don Bosco với dòng Salêdiêng, thánh nhân sinh ngày 16 tháng tám năm 1815, và qua đời ngày 31 tháng Một năm 1888. ‎

Trong chuyến thăm, Đức Giáo hoàng gặp gỡ các tu sĩ Dòng Salêdiêng, trong đó có Dòng Con cái Đức Mẹ hằng cứu giúp người Kitô hữu, được gọi là các nữ tu Salêdiêng, mà Thánh Don Bosco cùng thành lập với Dòng Thánh Mary Mazzarello.

Khi nói về sứ mạng của Thánh Don Bosco với giới trẻ, Đức Thánh Cha nhắc lại những kỷ niệm tuổi thơ đáng yêu về sự gần gũi của gia đình với Dòng Salêdiêng, và khi thân mẫu ngài bị bệnh, ngài được rút ra khỏi trường công để học một năm với các thầy Dòng Salêdiêng.

Đức Thánh Cha nói rằng ngài đã lớn lên rất gắn bó với cộng đoàn Salêdiêng trong một năm ngài ở với họ, và đặc biệt một vị linh mục đã đồng hành với ngài từ khi Rửa tội đến lúc nhận ra ơn gọi của ngài, đồng hành cùng ngài đến bước cuối cùng trên hành trình vào Dòng Tên.

Các linh mục Dòng Salêdiêng được Đức Thánh Cha đặc biệt nhớ đến là Cha Enrico Pozzoli và Cha Cayetano Bruno.

“Tông huấn Evangelii gaudium với Thánh Gioan Bosco”

Tháng Một năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxico viết lời tựa cho quyển sách “Evangelii gaudium con don Bosco” (Tông huấn Evangelii gaudium với Thánh Gioan Bosco), một tổng hợp những suy tư của 25 thành viên gia đình Salêdiêng.

Bình luận về tinh thần vui vẻ của Thánh Don Bosco, bất chấp hàng ngàn “khó khăn bủa vây ngài mỗi ngày,” Đức Thánh Cha nhớ lại sự liên đới của ngài với Dòng Salêdiêng khi còn là một cậu bé ở Argentina.

Ngài viết trong lời tựa, trong thời gian học trong trường Salêdiêng ngài đã tìm thấy cùng “không khí vui vẻ và gia đình” đó. Ngài nói các tu sĩ Dòng Salêdiêng đã huấn luyện cho ngài biết thưởng thức cái đẹp, việc làm, và sự vui vẻ – và ngài nói với các tu sĩ Salêdiêng, “đây là ơn gọi của anh chị em.”



[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/5/2020]


Thứ Ba, 26 tháng 5, 2020

Buổi Tiếp kiến đầu tiên của Đức Thánh Cha sau nhiều tháng, Đức Thánh Cha nói với các vận động viên trẻ rằng phục vụ người khác là điều đem lại niềm vui

Buổi Tiếp kiến đầu tiên của Đức Thánh Cha sau nhiều tháng, Đức Thánh Cha nói với các vận động viên trẻ rằng phục vụ người khác là điều đem lại niềm vui
© Vatican Media

Buổi Tiếp kiến đầu tiên của Đức Thánh Cha sau nhiều tháng, Đức Thánh Cha nói với các vận động viên trẻ rằng phục vụ người khác là điều đem lại niềm vui

Nhóm nhỏ ngồi giãn cách trong thư viện giáo hoàng trong buổi tiếp kiến

21 tháng Năm, 2020 14:32

Hôm qua 20 tháng Năm 2020, đánh dấu buổi tiếp kiến đầu tiên sau nhiều tháng, sau giờ Tiếp Kiến Chung thứ Tư, Đức Thánh Cha Phanxico gặp gỡ một số vận động viên mà hôm nay, 21 tháng Năm, tham dự một sự kiện quốc tế có tên là “Chúng ta cùng chạy.”

Họ được tiếp và giữ giãn cách xã hội trong thư viện giáo hoàng, Văn phòng Báo chí Tòa thánh thông báo trong một bản tin buổi tối.

Theo bản tin báo chí, sự kiện đã được tổ chức bởi hiệp hội Điền kinh Vatican cùng cộng tác với nhóm vận động viên điền kinh Fiamme Gialle, có nghĩa là Ngọn lửa vàng của cơ quan chấp pháp chuyên trách về tội phạm tài chính, “Courtyard of the Gentiles” của Hội đồng Giáo hoàng về văn hóa và Liên đoàn Vận động viên điền kinh Ánh sáng Ý của Lazio.

Đức Thánh Cha nói một đôi lời với những người có mặt, và sau đó đọc một thông điệp soạn sẵn gửi tới tất cả vận động viên thể thao nhân dịp này. ZENIT dịch cả hai bài ở dưới (tiếng Anh).

Nói chuyện với các vận động viên, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng thể thao xây dựng những cầu nối, và bày tỏ sự cảm kích rằng những sáng kiến của họ sẽ giúp ích cho nhà thương “Giáo hoàng Gioan XXIII” ở Bergamo và “Quỹ Poliambulance” ở Brescia, nằm trong vùng Lombardy bị ảnh hưởng nặng của Ý.

Đức Thánh Cha nói, “Đó là một cách để thể hiện lòng biết ơn,” ngài nhấn mạnh rằng nhân viên y tế “là những người hùng.”

Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng phục vụ người khác là điều mang đến niềm vui đích thực.

Đức Thánh Cha Phanxico kết luận, động viên những người trong nhóm sống niềm đam mê thể thao của họ như “một kinh nghiệm của sự hiệp nhất và đoàn kết.”

“Đặc biệt là những giá trị thật của thể thao,” Đức Giáo hoàng người Argentina được biết là yêu bóng đá nói, “là những giá trị thật sự quan trọng khi đương đầu với đại dịch trong thời gian này, và trên hết là hậu quả khó khăn sau đó.”

Ngài nói, “Và trong tinh thần này, tôi mời gọi các bạn hãy cùng nhau chạy trên đường chạy của cuộc sống.”

Đức Thánh Cha xin họ cầu nguyện cho ngài và ban Phép lành cho họ.

Dưới đây là bản dịch (tiếng Anh) của ZENIT những lời nói chuyện và thông điệp của Đức Thánh Cha:


* * *

Những lời chuyện trò của Đức Thánh Cha

Tôi cảm ơn các bạn vì công việc các bạn làm: mỗi người làm một điều gì đó cho cộng đồng, cho người khác. Và đây là niềm vui, thật vậy. Nó là niềm vui của việc giúp ích cho người khác. Và rồi, tiếp đến, người này lại đón nhận từ những người khác. Tuy nhiên, điều mà Đức Hồng y đã nhắc đến, niềm vui của sự cho đi, của sự trao tặng, của sự trao tặng nét đẹp của thể thao, theo khả năng của mỗi người: trao tặng một điều gì đó mà tôi có được vì niềm vui và hạnh phúc của người khác. Và điều này thật tuyệt vời, nó là một thái độ của con người; nó là sự sáng tạo. Và người ta thậm chí trao tặng sự sống cho người khác: người mẹ trao tặng cho những đứa con, người cha trao tặng cho những đứa con, và nhiều người khác … trao tặng một điều gì đó của tôi cho người khác. Và các bạn trao tặng cái đẹp cho người khác — cái đẹp của thể thao. Đây là điều quan trọng: hiểu được cách trao tặng cái đẹp. Điều này hỗ trợ, vì những gì các bạn đang làm không phải là một bài tập, chúng ta đang nói đến việc luyện tập tốc độ hoặc thi đấu. Điều này là đúng, nhưng còn nhiều hơn thế. Đó là việc trao tặng cho người khác. Chính câu khẩu hiệu của Hiệp hội là rất quan trọng: bạn không tách rời ra khỏi người khác, “Các bạn cùng nhau chạy,” cùng với nhau. Và luôn luôn có một thái độ mà chúng ta tìm thấy trong trình thuật Tin mừng, của hai người môn đệ chạy ra mồ của Chúa Giêsu vào buổi sáng Phục sinh (x. Ga 20:3-6). Người trẻ [Gioan] đến trước, và sau đó là người lớn tuổi hơn [Phêrô] chạy đến sau, nhưng luôn có sự tôn trọng qua việc chờ đợi người kia. Và có một quy định thời Trung cổ xa xưa cho những người hành hương, cho những người thực hiện việc hành hương đến các Đền thánh trong thời Trung cổ — ngày nay họ vẫn thực hành; chẳng hạn chúng ta nghĩ đến Santiago de Compostela — một quy định nói rằng: mọi người phải đi đồng nhịp với người yếu mệt nhất, với người đi chậm hơn. “Không, nhưng tôi phải đi đầu …” Không. Chúng ta phải chờ đợi như Thánh Gioan đã làm: đúng, ngài tới trước, nhưng ngài đợi vị kia. Đây là nét rất đẹp mà chúng ta phải học, như là nhân cách: cùng bước đi theo nhịp với những người có nhịp độ khác, hoặc ít nhất chú ý đến họ và hòa nhập họ theo bước đi của chúng ta.

Xin cảm ơn. Cảm ơn tất cả các bạn về điều này. Và bây giờ tôi muốn gửi đến các bạn một … nhưng, chúng ta cứ gọi nó theo đúng tên gọi của nó: một diễn từ, để gửi đến tất cả Hiệp hội, tất cả các bạn, nó là một Thông điệp của buổi gặp gỡ này với các bạn.

[Văn bản chính: tiếng Ý] [Bản dịch (tiếng Anh) của Virginia M. Forrester của ZENIT]



Thông điệp của Đức Thánh Cha

Các bạn thân mến, các bạn vận động viên thân mến,

Ngày mai 21 tháng Năm, Đại hội Điền kinh Quốc tế Castel Porziano “Chúng ta cùng chạy” – Simul Currebant, sẽ diễn ra. Các nhà vô địch Olympic sẽ tham dự cuộc đua lần đầu tiên với các vận động viên khuyết tật, các vận động viên với những khiếm khuyết về tâm thần, những người tị nạn, người di cư và tù nhân, họ cũng sẽ là những giám khảo của cuộc đua — tất cả cùng nhau và cùng chung phẩm giá. Một chứng tá cụ thể cho bản chất của thể thao: tức là một “cầu nối” hiệp nhất những con người thuộc các tôn giáo và văn hóa khác nhau, thúc đẩy sự bao gồm, tình bằng hữu, tình đoàn kết giáo dục, cụ thể là một “cầu nối” của hòa bình.

Ngày mai một người có thể sẽ không chạy bằng đôi chân, nhưng người ta chạy bằng trái tim. ‘Tinh thần’ của Đại hội này, <đó là> bao gồm và đoàn kết: cùng chạy với nhau. Và do vậy rất nhiều vận động viên tham dự — và với niềm vui mừng, tôi sẽ có thể gặp gỡ riêng — sẽ xây dựng một số mục tiêu và kinh nghiệm thể thao cho sáng kiến bác ái. Tất cả số tiền quyên góp được sẽ chuyển đến cho các nhân viên y tế của Nhà thương “Giáo hoàng Gioan XXIII” của Bergamo và đến Quỹ <“Cấp cứu tổng quát”> của Brescia, cả hai là biểu tượng của cuộc chiến chống lại đại dịch đã ảnh hưởng đến toàn hành tinh. Nó là một sáng kiến để trợ giúp và cảm ơn những người điều dưỡng nam và nữ, và các nhân viên nhà thương. Họ là những người hùng! Tất cả họ sống ngành chuyên môn của mình như một ơn gọi, một cách anh hùng, dấn thân vào hiểm nguy vì người khác” (x. Ga 15:13).

Tôi rất vui vì Athletica Vaticana đang thúc đẩy sáng kiến này, một thực tại làm chứng tá cụ thể, trên các đường phố và giữa mọi người, dung mạo đoàn kết của thể thao. Cử chỉ đầu tiên của Athletica Vaticana là chấp nhận, “như là những vận động viên “danh dự,” đối với một số bạn trẻ di dân và một cô gái bị bệnh thoái hóa thần kinh nặng. Hôm nay họ đến đây để gặp gỡ tôi.

Cùng cộng tác với Athletica Vaticana trong sáng kiến này là Yellow Flames, thuộc Đội Thể thao của Cảnh sát Tài chính, và “Courtyard of the Gentiles,” một cơ quan của Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, là cơ quan thúc đẩy sự gặp gỡ và đối thoại giữa các tín hữu và người không có tín ngưỡng. Tất cả họ luôn thể hiện sự nhạy cảm đặc biệt khi đáp ứng cho những nhu cầu thực tế của con người, đặc biệt cho các gia đình được hỗ trợ bởi Phòng Khám phát thuốc Nhi Thánh Marta, hoạt động gần một trăm năm ở trong Vatican này. Cùng hợp tác với tất cả trong dự án thể thao bao gồm tất cả này là Ủy ban Vùng Fidal-Lazio.

Các bạn vận động viên thân mến, tôi động viên các bạn hãy sống cho đam mê của mình hơn bao giờ hết như một trải nghiệm của sự hiệp nhất và tình đoàn kết. Quả thật, những giá trị đích thực của thể thao là những giá trị thật sự quan trọng khi đương đầu với đại dịch trong thời gian này, và đặc biệt là sự phục hồi khó khăn. Và tôi mời gọi các bạn hãy cùng nhau chạy trên đường đua cuộc đời với tinh thần này. Xin cảm ơn tất cả những gì các bạn thực hiện.

[Văn bản chính: tiếng Ý] [Bản dịch (tiếng Anh) của Virginia M. Forrester của ZENIT]



[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 22/5/2020]


Đức Thánh Cha Phanxico trên Twitter từ 16-18/05/2020

Đức Thánh Cha Phanxico trên Twitter từ 16-18/05/2020

Đức Thánh Cha Phanxico trên Twitter từ 16-18/05/2020


16 tháng Năm: Hôm nay, chúng ta #cầu nguyện cho những người đang chôn cất người qua đời trong đại dịch này, họ cũng đang có nguy cơ bị lây nhiễm. Chôn xác người chết là một trong những mối phúc thương xót.

16 tháng Năm: Tinh thần thế gian mà Chúa Giêsu đang nói đến là gì (Ga 15:18-21)? Đó là một lối sống, một văn hóa tạm bợ không biết thế nào là trung thành. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ơn biết phân định giữa đâu là tính thế gian và đâu là rao giảng phúc âm. #HomilySantaMarta

17 tháng Năm: Hôm nay chúng ta #cùng cầu nguyện cho những người lau dọn trong các nhà thương, đường phố, là những người đổ chất thải, người đến từng nhà để đổ rác. Đó là một công việc chẳng ai nhìn thấy, nhưng là công việc vô cùng cần thiết cho cuộc sống của chúng ta. Xin Chúa ban phúc lành cho họ.

17 tháng Năm: Xã hội chúng ta với cảm giác là người con mồ côi đã chạm đến ý thức hệ thuộc và huynh đệ của chúng ta, vì Chúa Cha bị lãng quên. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ơn tái khám phá Chúa Cha là Đấng ban cho chúng ta ý thức về ý nghĩa trong cuộc sống. Xin Người làm cho chúng ta nên một gia đình. #HomilySantaMarta

17 tháng Năm: Tôi khẩn thiết kêu gọi những đối thoại mới về cách chúng ta sẽ định hình cho tương lai hành tinh của chúng ta. Chúng ta cần sự đối thoại bao gồm tất cả mọi người, vì thách thức về môi trường mà chúng ta đang trải qua, và những căn nguyên của con người, liên quan và ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. #LaudatoSi5

17 tháng Năm: Ngày mai đánh dấu một trăm năm ngày sinh Thánh Gioan Phaolô II. Chúng ta nhớ về ngài với lòng yêu mến và tri ân lớn lao. Lúc 7:00 sáng, cha sẽ dâng Lễ và sẽ được truyền hình trên toàn thế giới, tại bàn thờ nơi thân xác phải chết của ngài an nghỉ.

18 tháng Năm: Hôm nay chúng ta nhớ đến đức tin và tấm gương vĩ đại của #Thánh Gioan Phaolô II. Chúng ta nghe tiếng vang vọng lời kêu gọi của ngài hãy mở rộng những cánh cửa cho Đức Kitô, đừng sợ hãi. Chúng ta hân hoan tiến bước trên những con đường của thế giới, đi theo những bước chân của đấng vĩ đại đã đi trước chúng ta. Chúng ta không bao giờ cô đơn!


18 tháng Năm: Tất cả chúng ta có thể cộng tác như là những khí cụ của Thiên Chúa để chăm sóc tạo vật, mỗi người tùy theo văn hóa, kinh nghiệm, khả năng đóng góp và tài năng của mình. #LaudatoSi5




[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 19/5/2020]