Thứ Năm, 6 tháng 3, 2025

Họp báo giới thiệu Đại hội đồng Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, với chủ đề “Ngày tận thế? Khủng hoảng, Trách nhiệm, Hy vọng”, ngày 03.03.2025

Họp báo giới thiệu Đại hội đồng Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, với chủ đề “Tận thế? Khủng hoảng, Trách nhiệm, Hy vọng”, ngày 03.03.2025

Họp báo giới thiệu Đại hội đồng Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, với chủ đề “Ngày tận thế? Khủng hoảng, Trách nhiệm, Hy vọng”, ngày 03.03.2025

*******

Lúc 11 giờ 30 hôm nay (ND: 03/03/2025), một buổi họp báo đã được tổ chức tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh, số 54 Via della Conciliazione, để giới thiệu Đại Hội đồng của Hàn Lâm viện Giáo hoàng về Sự sống với chủ đề “Tận thế? Khủng hoảng, Trách nhiệm, Hy vọng”, diễn ra từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 3 tại Trung tâm Hội nghị Augustinianum.

Các diễn giả bao gồm: Đức Tổng Giám mục Vincenzo Paglia, Chủ tịch viện Hàn lâm Giáo hoàng về Sự sống; Giáo sư Katalin Karikó, người đoạt giải Nobel Y học năm 2023; Giáo sư Guido Tonelli, Đại học Pisa, Ý; Giáo sư Henk ten Have, Đại học Anáhuac, Thành phố Mexico, Mexico; và Nữ tu Giustina Holha Holubets, SSMI, thuộc Tổ chức Phi Chính phủ Perinatal Hospice, Lviv, Ukraine.

Dưới đây là các bài phát biểu của các diễn giả:

________________________________________


Bài phát biểu của Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia

Chủ đề của đại hội lần này xuất phát từ sự hội tụ của nhiều khía cạnh trong thời điểm đặc biệt mà chúng ta đang trải qua. Một mặt, có sự nhận thức ngày càng rõ ràng rằng cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang trải qua cùng lúc tác động đến nhiều khía cạnh trong đời sống cá nhân và xã hội. Đức Thánh Cha cũng đã lưu ý đến nhận thức này khi sử dụng một thuật ngữ do triết gia Edgar Morin đặt ra: polycrisis (ND tạm dịch: đa khủng hoảng). Mặt khác, điều quan trọng là phải lắng nghe sâu sắc hơn những yếu tố nào đã đưa chúng ta vào tình trạng bế tắc này. Tuy nhiên, mối quan tâm của chúng ta không chỉ đơn thuần là phân tích, mà còn nhằm xác định các dòng chảy của sự chuyển đổi và thay đổi đòi hỏi trách nhiệm của chúng ta nhưng đồng thời cũng có thể mở ra những cánh cửa hy vọng cho tương lai của các xã hội.

Khi suy ngẫm về chủ đề này, một hình ảnh biểu tượng trong Kinh Thánh hiện lên trong tâm trí tôi, dường như rất phù hợp với hoàn cảnh hiện tại và có thể giúp chúng ta diễn giải thời điểm hiện tại: đó là trận Đại Hồng thủy (St 6-9). Trước hết, chúng ta lưu ý rằng trong sách Sáng thế, tình huống dẫn đến cuộc khủng hoảng nhấn chìm Trái đất là tình trạng gia tăng quá nhiều sự dữ trên thế gian. Có vẻ như một ngưỡng giới hạn đã bị vượt qua, khi sự tràn lan của cái ác tiến đến mức không thể kiểm soát được trong thế giới này nữa.

Có một sự tràn lan quá mức lan rộng và bao trùm mọi thứ. Hãy nghĩ đến ngưỡng giới hạn mới của khả năng tự hủy diệt mà nhân loại hiện đang nắm trong tay.

Vì vậy, chúng ta phải xây dựng một con tàu chung cho tất cả mọi người: một cốt lõi được sắp đặt theo lời của Thiên Chúa, điều mà ông Nô-ê đã chăm chú lắng nghe cẩn thận để đóng con tàu, nhằm gìn giữ trật tự sáng tạo của Thiên Chúa, giúp nó tiếp tục hành trình và nổi trên mặt biển đang nhấn chìm mọi thứ khác. Theo cách này, con tàu trở thành biểu tượng của một không gian nơi công trình sáng tạo của Thiên Chúa vượt qua sự chết chóc và hủy diệt (bạo lực) để tiến đến một khởi đầu mới.

Tất nhiên, sự chung sống không thể được xem là điều tất nhiên, và nỗ lực hài hòa những khác biệt là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Tiếp tục với hình ảnh của chúng ta: cuộc sống trên con tàu không dễ dàng. Ngay cả sự khởi đầu mới, được đánh dấu bằng việc lần thứ hai nổi trên mặt đất khô ráo – điều mà đoạn Kinh Thánh mô tả như một sự sáng tạo mới – cũng kéo dài hơn nhiều so với trình thuật trong chương đầu tiên của sách Sáng thế. Bốn mươi ngày cùng với nhiều tuần thám hiểm cho thấy ông Nô-ê là một con người kiên nhẫn và hy vọng.

Niềm hy vọng không đồng nghĩa với sự cam chịu hay từ bỏ, mà là sự chờ đợi đầy kiên trì và khám phá, tận dụng mọi phương tiện sẵn có (quạ và bồ câu, vì thời đó chưa có thiết bị bay không người lái), kiên trì chịu đựng, tin tưởng vào lời hứa của một lời phán đáng tin cậy, và đòi hỏi một sự quyết định để đạt được điều đã được hứa ban.

Chính trong tinh thần này mà chúng ta hy vọng thực hiện cuộc hành trình của mình.


Phát biểu của giáo sư Katalin Karikó

Như quý vị đã biết, tôi tham gia sự kiện này với vai trò là một Viện sĩ Thường trực của Viện Hàn lâm Giáo hoàng về Sự Sống. Chiều mai, trong buổi đối thoại về chủ đề “Điều gì/Ai sẽ cứu thế giới?”, tôi sẽ chia sẻ đôi điều về vai trò của khoa học

Khoa học là kiến thức về thế giới xung quanh chúng ta. Kiến thức này được thu thập thông qua quan sát, đo lường và thử nghiệm. Khoa học rất thú vị, và làm một nhà khoa học là một công việc thú vị. Điều rất lý thú đó có một sự phức tạp, và chính bạn có thể giải quyết nó bằng cách đọc các bài nghiên cứu hoặc tiến hành thí nghiệm và kết hợp những điều có thể chưa ai từng làm trước đó. Rồi bạn nhận biết điều gì đang diễn ra. Niềm vui khi bạn là người đầu tiên biết rằng sự việc xảy ra theo cách đó. Đó là điều thú vị. Nó rất giống với việc làm một thám tử hay điều tra viên trong một vụ án, nhưng ở phút cuối, bạn không tìm ra thủ phạm mà tìm ra một giải pháp, và có thể giải pháp đó sẽ giúp ích cho ai đó. Đó là nét đẹp về nó, có thể một người nào đó bị bệnh và rồi khám phá của bạn có thể góp phần chữa lành cho họ.

Mọi người có quan điểm và cách suy nghĩ khác nhau, như một người là bác sĩ, còn người khác là nhà khoa học căn bản, và họ có cách suy nghĩ khác nhau. Nếu họ hợp tác và tôn trọng lẫn nhau, thì một phát minh mới có thể ra đời. Đó là điều tôi cho là quan trọng. Vì vậy, tôi cố gắng nhấn mạnh rằng phụ nữ rất quan trọng đối với khoa học, và khoa học cần nhiều phụ nữ hơn, vì lúc đầu, có nhiều phụ nữ tốt nghiệp các trường đại học và họ có ước mơ của mình, nhưng khó khăn có thể xuất hiện khi họ đến tuổi sinh nở và muốn lập gia đình. Tôi thấy ở nhiều quốc gia, nếu không có đủ sự hỗ trợ tài chính, thì phụ nữ phải từ bỏ công việc của mình vì đứa con thơ đang khóc và họ phải chăm sóc nó. Ước mơ của họ chỉ còn là một tiềm tàng, và từ bỏ dường như là giải pháp để chăm sóc con cái. Nhưng nếu chính phủ lắng nghe, thì chúng ta cần lên tiếng kêu gọi họ hỗ trợ dịch vụ chăm sóc trẻ em chất lượng cao với giá cả phải chăng. Điều này sẽ rất quan trọng vì sẽ thêm nhiều phụ nữ có cơ hội tạo ra nhiều khám phá hơn.

Tôi dựa vào công trình của nhiều người khác. Tôi đã nghiên cứu trong 20, 30 năm. Tôi học từ việc đọc các bài viết của những người đã khuất, và tôi học được từ đó. Tôi có đồng nghiệp và rất nhiều người đã đóng góp. Tôi cảm nhận rằng chúng tôi đã làm được. Các nhà khoa học chúng tôi, cùng với tất cả những đồng nghiệp của tôi tại Pfizer, BioNTech, cũng như Đại học Pennsylvania, và những nhà khoa học đã làm việc trong lĩnh vực này. Đó là cảm nhận của tôi, và tôi phải nói rằng, tôi đã may mắn. Tôi chưa bao giờ khao khát sự công nhận. Đối với tôi, chỉ cần biết những gì tôi đã làm và điều gì là quan trọng, chứ không phải việc người khác biết đến nó, thế là đủ.

Với tôi, tôi cảm thấy rằng rất nhiều nhà khoa học, hàng trăm, hàng nghìn nhà khoa học, đã đóng góp vào kho tàng kiến ​​thức này, vì RNA đã được phát hiện cách đây 64 năm, và trong những năm đó, rất nhiều điều đã xảy ra. Tôi sẽ cho quý vị biết có bao nhiêu điều đã được các nhà khoa học khám phá và đóng góp. Là một nhà khoa học, tôi không ngờ rằng những gì tôi đang làm lại quan trọng đến vậy. Tôi sẽ nói với quý vị về những phát hiện đã được thực hiện và đóng góp bởi các nhà khoa học. Là một nhà khoa học, tôi không mong đợi rằng những gì mình đang làm sẽ trở nên quan trọng đến vậy. Tôi biết rằng điều đó quan trọng. Tôi biết rằng một ngày nào đó có thể các nhà khoa học khác sẽ tiếp tục và đạt đến một mức độ mà người nào đó sẽ được giúp đỡ. Cảm ơn quý vị.


Phát biểu của Giáo sư Guido Tonelli

Theo một cách nào đó, khoa học vẫn là nền tảng cho thế giới quan của chúng ta. Chúng ta vẫn cần nó, và không chỉ để sản xuất ra các công nghệ và công cụ cần thiết cho sự tồn tại của loài người.

Sự thay đổi sâu sắc khi một sự chuyển đổi mô hình tạo ra ở cấp độ khoa học sẽ dẫn đến một thay đổi thậm chí còn triệt để hơn ở cấp độ văn hóa. Con người tổ chức theo một cách khác, nhân loại xây dựng các mối quan hệ khác với những mối quan hệ họ đã có trước đây. Đây là một điểm nền tảng vì ngay cả ngày nay khoa học vẫn tiếp tục tạo ra những thay đổi. Cơ chế mà khoa học thay đổi thế giới quan của chúng ta là một hiện tượng vẫn đang diễn ra, và cần phải nhận thức được những thay đổi này, vì tương lai sẽ định hình từ chúng.

Trong hàng ngàn năm, nhân loại tự thấy mình là yếu tố mong manh nhất của một môi trường tự nhiên không thay đổi. Chúng ta tự coi mình là những phàm nhân mong manh sống cuộc sống bất ổn trong một môi trường tự nhiên vĩnh cửu và bất tử. Không phải ngẫu nhiên mà Mặt trời, Trái đất, Mặt trăng, các vì sao và các hành tinh đã từng được tôn là thần. Từ cảm giác mong manh này, những điều đẹp nhất mà con người tạo ra đã ra đời: nghệ thuật và triết học, khoa học và tôn giáo. Từ đó nảy sinh động lực để tạo ra những tác phẩm bất hủ: những chiến công của Achilles, người thích được các thi sĩ ca tụng trong hàng thiên niên kỷ hơn là sống một cuộc sống khiêm nhường; hoặc những kim tự tháp vĩ đại, những lăng mộ của các pha-ra-ông sánh ngang với những ngọn núi. V.v..

Ngày nay chúng ta khám phá ra rằng sự mong manh này, điều mà chúng ta đã rất xấu hổ, trở thành sự khổ não thường trực đối với chúng ta, là một đặc điểm chung của toàn bộ thế giới vật chất. Khoa học hiện đại cho chúng ta biết rằng tất cả các dạng vật chất có hình thể đều phải chịu sự mong manh nội tại này; không có gì có thể thoát khỏi quy luật này, ngay cả những cấu trúc vĩ đại nhất, một dạng ‘tội tổ tông’ nào đó.

Hệ quả của thế giới quan mới này sẽ là gì? Liệu nó sẽ mang đến những tác động đáng lo ngại hay an ủi? Con người sẽ xây dựng các mối liên kết đoàn kết và nhận thức chặt chẽ hơn giữa họ, hay các yếu tố gây hấn và ích kỷ sẽ ngày càng chiếm ưu thế? Đây là những câu hỏi then chốt mà những người trong Giáo hội được mời gọi suy ngẫm.


Phát biểu của Giáo sư Henk ten Have

Tận thế? Quan điểm giáo dục

Đối mặt với sự biến đổi khí hậu, phân cực chính trị, những thất bại của nền dân chủ, các chính sách bất lực, suy thoái kinh tế, chiến tranh và bạo lực, những quan điểm tận thế có xu hướng xóa mờ tầm nhìn về tương lai của nhân loại. Điều này sẽ ảnh hưởng trước hết đến các thế hệ trẻ, qua đó nhấn mạnh vai trò của giáo dục. Tuy nhiên, những quan điểm bi quan và định mệnh về tận thế có thể xảy ra không thể được khắc phục bằng giáo dục theo cách đó. Điều quan trọng là những gì sẽ được dạy và cách thức giảng dạy diễn ra. Trước hết, giáo dục không chỉ tập trung vào tương lai mà còn phải phản ánh về quá khứ (cho thấy rằng trong lịch sử của tất cả các nền văn minh, những ý tưởng về sự suy tàn và sụp đổ đã từng xuất hiện), và phân tích hiện tại (cho thấy rằng những ý tưởng về ngày tận thế không đồng nhất, mà phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa và tôn giáo).

Thứ hai, khi tập trung vào tương lai, giáo dục nên phác thảo ít nhất ba thái độ đối với quan điểm về tận thế: cam chịu (từ bỏ ý nghĩ rằng sự sụp đổ và suy tàn có thể được ngăn chặn), kháng cự (cố gắng gạt bỏ sự suy thoái và tạo ra sự đổi mới thông qua khoa học hoặc kỹ thuật xã hội và di truyền), và tái đánh giá (đánh giá lại các giá trị nền tảng và điều chỉnh theo hướng nâng cao lên thay vì hạ thấp chúng). Thái độ cuối cùng này nhằm mục đích chuyển biến liên tục và từng phần, lấy cảm hứng từ niềm hy vọng rằng sự thay đổi theo hướng tốt hơn là có thể. Trên thực tế, đó là động lực cơ bản để khởi xướng ngành đạo đức sinh học mới vào những năm 1970. Để tránh nguy cơ tuyệt chủng có thể xảy ra của loài người, tất cả các loại trí tuệ cần được tập hợp để chống lại những mối đe dọa toàn cầu và bảo đảm sự tồn tại. Nhưng để trở thành nguồn cảm hứng, diễn ngôn về đạo đức sinh học cần mang tính phản biện và tiên tri hơn. Nó cần khơi dậy hy vọng rằng mọi thứ có thể được cải thiện và chúng ta có thể làm tốt hơn.


Phát biểu của Nữ tu Giustina Holha Holubets, SSMI

‘Tôi không thể kéo dài thêm 1 ngày cho sự sống của bạn, nhưng tôi có thể kéo dài sức sống cho những ngày của bạn.’

Nữ tu Giustina Olha Holubets, Nhà tâm lý học lâm sàng tại Trung tâm di truyền y khoa Lviv thuộc Viện bệnh lý di truyền của Viện Hàn lâm khoa học y khoa quốc gia Ukraine, Chủ tịch Tổ chức phi chính phủ “Perinatal Hospice ‒ Imprint of Life”

“Sự sống con người đặc biệt mong manh và yếu đuối khi đến với thế giới này và khi rời bỏ cõi phàm trần để bước vào cõi vĩnh hằng”. EV, 44.

Giữa các bác sĩ có một xu hướng chẩn đoán trước sinh kết hợp với việc ngăn ngừa các dị tật bẩm sinh và di truyền và thường dẫn đến quyết định phá thai. Tuy nhiên, vẫn có những cặp vợ chồng quyết định không phá thai ngay cả khi phát hiện con mình mắc dị tật bẩm sinh hoặc bệnh di truyền nghiêm trọng, họ tiếp tục thai kỳ để chăm sóc con cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời. Rất thường xuyên, những cặp vợ chồng này không nhận được sự hỗ trợ và thấu hiểu từ xã hội, thậm chí từ chính gia đình và đội ngũ y tế.

Trong thập kỷ qua, từ kinh nghiệm của nhiều quốc gia, có thể thấy một lựa chọn thay thế là perinatal hospice (ND: trung tâm chăm sóc giảm nhẹ chu sinh: trung tâm chăm sóc các bà mẹ mang thai dị tật, hoặc thai nhi mắc bệnh di truyền nghiêm trọng) - một nơi của sự yêu thương đích thực, trong đó một nhóm chuyên gia hỗ trợ, giúp đỡ để chuẩn bị cho cha mẹ, người thân khi đứa trẻ chào đời với dị tật bẩm sinh nghiêm trọng và có thể tử vong trước, trong hoặc sau sinh. Theo đó, ở mỗi giai đoạn khác nhau, có sự hỗ trợ thích hợp ở các cấp độ khác nhau: y tế, tâm lý, xã hội và tinh thần.

Tổ chức phi lợi nhuận “Hospice Chu sinh - Imprint of Life” là sáng kiến đầu tiên về chăm sóc chu sinh tại Ukraine. Tổ chức bắt đầu hoạt động từ năm 2013 và từ năm 2017 đã hoạt động tại Lviv, đồng thời mở rộng hoạt động ra các thành phố khác của Ukraine, giúp đỡ các bậc cha mẹ và những đứa con mắc bệnh nan y của họ với sự chăm sóc đa chuyên khoa và có trình độ cao.

Mục tiêu chính của “Perinatal hospice - Imprint of Life” bao gồm:
  • Nâng cao nhận thức về tử vong sơ sinh
  • Nâng cao nhận thức về quyền con người được nhận chăm sóc giảm nhẹ chất lượng cao, đặc biệt là chăm sóc giảm nhẹ chu sinh cũng như chăm sóc cho cha mẹ và gia đình họ
  • Cung cấp sự hỗ trợ cho các bà mẹ và những đôi vợ chồng, những người phát hiện con mình mắc dị tật bẩm sinh nghiêm trọng trong thai kỳ
  • Cung cấp hỗ trợ cho các thai nhi mắc bệnh hiểm nghèo
  • Cung cấp tư vấn và hỗ trợ tâm lý cho những cha mẹ bị mất đứa con của họ trong thai kỳ hoặc sau khi sinh, ngay cả khi đứa trẻ mới chỉ được vài tuần tuổi trong bụng mẹ
Trong những năm gần đây, Tổ chức đã hỗ trợ nhiều gia đình, giúp nhiều trẻ em là nạn nhân của chẩn đoán tử vong, đến với thế giới này, một số bé chào đời khỏe mạnh và được nằm trong vòng tay của mẹ, nhưng một số khác không thể sinh ra. Đối với những bậc cha mẹ đã ôm con vào lòng, dù chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi như một vệt sao băng, cuộc đời nhỏ bé ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc, mang đến sức mạnh giúp họ vượt qua đau thương mất mát và sau đó, trong khoảng thời gian ngắn, tìm thấy hy vọng để bắt đầu một cuộc sống mới. Chăm sóc giảm nhẹ chu sinh không dừng lại ở cái chết của một đứa trẻ. Tổ chức cung cấp hỗ trợ trong đám tang cho các bé, cung cấp sự hỗ trợ cần thiết cho cha mẹ của bé, và các cuộc gặp mặt cho các gia đình đã mất con.

Tổ chức hướng đến mục tiêu giúp các bậc cha mẹ trân trọng khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng vô giá bên con mình trong tình yêu thương, hỗ trợ họ trong khoảnh khắc chia ly với đứa con vừa chào đời.

Ngay cả khi “không thể làm được gì”, vẫn luôn có điều gì đó có thể làm được: Đó là sự yêu thương. Cho đến phút cuối cùng.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 6/3/2025]


Thông điệp của Đức Thánh Cha gửi đến các tham dự viên Đại hội đồng Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, ngày 03.03.2025

Thông điệp của Đức Thánh Cha gửi đến các tham dự viên Đại hội đồng Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, ngày 03.03.2025

Thông điệp của Đức Thánh Cha gửi đến các tham dự viên Đại hội đồng Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, ngày 03.03.2025

*******

Sau đây là Thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi đến các tham dự viên Đại hội đồng thuộc Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống, với chủ đề: “Tận thế? Khủng hoảng, Trách nhiệm, Hy vọng”, diễn ra từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 3 tại Trung tâm Hội nghị Augustinianum:

_______________________________________


Thông điệp của Đức Thánh Cha


Tận thế? Khủng hoảng, Trách nhiệm, Hy vọng

Thưa các Viện sĩ Hàn lâm,

Tôi vui mừng khi được nói chuyện với những người trong giới khoa học, cũng như những người trong Giáo hội đang xây dựng cuộc đối thoại với thế giới khoa học. Cùng chung tay, quý vị có thể phục vụ cho sự nghiệp của sự sống và ích chung. Và tôi xin chân thành cảm ơn Đức Tổng Giám mục Paglia và các cộng sự vì sự phục vụ cho Hàn Lâm viện Giáo hoàng về Sự sống.

Trong Đại hội đồng chung năm nay, quý vị đề xuất cân nhắc kỹ câu hỏi hiện được định nghĩa là “polycrisis” (ND tạm dịch: đa khủng hoảng). Nó liên quan đến một số khía cạnh căn bản trong hoạt động nghiên cứu của quý vị về lĩnh vực sự sống, sức khỏe và sự chăm sóc. Thuật ngữ “đa khủng hoảng” gợi lên đặc điểm kịch tính của bước ngoặt lịch sử mà chúng ta đang chứng kiến, trong đó chiến tranh, biến đổi khí hậu, vấn đề năng lượng, dịch bệnh, hiện tượng di cư và sự đổi mới công nghệ cùng hội tụ.” Sự đan xen của những vấn đề hệ trọng này liên quan đến nhiều chiều kích khác nhau của cuộc sống, khiến chúng ta phải tự hỏi mình về vận mệnh của thế giới và cách chúng ta hiểu về nó.

Bước đầu tiên cần thực hiện là xem xét kỹ hơn cách chúng ta hình dung về thế giới và vũ trụ. Nếu chúng ta không làm điều này và không phân tích cách nghiêm túc sự kháng cự sâu xa của chúng ta trước những thay đổi, trong vai trò là con người và là một xã hội, chúng ta sẽ tiếp tục thực hiện những gì chúng ta vẫn luôn luôn làm đối với các cuộc khủng hoảng khác, thậm chí với những cuộc khủng hoảng gần đây nhất. Hãy nghĩ về đại dịch Covid: có thể nói chúng ta đã “lãng phí” nó; lẽ ra chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc thay đổi lương tâm và các hoạt động xã hội (xem Tông huấn Laudate Deum, 36).

Và một bước quan trọng khác để tránh tình trạng ngồi im bất động, bám chặt vào những sự chắc chắn, những thói quen và nỗi sợ hãi của chúng ta, là lắng nghe thật cẩn thận sự đóng góp trong các lĩnh vực thuộc kiến ​​thức khoa học. Chủ đề lắng nghe mang tính quyết định. Đây là một trong những từ khóa quan trọng của toàn bộ tiến trình hiệp hành mà chúng ta đã khởi xướng và hiện đang trong giai đoạn thực hiện. Do đó, tôi trân trọng cách tiếp cận của quý vị đang phản ánh tinh thần này. Tôi nhìn thấy trong đó nỗ lực thực hiện trong lĩnh vực cụ thể của quý vị mà Thượng Hội đồng đã dành sự quan tâm – “lời tiên tri xã hội” (Văn kiện kết, 47). Trong sự gặp gỡ với con người và những câu chuyện của họ, cũng như trong việc lắng nghe kiến thức khoa học, chúng ta nhận ra rằng những tiêu chí về nhân học và văn hóa của chúng ta cần được xem xét lại một cách sâu sắc. Đây cũng chính là nguồn gốc của ý tưởng của các nhóm nghiên cứu về một số chủ đề đã xuất hiện trong tiến trình hiệp hành. Tôi biết một số người trong quý vị là thành viên của những nhóm đó, đồng thời đánh giá cao công việc mà Hàn Lâm viện về Sự Sống đã thực hiện trong những năm qua, một công việc mà tôi vô cùng biết ơn.

Lắng nghe khoa học liên tục mang đến cho chúng ta những kiến thức mới. Hãy xét đến những gì chúng ta được biết về cấu trúc của vật chất và sự tiến hóa của các sinh vật sống: một quan điểm về tự nhiên năng động hơn nhiều so với những gì được nghĩ vào thời của Newton đã xuất hiện. Cách chúng ta hiểu về “sự sáng tạo liên tục” cần được xét kỹ lại, với nhận thức rằng công nghệ sẽ không phải là thứ cứu chúng ta (xem Tông huấn Laudato si’, 101): ủng hộ việc dỡ bỏ quy định mang tính thực dụng và chủ nghĩa tân tự do toàn cầu đồng nghĩa với việc áp đặt luật của kẻ mạnh nhất làm quy tắc duy nhất; và đó là một luật làm phi nhân văn.

Chúng ta có thể lấy ví dụ về nghiên cứu này của Cha Teilhard de Chardin và nỗ lực của ngài – chắc chắn còn chưa hoàn thiện và còn hạn chế, nhưng đầy táo bạo và cảm hứng – nhằm bước vào cuộc đối thoại nghiêm túc với khoa học, thực hành một cách tiếp cận liên ngành.

Đó là một con đường đầy mạo hiểm, khiến chúng ta tự hỏi: “Tôi tự hỏi liệu có cần một ai đó ném hòn đá xuống ao – quả thực là chấp nhận bị ‘hy sinh’ – để mở ra con đường hay không.1 Như vậy, ngài đưa ra những hiểu biết sâu sắc của mình, tập trung vào khái niệm về mối tương quan và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa mọi sự vật, đặt homo sapiens (ND tạm dịch: trí nhân) trong mối liên kết chặt chẽ với toàn bộ hệ thống các sinh vật sống.

Những cách diễn giải về thế giới và sự tiến hóa của nó, cùng với những hình thức liên kết chưa từng có tương ứng, có thể mang lại cho chúng ta những dấu hiệu của niềm hy vọng, điều mà chúng ta đang tìm kiếm như những người hành hương trong Năm Thánh này (xem Sắc chỉ Spes non confundit, 7).

Hy vọng là thái độ nền tảng nâng đỡ chúng ta trên hành trình. Nó không phải là sự chờ đợi trong cam chịu, mà là sự nỗ lực với lòng nhiệt thành hướng tới đời sống đích thực, vượt qua ranh giới hẹp hòi của cá nhân.

Như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nhắc nhở chúng ta, hy vọng “gắn liền với sự hiệp nhất sống động với một ‘dân tộc’, và đối với mỗi cá nhân, niềm hy vọng chỉ có thể đạt được trong chữ ‘chúng ta’ này” (Thông điệp Spe salvi, 14).

Chính vì chiều kích cộng đồng của niềm hy vọng, khi đối mặt với một cuộc khủng hoảng phức tạp mang tính toàn cầu, chúng ta được kêu gọi hãy đánh giá đúng những công cụ có chiều kích toàn cầu. Thật đáng buồn, chúng ta phải ghi nhận sự suy giảm dần tầm quan trọng của các tổ chức quốc tế, vốn cũng đang bị suy yếu bởi những thái độ thiển cận, chỉ quan tâm đến việc bảo vệ lợi ích riêng và lợi ích quốc gia.

Tuy vậy, chúng ta vẫn phải tiếp tục dấn thân một cách kiên định vì “những tổ chức thế giới hiệu quả hơn, được trang bị quyền hạn để thúc đẩy lợi ích chung toàn cầu, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ vững chắc các quyền căn bản của con người” (Tông huấn Fratelli tutti, 172).

Theo cách đó, một chủ nghĩa đa phương được thúc đẩy, không lệ thuộc vào những hoàn cảnh chính trị thay đổi hoặc lợi ích của một số ít người, và có tính hiệu quả ổn định (xem Tông huấn Laudate Deum, 35). Đây là một nhiệm vụ cấp bách liên quan đến toàn thể nhân loại.

Thưa các thành viên của Hàn Lâm viên về Sự sống, bối cảnh rộng lớn của những động lực và mục tiêu này cũng chính là phạm vi của Đại hội và công việc của quý vị. Tôi phó thác quý vị cho sự chuyển cầu của Đức Maria, là Ngai tòa Hy Vọng và Mẹ Hy vọng, “khi chúng ta là những người hành hương, là dân tộc của sự sống và vì sự sống, tiến bước trong niềm tin hướng tới ‘một trời mới và đất mới’ (Kh 21:1)' (Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn Evangelium Vitae, 105).

Tôi ban phép lành cho tất cả quý vị và công việc của quý vị.

Rome, từ Bệnh viện “Gemelli”, 26 tháng Hai, 2025

PHANXICÔ

____________________

1 Quotation from B. DE SOLANGES, Teilhard de Chardin. Témoignage et étude sur le développement de sa pensée, Toulouse 1967, 54

_______________________________________________


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 5/3/2025]