Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2024

Sứ điệp Ngày Thế giới Ông Bà và Người cao niên lần thứ IV (28 tháng Bảy năm 2024) của Đức Thánh Cha Phanxicô

Đức Thánh Cha nói với các ông bà: “Tuổi già là dấu hiệu của phúc lành”

Sứ điệp Ngày Thế giới Ông Bà và Người cao niên lần thứ IV (28 tháng Bảy năm 2024) của Đức Thánh Cha Phanxicô

Sứ điệp Ngày Thế giới Ông Bà và Người cao niên lần thứ IV (28 tháng Bảy năm 2024) của Đức Thánh Cha Phanxicô

Italian Foundation "Età Grande": Meeting of the elderly, grandparents and grandchildren (April 26, 2024) - Vatican Media


*******

Dưới đây là nội dung Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Thế giới Ông Bà và Người cao niên lần IV được cử hành vào Chúa nhật thứ tư của tháng Bảy – năm nay là ngày 28 tháng Bảy – với chủ đề “Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng” (xem Tv 71:9):

___________________________________________

Sứ điệp của Đức Thánh Cha


“Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng” (x. Tv 71:9)

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con cái của Ngài, không bao giờ. Ngay cả khi tuổi tác của chúng ta ngày càng cao và sức khỏe của chúng ta suy giảm, khi tóc chúng ta bạc trắng và vai trò của chúng ta trong xã hội giảm đi, khi cuộc sống của chúng ta trở nên kém hiệu quả hơn và có nguy cơ trở thành vô dụng. Thiên Chúa không coi trọng vẻ bên ngoài (x. 1 Sm 16:7); Ngài không ngần ngại chọn những người dường như không còn thích hợp đối với nhiều người. Chúa không bỏ đi viên đá nào; thật vậy, những viên đá “cũ nhất” là nền tảng vững chắc để những viên đá “mới” có thể tựa vào, để cùng nhau xây dựng nên một ngôi đền thờ thiêng liêng (x. 1 Pr 2:5).

Toàn bộ Kinh Thánh là một câu chuyện về tình yêu trung tín của Chúa. Nó mang đến cho chúng ta sự chắc chắn đầy an ủi rằng Thiên Chúa luôn tỏ cho chúng ta thấy lòng thương xót của Ngài ở mọi giai đoạn của cuộc sống, trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta gặp phải, ngay cả khi chúng ta phản bội. Các Thánh vịnh chứa đầy sự kinh ngạc của tâm hồn con người trước Thiên Chúa, Đấng luôn quan tâm đến chúng ta bất kể sự tầm thường của chúng ta (x. Tv 144:3-4); các Thánh vịnh bảo đảm với chúng ta rằng Thiên Chúa đã tạo dựng mỗi người chúng ta từ trong cung lòng mẹ (x. Tv 139:13), và ngay cả trong hỏa ngục Ngài cũng sẽ không bỏ rơi mạng sống của chúng ta (x. Tv 16:10). Vì vậy, chúng ta chắc chắn rằng Ngài cũng sẽ gần gũi với chúng ta khi về già, hơn thế nữa, trong Kinh thánh, tuổi già là dấu hiệu của phúc lành.

Đồng thời, trong các Thánh Vịnh, chúng ta cũng tìm thấy lời khẩn cầu tha thiết này dâng lên Chúa: “Xin đừng sa thải con lúc tuổi đà xế bóng” (x. Tv 71:9). Những lời rất mạnh mẽ, thậm chí chẳng gọt giũa. Những lời đó khiến chúng ta nghĩ đến sự đau khổ tột cùng của Chúa Giêsu, Đấng đã kêu lên trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27:46).

Như vậy, trong Kinh Thánh chúng ta tìm thấy sự chắc chắn về việc Thiên Chúa gần gũi ở mọi giai đoạn của cuộc đời cũng như nỗi sợ hãi bị bỏ rơi, đặc biệt là khi về già và những lúc đau đớn. Không có mâu thuẫn ở đây. Nếu nhìn chung quanh, chúng ta không khó khăn khi thấy rằng những lời đó phản ánh một thực tế hoàn toàn hiển nhiên. Rất thường xuyên, sự cô đơn là người bạn đồng hành ảm đạm trong cuộc sống của chúng ta khi về già và trở thành ông bà. Khi còn là Giám mục ở Buenos Aires, tôi thường đến thăm các nhà dưỡng lão và nhận ra rằng những người ở đó hiếm khi được thăm viếng. Một số đã không được gặp người thân trong nhiều tháng.

Có nhiều lý do cho sự cô đơn này: ở nhiều nơi, nhất là ở các nước nghèo, người già thấy mình cô đơn vì con cái họ buộc phải di cư.

Tôi cũng nghĩ đến nhiều hoàn cảnh xung đột. Biết bao người già bị bỏ lại một mình vì những người đàn ông – thanh niên và người lớn – đã được gọi ra chiến trường, và phụ nữ, nhất là những phụ nữ có con nhỏ, đã rời bỏ đất nước để bảo đảm an toàn cho con cái của họ. Tại các thành phố và làng mạc bị chiến tranh tàn phá, nhiều người già bị bỏ lại một mình; họ là dấu hiệu duy nhất của sự sống ở những khu vực mà sự bỏ rơi và cái chết dường như đang thống trị. Ở những nơi khác trên thế giới, chúng ta gặp phải một lòng tin sai lầm, ăn sâu vào một số văn hóa địa phương, dẫn đến thái độ thù địch đối với người già, họ bị nghi ngờ sử dụng yêu thuật để làm hao mòn sinh lực của người trẻ; khi cái chết non hay bệnh tật hoặc bất kỳ điều bất hạnh nào khác ập đến với người trẻ, tội lỗi sẽ đổ xuống trước cửa một người già nào đó. Phải đấu tranh và loại bỏ não trạng này. Đó là một trong những định kiến ​​vô căn cứ mà đức tin Kitô giáo đã giải thoát chúng ta, tuy nhiên nó vẫn tiếp tục gây ra sự xung đột thế hệ giữa người trẻ và người già.

Tuy nhiên, nếu chúng ta suy nghĩ về điều này, thì sự cáo buộc cho rằng người già “cướp đi tương lai của giới trẻ” ngày nay đang hiện diện ở khắp nơi. Nó xuất hiện dưới những vỏ bọc khác ngay cả trong những xã hội tiên tiến và hiện đại nhất. Chẳng hạn, hiện nay có một niềm tin phổ biến cho rằng người già đang gây ra gánh nặng cho người trẻ với những chi phí cao cho các dịch vụ xã hội mà họ cần, và bằng cách này đang làm trệch hướng các nguồn lực dành cho sự phát triển của cộng đồng và do đó làm trệch hướng các nguồn lực dành cho sự phát triển của giới trẻ. Đây là một nhận thức sai lệch về thực tế. Nó cho rằng sự sống còn của người già khiến sự sống còn của người trẻ gặp nguy hiểm, rằng để giúp người trẻ thì cần phải bỏ mặc hoặc thậm chí loại bỏ người già. Xung đột giữa các thế hệ là một sự ngụy biện và là hoa trái độc hại của văn hóa xung đột. Đặt người trẻ chống lại người già là một hình thức thao túng không thể chấp nhận được: “Điều quan trọng là sự hiệp nhất giữa các độ tuổi khác nhau trong cuộc sống, là điểm quy chiếu thực sự để hiểu và đánh giá toàn bộ đời sống con người” (Giáo lý, ngày 23 tháng 2). 2022).

Câu Thánh vịnh được trích dẫn ở trên – với lời cầu xin không bị bỏ rơi khi tuổi già – nói với một âm mưu xung quanh cuộc sống của người già. Điều này có vẻ là cường điệu, nhưng nó không cường điệu khi chúng ta xét thấy rằng sự cô đơn và bị bỏ rơi người già không phải là ngẫu nhiên hay là điều không thể tránh khỏi, mà là kết quả của những quyết định – những quyết định thuộc chính trị, kinh tế, xã hội và cá nhân – không thừa nhận phẩm giá vô hạn của mỗi người, “vượt ra ngoài mọi hoàn cảnh, trạng thái hoặc tình huống mà con người có thể gặp phải” (Tuyên ngôn Dignitas Infinita, 1). Điều này xảy ra khi chúng ta mất cái nhìn về giá trị của mỗi cá nhân và con người bị đánh giá dựa trên phí tổn cho họ, trong một số trường hợp bị coi là quá cao không thể chi trả. Tệ hại hơn nữa, người già thường trở thành nạn nhân của não trạng này; họ bị buộc phải coi mình là gánh nặng và cảm thấy rằng họ phải là người đầu tiên bước sang một bên.

Rồi ngày nay cũng có nhiều người nam và nữ tìm kiếm sự thỏa mãn cá nhân trong một đời sống độc lập và tách biệt khỏi người khác. Các thành viên trong nhóm đang gặp khủng hoảng và chủ nghĩa cá nhân được tôn vinh: việc chuyển từ “chúng ta” sang “tôi” là một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất của thời đại chúng ta. Gia đình, lập luận đầu tiên và triệt để nhất chống lại quan điểm cho rằng chúng ta có thể tự cứu chính mình, đã trở thành một nạn nhân của cái văn hóa cá nhân chủ nghĩa này. Tuy nhiên, khi chúng ta già đi và năng lực của chúng ta bắt đầu suy giảm, ảo tưởng về chủ nghĩa cá nhân rằng chúng ta không cần ai và có thể sống mà không cần những mối ràng buộc xã hội, sẽ lộ rõ ​​bản chất của nó. Thật vậy, chúng ta thấy mình cần mọi thứ, nhưng tại một thời điểm nào đó trong cuộc sống khi chúng ta cô đơn, không còn được người khác giúp đỡ, không có ai để chúng ta có thể dựa vào. Đó là một khám phá nghiệt ngã mà nhiều người tìm thấy khi đã quá muộn.

Sự cô đơn và bị bỏ rơi đã trở thành những yếu tố thường xuyên xảy ra trong bối cảnh xã hội ngày nay. Chúng có nhiều nguyên nhân. Trong một số trường hợp, chúng là kết quả của sự loại trừ có tính toán, một loại “âm mưu xã hội” rất tệ hại; thật bi thảm, ở những trường hợp khác lại là vấn đề quyết định cá nhân của một người. Trong những trường hợp khác nữa, người già phải chấp nhận thực tế này, giả cách rằng đó là sự lựa chọn tự do của họ. Chúng ta ngày càng mất đi “hương vị của tình huynh đệ” (Fratelli Tutti, 33); thậm chí chúng ta thấy khó khăn ngay cả khi nghĩ ra một giải pháp thay thế.

Nơi nhiều người cao tuổi, chúng ta có thể nhìn thấy ý thức cam chịu được mô tả trong Sách Rút, kể về câu chuyện của bà Naomi, sau cái chết của chồng và các con đã động viên hai người con dâu là Oóc-pa và Rút, trở về quê hương và nhà của họ (x. R 1:8). Bà Naomi – giống như nhiều người già ngày nay – sợ phải ở một mình, nhưng bà không thể hình dung ra cách nào khác. Là một bà góa, bà biết mình chẳng có giá trị gì trong mắt xã hội; bà coi mình là gánh nặng cho hai người nữ trẻ kia còn cả cuộc đời phía trước họ, không giống như bà. Vì lý do này, bà cho rằng tốt nhất nên bước sang một bên, và do vậy bà bảo các cô con dâu trẻ hãy rời bỏ bà và xây dựng tương lai ở những nơi khác (x. R 1:11-13). Lời nói của bà phản ánh những quy ước xã hội và tôn giáo cứng nhắc vào thời đó, những điều dường như đã định đoạt số phận của bà.

Và trình thuật Kinh thánh trình bày cho chúng ta hai cách trả lời khác nhau trước lời nói của bà Naomi và với chính tuổi già. Oóc-pa, một trong hai người con dâu yêu thương bà Naomi, hôn bà và chấp nhận điều dường như là giải pháp khả thi duy nhất, đi theo con đường của cô. Tuy nhiên, Rút không rời bỏ bà Naomi và trước sự ngạc nhiên của bà, cô nói với bà: “Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ” (Rút 1:16). Rút không ngại thách thức phong tục và lối suy nghĩ thủ cựu. Cô cảm nhận rằng người phụ nữ lớn tuổi kia cần cô và cô can đảm ở bên cạnh bà trong khởi đầu cho một cuộc hành trình mới cho cả hai người. Với tất cả chúng ta đã quen với ý nghĩ cho rằng sự cô độc là số phận không thể tránh khỏi của mình, bà Rút dạy rằng để đáp lại lời cầu xin “Đừng bỏ rơi tôi”, chúng ta hãy nói: “Tôi sẽ không bỏ rơi bạn”. Rút không ngần ngại lật đổ tình thế tưởng chừng như không thể đảo ngược: sống một mình không phải là giải pháp duy nhất! Không phải ngẫu nhiên mà bà Rút – người chọn ở lại bên bà già Naomi – là tổ phụ của Đấng Mêsia (x. Mt 1:5), tổ phụ của Chúa Giêsu, Đấng Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Đấng mang đến sự gần gũi của Thiên Chúa và gần gũi với tất cả mọi người, mọi độ tuổi và mọi hoàn cảnh sống.

Sự tự do và lòng can đảm của bà Rút mời gọi chúng ta bước đi trên một con đường mới. Chúng ta hãy đi theo bước chân của bà. Chúng ta hãy lên đường với người phụ nữ ngoại quốc trẻ này cùng với bà Naomi cao tuổi, đừng ngại thay đổi những thói quen của chúng ta và hình dung về một tương lai khác cho người già của chúng ta. Mong rằng chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những người noi gương bà Rút trong việc chăm sóc một người già, và thường phải hy sinh rất nhiều, hoặc đơn giản là thể hiện sự gần gũi hàng ngày với những người họ hàng hoặc người quen không còn ai thân thích. Bà Rút, người đã chọn ở lại với bà Naomi, sau đó đã được chúc phúc với một cuộc hôn nhân hạnh phúc, một gia đình, một ngôi nhà mới. Điều này luôn luôn xảy ra: bằng cách gần gũi với người già và nhìn nhận vai trò đặc biệt của họ trong gia đình, trong xã hội và trong Giáo hội, chúng ta sẽ nhận được nhiều ơn, nhiều ân sủng, nhiều phúc lành!

Trong Ngày Thế giới lần thứ tư dành riêng cho người già, chúng ta hãy thể hiện tình yêu dịu dàng của chúng ta đối với ông bà và những người lớn tuổi trong gia đình mình. Chúng ta hãy dành thời gian với những người đang chán nản và không còn hy vọng vào khả năng có một tương lai khác. Thay vì thái độ xem mình là trung tâm dẫn đến tình trạng cô đơn và bị bỏ rơi, chúng ta hãy thể hiện trái tim rộng mở và khuôn mặt vui tươi của những con người dũng cảm nói rằng “Con sẽ không bỏ rơi ông bà”, và bắt đầu hành trình trên một con đường khác.

Thưa các ông bà và các vị cao niên yêu quý, tôi xin gửi lời chúc lành tới ông bà cùng những lời cầu nguyện của tôi, cũng như tới tất cả những người gần gũi với các ông bà. Và tôi xin ông bà đừng quên cầu nguyện cho tôi.

Rome, Đền thánh Gioan Lateran, 25 tháng Tư 2024

PHANXICÔ



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 18/5/2024]