Toàn văn bài giảng đầu tiên bằng tiếng Anh của Đức Giáo hoàng Leo XIV
Photo by Handout / VATICAN MEDIA / AFP
09/05/25
Câu hỏi của Chúa Giêsu không phải là không quan trọng. “Nó liên quan đến một khía cạnh trọng yếu trong thừa tác vụ của chúng ta, cụ thể là, thế giới mà chúng ta đang sống, với những giới hạn và tiềm năng của nó, với những câu hỏi và những niềm tin của nó.”
Tuyệt mỹ: Khó có từ nào khác để mô tả Thánh lễ đầu tiên của Đức Giáo hoàng Lêô XIV. Màu sắc sống động của các bức bích họa trong Nhà nguyện Sistine tương phản với sắc trắng rực rỡ của từng hàng từng hàng phẩm phục các Hồng y, thỉnh thoảng được điểm xuyết bởi một vị Hồng y mặc trang phục sáng màu của các Giáo hội Đông phương.
Những giai điệu hợp ca hoà quyện hoàn hảo của các ca viên nam và thiếu nhi của ca đoàn Nhà nguyện Sistine, cùng với những cử chỉ chính xác và cẩn trọng của các đức ông phụ trách nghi lễ giáo hoàng. Đó là hình ảnh Giáo Hội trong tất cả vẻ huy hoàng của mình, tự hào và hân hoan với Đấng Kế vị mới của Thánh Phêrô.
Photo by Handout / VATICAN MEDIA / AFP
Với sức mạnh của tuổi trẻ (ngài chỉ mới 69 tuổi) và giọng nói dõng dạc, Đức Tân Giáo hoàng bắt đầu bài giảng... bằng tiếng mẹ đẻ của ngài:
_______________________
Tôi bắt đầu với một lời bằng tiếng Anh - phần còn lại sẽ bằng tiếng Ý - nhưng tôi muốn lặp lại những lời trong Thánh vịnh đáp ca: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công.” Thật vậy, thưa các anh em Hồng y, không chỉ với tôi mà với tất cả chúng ta, khi chúng ta cử hành sáng nay, tôi mời gọi anh em nhận ra những kỳ công mà Chúa đã thực hiện, những phúc lành mà Chúa tiếp tục tuôn đổ trên tất cả chúng ta. Qua thừa tác vụ của Thánh Phêrô, anh em đã gọi tôi để mang lấy thập giá đó và được chúc phúc với sứ vụ ấy, và tôi biết tôi có thể tin cậy từng người trong anh em để cùng tôi tiến bước khi chúng ta tiếp tục như một Giáo hội, như một cộng đoàn bạn hữu của Chúa Giêsu, như những tín hữu, để loan báo tin vui, loan báo Tin Mừng.
Sau đó, ngài chuyển sang bài giảng đã soạn sẵn bằng tiếng Ý. (Bản dịch tiếng Anh của Vatican):
“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16:16) Qua những lời này, Phêrô, khi được Thầy hỏi cùng với các môn đệ khác, về niềm tin của mình vào Chúa, đã diễn tả di sản mà Giáo hội, qua tông truyền, đã gìn giữ, đào sâu và truyền lại suốt hai ngàn năm.
Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống: Đấng Cứu Độ duy nhất, Đấng duy nhất mặc khải dung nhan của Chúa Cha.
Trong Người, Thiên Chúa, để trở nên gần gũi và dễ tiếp cận với con người, đã tỏ mình ra cho chúng ta qua ánh mắt tin tưởng của một trẻ thơ, trong tâm trí sống động của một người trẻ, và trong những nét trưởng thành của một người đàn ông (x. Gaudium et Spes, 22), cuối cùng hiện ra với các môn đệ sau Phục sinh với thân xác vinh hiển của Người. Như vậy, Người đã cho chúng ta thấy một mẫu gương thánh thiện của con người mà tất cả chúng ta có thể noi theo, cùng với lời hứa về một định mệnh vĩnh cửu vượt trên mọi giới hạn và khả năng của chúng ta.
Trong câu trả lời của mình, Phêrô hiểu cả hai điều này: ân huệ của Thiên Chúa và con đường cần theo để cho phép bản thân được biến đổi bởi ơn huệ đó. Đây là hai khía cạnh không thể tách rời của ơn cứu độ, được trao phó cho Giáo Hội để loan báo vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Quả thật, những điều ấy được trao cho chính chúng ta, những người đã được Chúa chọn trước khi được hình thành trong cung lòng mẹ (x. Gr 1:5), được tái sinh trong nước Rửa tội, và vượt qua những giới hạn của chúng ta và chẳng có công trạng gì của riêng mình, được đưa đến đây và được sai đi từ nơi đây, để Tin Mừng có thể được loan báo cho mọi loài thụ tạo (x. Mc 16:15).
Cách riêng, Thiên Chúa đã gọi tôi qua sự bầu chọn của anh em để kế vị Thủ Lãnh các Tông đồ, và trao phó kho tàng quý giá này cho tôi, hầu với ơn trợ giúp của Người, tôi có thể trở thành người quản lý trung tín của kho tàng ấy (x. 1 Cr 4:2), vì lợi ích của toàn thể Nhiệm thể Giáo hội. Người đã làm như vậy để Giáo hội ngày càng trở nên trọn vẹn hơn như một thành được xây trên đồi (x. Kh 21:10), là một con tàu của ơn cứu độ lướt qua những dòng nước lịch sử, và là một ngọn hải đăng soi sáng những đêm đen của thế gian này. Và điều đó không đến từ sự lộng lẫy của những công trình kiến trúc hay sự nguy nga của các tòa nhà — giống như những công trình tuyệt mỹ đang bao quanh chúng ta — mà là từ sự thánh thiện của các thành viên trong Giáo hội. Bởi vì chúng ta là dân mà Thiên Chúa đã chọn làm dân riêng của Người, để loan truyền những kỳ công của Đấng đã gọi chúng ta ra khỏi tối tăm, bước vào ánh sáng kỳ diệu của Người (x. 1 Pr 2:9).
Photo by Handout / VATICAN MEDIA / AFP
Phêrô tuyên xưng đức tin của mình để đáp lại một câu hỏi cụ thể: “Người ta nói Con Người là ai?” (Mt 16:13). Câu hỏi này không phải là không quan trọng. Nó liên quan đến một khía cạnh trọng yếu trong thừa tác vụ của chúng ta, cụ thể là, thế giới mà chúng ta đang sống, với những giới hạn và tiềm năng của nó, với những câu hỏi và những niềm tin của nó.
“Người ta nói Con Người là ai?” Nếu chúng ta suy ngẫm về bối cảnh mà chúng ta đang xem xét, chúng ta có thể nhận ra hai câu trả lời khả dĩ, tượng trưng cho hai thái độ khác nhau. Trước hết, là câu trả lời của thế gian. Thánh Matthêu cho biết rằng cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người diễn ra tại thị trấn xinh đẹp Xêdarê Philípphê, nơi có những cung điện tráng lệ, nằm giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ dưới chân núi Hermon, nhưng cũng là một địa điểm chứng kiến những trò chơi quyền lực tàn ác, những sự phản bội và bất trung. Bối cảnh ấy cho chúng ta thấy một thế giới xem Chúa Giêsu là một người hoàn toàn không đáng kể, cùng lắm chỉ là một nhân vật có cách nói năng và hành động khác thường và thu hút. Và rồi, khi sự hiện diện của Ngài trở nên khó chịu vì những đòi hỏi về sự trung thực và các yêu cầu đạo đức nghiêm ngặt, thì “thế gian” này sẽ không ngần ngại từ chối và loại trừ Người.
Rồi có một câu trả lời khác cho câu hỏi của Chúa Giêsu: đó là câu trả lời của người bình thường. Đối với họ, người Nadarét kia không phải là một kẻ bịp bợm, nhưng là một người ngay thẳng, một người can đảm, biết nói năng và nói những điều đúng đắn, giống như các vị tiên tri vĩ đại khác trong lịch sử Israel. Vì thế, họ đi theo Chúa, chí ít là họ làm như vậy khi không gây quá nhiều rủi ro hay phiền toái cho họ. Tuy nhiên, đối với họ, Chúa vẫn chỉ là một con người; vì vậy, trong những lúc hiểm nguy, trong cuộc khổ nạn của Người, họ cũng rời bỏ Người và ra đi trong sự thất vọng.
Điều đáng chú ý nơi hai thái độ này là tính thời sự của chúng ngày nay. Chúng thể hiện những quan niệm mà chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy trên môi miệng của nhiều người nam và nữ trong thời đại chúng ta, mặc dù về bản chất thì vẫn giống hệt nhau, chỉ khác ở chỗ chúng được diễn đạt bằng ngôn ngữ khác nhau mà thôi.
Ngay cả ngày nay, vẫn còn nhiều bối cảnh trong đó đức tin Kitô giáo bị coi là điều phi lý, chỉ dành cho những người yếu đuối và thiếu trí tuệ. Những bối cảnh nơi người ta ưa chuộng những sự bảo đảm khác, như công nghệ, tiền bạc, thành công, quyền lực hoặc khoái lạc.
Đó là những bối cảnh mà việc rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho chân lý của Tin mừng không hề dễ dàng, nơi các tín hữu bị nhạo báng, chống đối, khinh miệt, hoặc may mắn lắm thì cũng chỉ được khoan dung và thương hại. Thế nhưng, chính vì lý do đó mà những nơi ấy lại là những nơi rất cần đến công cuộc truyền giáo của chúng ta nhất. Sự thiếu vắng đức tin thường đi đôi với việc đánh mất ý nghĩa cuộc sống một cách bi thảm, hờ hững với lòng thương xót, và những vi phạm khủng khiếp đối với phẩm giá con người, cuộc khủng hoảng của gia đình và biết bao vết thương khác đang hành hạ xã hội của chúng ta.
Ngày nay cũng vậy, có nhiều bối cảnh trong đó Chúa Giêsu, dù được quý trọng như một con người, lại bị hạ xuống thành một dạng thủ lãnh có sức lôi cuốn hay một “siêu nhân.” Điều này không chỉ đúng với những người không tin, mà còn xảy ra với nhiều Kitô hữu đã chịu phép Rửa tội, những người vì thế mà rốt cuộc sống ở một tình trạng vô thần thực hành.
Đây chính là thế giới đã được trao phó cho chúng ta, một thế giới mà, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã dạy chúng ta nhiều lần, chúng ta được kêu gọi làm chứng cho đức tin hân hoan của chúng ta vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Vì vậy, điều cốt lõi là chính chúng ta cũng phải lặp lại cùng với Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Điều quan trọng trước hết là phải thực hiện trong mối tương quan cá nhân của chúng ta với Chúa, trong cam kết của chúng ta đối với hành trình hoán cải mỗi ngày. Và sau đó, phải thực hiện như là một Hội Thánh, cùng nhau sống trung thành với Chúa và đem Tin Mừng đến cho mọi người (x. Lumen Gentium, 1).
Tôi nói điều này trước hết với chính mình, với tư cách là Người Kế vị Thánh Phêrô, khi tôi bắt đầu sứ vụ của mình trong vai trò là Giám mục Rome, và theo cách diễn đạt nổi tiếng của Thánh Inhaxiô thành Antiôkia, tôi được kêu gọi để chủ trì trong đức ái trên Giáo hội hoàn vũ (x. Thư gửi tín hữu Rome, Lời mở đầu). Thánh Inhaxiô, người đã bị điệu đến thành phố này trong xiềng xích, nơi mà ngài sắp hy sinh làm của lễ, đã viết cho các Kitô hữu ở đây rằng: “Khi thế gian không còn thấy thân xác tôi nữa, bấy giờ tôi mới thật là môn đệ của Đức Giêsu Kitô” (Thư gửi tín hữu Rome, IV, 1). Thánh Inhaxiô đang nói về việc ngài sẽ bị thú dữ xé xác trong đấu trường – và điều đó đã xảy ra – nhưng những lời của ngài xét rộng hơn là một cam kết không thể thiếu đối với tất cả những người trong Giáo hội đang đảm nhận một sứ vụ quyền bính. Đó là phải lui về một bên để Đức Kitô có thể ở lại, làm cho mình trở nên nhỏ bé để Người có thể được nhận biết và tôn vinh (x. Ga 3:30), phải cống hiến hết mình để tất cả mọi người đều có cơ hội được biết Chúa và yêu mến Người.
Nguyện xin Thiên Chúa ban cho con ơn này, hôm nay và mãi mãi, nhờ lời chuyển cầu đầy yêu thương của Mẹ Maria, Mẹ Giáo hội,
[Nguồn: aleteia]
[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 10/5/2025]