Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2019

Ma-rốc, Đức Thánh Cha căn dặn các tu sĩ không nản chí vì là nhóm thiểu số, nhưng là ‘những ngọn đèn’ không để mất ‘ánh sáng’

Ma-rốc, Đức Thánh Cha căn dặn các tu sĩ không nản chí vì là nhóm thiểu số, nhưng là ‘những ngọn đèn’ không để mất ‘ánh sáng’
Copyright: Vatican Media

Ma-rốc, Đức Thánh Cha căn dặn các tu sĩ không nản chí vì là nhóm thiểu số, nhưng là ‘những ngọn đèn’ không để mất ‘ánh sáng’

‘Vấn đề không phải ở chỗ chúng ta là một nhóm nhỏ về con số, nhưng ở chỗ chúng ta trở nên tầm thường, là muối đã bị mất hương vị Tin mừng, hoặc là những ngọn đèn không còn chiếu sáng’

31 tháng Ba, 2019 14:04

Đức Thánh Cha đã có huấn từ với hàng giáo sĩ, nam nữ tu sĩ, các thành viên của Hội đồng Đại kết các Giáo hội, trong Vương cung Thánh đường Rabat, trong ngày thứ hai của ngài ở Ma-rốc. Đức Thánh Cha thỉnh thoảng nói ra ngoài văn bản, đôi lúc nói ứng khẩu không theo văn bản, nhưng dưới đây chúng tôi đăng tải văn bản của Vatican cung cấp bài huấn từ soạn trước của Đức Thánh Cha, và sẽ gửi văn bản trọn vẹn cuối cùng khi nào hoàn tất.


***

Anh chị em thân mến,

Cha rất hạnh phúc vì có cơ hội này được đến với anh chị em. Đặc biệt cha cảm ơn Cha Germain và Sơ Mary về những chứng ngôn. Tôi cũng xin gửi lời chào đến quý vị thành viên của Hội đồng Đại kết các Giáo hội, một dấu chỉ rõ ràng về sự hiệp thông được thể hiện trong đất nước Ma-rốc này giữa người Ki-tô hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau trên con đường hiệp nhất. Ki-tô hữu là một nhóm thiểu số nhỏ trong đất nước này. Tuy nhiên đối với cha, đây không phải là một vấn đề, cho dù cha biết có những lúc có thể rất khó khăn cho một số anh chị em. Hoàn cảnh của anh chị em nhắc cha nhớ đến câu hỏi của Chúa Giê-su: “Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì? … Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men." (Lc 13:18.21). Diễn giải theo lời của Chúa, chúng ta có thể tự hỏi mình: Người Ki-tô hữu giống cái gì đây, trong những miền đất này? Chúng tôi phải ví họ với cái gì? Họ giống như một nắm men nhỏ mà Mẹ Giáo hội muốn hòa trộn vào một lượng bột thật lớn cho đến khi tất cả dậy men. Vì Chúa Giê-su không chọn và sai chúng ta lên đường để trở nên con số đông đảo! Người kêu gọi chúng ta thi hành một sứ mạng. Người đặt chúng ta vào giữa xã hội giống như một nắm men: đó là men của các Mối Phúc và sự yêu thương huynh đệ, mà tất cả người Ki-tô hữu chúng ta đều có thể cùng góp phần để làm cho vương quốc của Người trở nên hiện hữu.

Các bạn thân mến, điều này có nghĩa là sứ mạng của chúng ta là những người được rửa tội, những linh mục và những người nam nữ sống đời thánh hiến, không thật sự được quyết định bởi con số hay diện tích của những không gian chúng ta sở hữu, nhưng bởi khả năng tạo ra sự thay đổi và đánh thức những sự kỳ diệu và lòng trắc ẩn. Chúng ta làm điều này qua cách sống là những người môn đệ của Chúa Giê-su, giữa những người chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống hàng ngày, chia sẻ những niềm vui và nỗi buồn phiền, chia sẻ sự đau khổ và những hy vọng (x. Hiến chế Gaudium et Spes, 1). Nói một cách khác, những con đường của việc truyền giáo không phải là con đường chiêu dụ tín đồ, vì điều đó luôn dẫn đến một ngõ cụt, nhưng là cách thức chúng ta với Chúa Giê-su và với người khác. Vấn đề không phải ở chỗ chúng ta là một nhóm nhỏ về con số, nhưng ở chỗ chúng ta trở nên tầm thường, là muối đã bị mất hương vị Tin mừng, hoặc là những ngọn đèn không còn chiếu sáng (x. Mt 5:13-15).

Cha tin rằng chúng ta phải thấy lo lắng bất cứ khi nào người Ki-tô hữu chúng ta bận rộn với suy nghĩ rằng chúng ta chỉ trở nên đặc biệt khi chúng ta là lớp bột, khi chúng ta nắm giữ được nhiều không gian. Anh chị em biết rất rõ rằng đời sống của chúng ta được ngụ ý là “lớp men,” ở bất kỳ nơi nào và với bất kỳ người nào chúng ta gặp, ngay cả khi điều này cho thấy chẳng mang đến những ích lợi hữu hình và ngay lập tức (x. Tông huấn Evangelii Gaudium, 210). Vì là một Ki-tô hữu không có nghĩa là bó khung với một giáo lý, hay một đền thờ hoặc một nhóm sắc tộc. Là Ki-tô hữu tức là một sự gặp gỡ. Chúng ta là người Ki-tô hữu vì chúng ta đã được yêu thương và gặp gỡ, chứ không phải vì kết quả của sự chiêu dụ tín đồ. Là Ki-tô hữu tức là biết rằng chúng ta đã được tha thứ và được yêu cầu phải đối xử với tha nhân theo cùng một cách Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta. Vì “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35).

Anh chị em thân mến, khi suy nghĩ về nền tảng mà chúng ta được kêu gọi để sống ơn gọi rửa tội, thừa tác vụ và sự thánh hiến của anh chị em, cha xin nhắc lại lời của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI trong Thông điệp Ecclesiam Suam: “Giáo hội phải bước vào cuộc đối thoại với thế giới tại nơi Giáo hội hiện diện. Giáo hội phải có điều gì đó để nói, một thông điệp để đưa ra, một sự liên lạc để thực hiện” (số 65). Nói rằng Giáo hội phải bước vào một cuộc đối thoại không phải là đi theo một mốt thời trang, và càng không phải là một sách lược để gia tăng con số thành viên. Giáo hội bước vào cuộc đối thoại vì lòng trung thành với Đấng là Chúa và là Thầy của Giáo hội, là Đấng từ nguyên thủy, vì yêu thương đã mong muốn bước vào cuộc đối thoại như một người bạn và kêu gọi chúng ta đi vào tình bạn hữu với Người (x. Hiến chế Dei Verbum, 2). Là những môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô, ngay từ ngày đầu lãnh nhận bí tích rửa tội chúng ta đã được kêu gọi trở nên một phần trong cuộc đối thoại về ơn cứu độ và tình bạn này, và nhờ đó chúng ta là người đầu tiên được hưởng lợi ích.

Tại đây trên những miền đất này, người Ki-tô hữu học cách trở nên một bí tích sống động của cuộc đối thoại mà Thiên Chúa muốn khởi xướng với mỗi người nam và nữ, bất kỳ họ ở nơi nào. Một cuộc đối thoại mà chúng ta được kêu gọi bước vào theo gương của chính Chúa Giê-su, Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x. Mt 11:29), với tình yêu nồng cháy và vô vụ lợi, không có những tính toán và những giới hạn, và tôn trọng sự tự do của người khác. Trong tinh thần này, chúng ta có thể thấy những anh chị em lớn tuổi chỉ cho chúng ta con đường, vì với cuộc sống của mình họ đã làm chứng rằng cuộc đối thoại này là có thể; họ chỉ ra một “tiêu chuẩn cao” thách đố chúng ta và thúc giục chúng ta. Làm sao chúng ta không nghĩ đến Thánh Phanxico Assisi, là người ngay giữa đỉnh điểm của những cuộc Thập tự chinh đã đến gặp gỡ Quốc vương Sultan al-Malik al-Kamil? Hoặc Chân phước Charles de Foucault, quá xúc động trước đời sống khiêm nhường và ẩn dật của Chúa Giê-su ở Na-da-rét, Đấng mà ngài tôn thờ, đến mức ngài mong muốn trở thành một “người anh em của tất cả?” Hoặc một lần nữa, những người anh em Ki-tô hữu của chúng ta là những người chọn cách sống đoàn kết với những người khác, thậm chí tới mức độ cho đi cuộc sống của họ? Khi Giáo hội, lòng trung thành với sứ mạng mình đón nhận từ Chúa, bước vào cuộc đối thoại với thế giới và đưa ra thông điệp của mình, Giáo hội dự phần vào biến cố của tình huynh đệ đó với nguồn mạch sâu thẳm nhất không phải ở nơi chúng ta nhưng ở tình phụ tử của Thiên Chúa.

Là những người được thánh hiến, chúng ta được mời gọi để trải nghiệm cuộc đối thoại ơn cứu độ này trên hết như là một sự can thiệp cho những người được trao phó cho chúng ta. Cha nhớ có lần nói chuyện với một linh mục, cũng giống như anh chị em đây, sống trong một miền đất mà người Ki-tô hữu cũng chỉ là thiểu số. Ngài nói với cha rằng “Kinh Lạy Cha” đã mang một ý nghĩa vô cùng đặc biệt cho ngài, vì khi cầu nguyện giữa những người thuộc các tôn giáo khác, ngài cảm nhận được sức mạnh của lời kinh, “Xin cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày.” Lời cầu thay nguyện giúp của ngài là một nhà thừa sai, mở rộng ra cho dân tộc đó mà một cách nào đó được trao phó cho ngài, không phải để cai trị nhưng để yêu thương, và điều này khiến ngài đọc lời kinh với cảm xúc đặc biệt. Những người thánh hiến và các linh mục mang đến bàn thờ và trong lời cầu nguyện của họ đời sống của tất cả những người ở chung quanh họ; họ giữ thật sống động sức mạnh trao ban sự sống của Chúa Thánh Thần, giống như đi qua một cửa sổ nhỏ. Thật đẹp biết bao khi biết rằng, ở nhiều nơi khác nhau trong miền đất này, qua những tiếng nói của anh chị em, toàn thể tạo vật có thể liên tục thưa lên: “Lạy Cha.”

Như vậy, sự đối thoại trở thành lời cầu nguyện. Chúng ta có thể thực hiện nó hàng ngày nhân danh “tình huynh đệ của con người ôm ấp lấy toàn thể nhân loại, hiệp nhất họ và trả lại cho họ sự bình đẳng. Nhân danh tình huynh đệ này, đã bị xé tan bởi những chính sách cực đoan và chia rẽ, thao túng những hành động và tương lai của những người nam và nữ (Tài liệu về tình Huynh đệ con người, Abu Dhabi, 4 tháng Hai 2019). Một lời kinh không phân biệt, không chia tách hay gạt ra bên ngoài, nhưng ôm lấy đời sống của tha nhân. Một lời cầu thay nguyện giúp thưa lên với Chúa Cha, “Nguyện nước Cha trị đến.” Không bởi bạo lực, không bởi sự căm hờn, không bởi sắc tộc, tôn giáo hay uy thế kinh tế, nhưng bởi sức mạnh của lòng trắc ẩn tuôn đổ từ thập giá xuống cho toàn thể nhân loại. Đây là kinh nghiệm của phần lớn anh chị em.

Cha tạ ơn Chúa về tất cả những gì anh chị em đang làm như là những môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô ở đây trên đất nước Ma-rốc này, mỗi ngày khám phá ra cách để gieo trồng một tương lai hy vọng qua sự đối thoại, hợp tác và tình bạn. Bằng cách này, anh chị em lật mặt nạ và bóc trần mọi mưu toan lợi dụng những sự khác biệt và sự thiếu hiểu biết để gieo rắc sự sợ hãi, lòng căm ghét và xung khắc. Vì chúng ta biết rằng sự sợ hãi và căm ghét, khi được nuôi dưỡng và thao túng, làm mất ổn định những cộng đoàn của chúng ta và làm mất đi khả năng bảo vệ tinh thần.

Do vậy, cha khuyến khích anh chị em hãy đặt niềm khao khát duy nhất vào việc làm cho sự hiện hữu và tình yêu của Đức Ki-tô trở nên hữu hình, Đấng vì chúng ta đã tự ý trở nên nghèo khó để làm cho anh em trở nên giàu có (x. 2 Cr 8:9): tiếp tục là người anh em của những người thường bị bỏ rơi lại đằng sau, những người bé nhỏ và người nghèo, tù nhân và người di cư. Ước mong rằng đức ái của anh em sẽ trở nên sống động hơn bao giờ hết và từ đó trở thành con đường hiệp thông giữa các Ki-tô hữu thuộc mọi giáo phái hiện diện trong Ma-rốc: tính đại kết của đức ái. Ước mong rằng nó cũng sẽ là một con đường đối thoại và hợp tác với những anh chị em Hồi giáo của chúng ta, và với tất cả mọi người nam và nữ thiện chí. Đức ái, đặc biệt khi hướng đến những người dễ bị xúc phạm nhất, là cơ hội tốt nhất để chúng ta luôn tiếp tục xây dựng một văn hóa gặp gỡ. Ước mong rằng nó cũng sẽ trở thành một con đường cho những người trải qua sự đau khổ, những sự đấu tranh và bị loại trừ nhận thấy rằng họ là những thành viên của một gia đình nhân loại, dưới biểu ngữ của tình huynh đệ. Là những môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô, ước mong anh chị em luôn quan tâm đến phục vụ cho sự tiến bộ của công bằng và hòa bình, giáo dục trẻ em và người trẻ, bảo vệ và đồng hành với người già, người dễ bị xúc phạm, người khuyết tật và người bị áp bức, trong cùng tinh thần đối thoại và hợp tác.

Một lần nữa, cha cảm ơn tất cả anh chị em, về sự hiện diện và sứ mạng của anh chị em ở Ma-rốc này. Cảm ơn về sự phục vụ khiêm nhường và cẩn trọng của anh chị em, noi theo tấm gương của tiền nhân chúng ta trong đời sống thánh hiến, trong đó cha muốn gửi lời chào tới một người, đó là Sơ Ersilia. Sơ kính mến, thông qua Sơ, cha xin gửi lời chào thân ái đến các nữ và nam tu sĩ cao tuổi, là những người vì lý do sức khỏe, không thể hiện diện ở đây hôm nay, nhưng hiệp nhất với chúng ta trong lời cầu nguyện.

Tất cả anh chị em là những chứng nhân của một lịch sử vinh quang. Một lịch sử của những hy sinh, những hy vọng, những chiến đấu mỗi ngày, sống để phục vụ, kiên trì và chăm chỉ, vì tất cả mọi việc đều khó khăn, được thực hiện “nhờ những giọt mồ hôi đầm đìa trên trán.” Nhưng cho phép cha nói rằng “anh chị em có một lịch sử vinh quang để ghi nhớ và hồi tưởng, nhưng cũng là một lịch sử vĩ đại để hoàn tất! Hãy nhìn về tương lai, nhìn về nơi Chúa Thánh Thần sẽ sai anh chị em tới” (Vita Consecrata, 110). Bằng cách này, anh chị em sẽ tiếp tục sống những dấu chỉ của tình huynh đệ đó và Chúa Cha đã kêu gọi chúng ta, không khoan nhượng hay thụ động, nhưng như là những người tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn luôn đi trước chúng ta và mở ra những không gian hy vọng ở bất kỳ nơi nào có điều gì đó hay một ai đó trở nên vô vọng.

Xin Chúa chúc lành cho từng người trong anh chị em, và qua anh chị em gửi đến những thành viên của tất cả các cộng đoàn của anh chị em. Nguyện xin Thần Khí của Người giúp anh chị em đơm hoa kết trái: hoa trái của sự đối thoại, công bằng, hòa bình, sự thật, và yêu thương, để tại đây trong miền đất này được Chúa yêu thương thì tình huynh đệ có thể lớn mạnh hơn bao giờ hết. Và xin đừng quên cầu nguyện cho cha. Cảm ơn anh chị em!

Và bây giờ, chúng ta hãy đặt mình dưới sự chở che của Mẹ Maria Đồng trinh và đọc Kinh Truyền Tin.

[Văn bản chính: tiếng Ý] [Văn bản (tiếng Anh) của Vatican]


Xin lưu ý rằng Đức Thánh Cha có nhiều lúc nói ngoài văn bản soạn trước, và vì thế ZENIT sẽ cung cấp văn bản nói đầy đủ trong thời gian sớm nhất.



[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 1/4/2019]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét