Thứ Ba, 16 tháng 5, 2017

Đức Tổng Giám mục Auza làm nổi bật những lần hiện ra ở Fatima tại LHQ

Đức Tổng Giám mục Auza làm nổi bật những lần hiện ra ở Fatima tại LHQ

Đức Tổng Giám mục Auza làm nổi bật những lần hiện ra ở Fatima tại LHQ
Tượng Mẹ Maria Đồng Trinh được các tín hữu kiệu rước trước khi bắt đầu Thánh Lễ tại Đền thờ Đức Bà Fatima - AP
13/05/2017 12:32
(Vatican Radio) Đức Tổng Giám mục Bernardito Auza, Khâm sứ và là Quan sát viên Thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hợp quốc trình bày tại LHQ hôm thứ Sáu về những lần hiện ra tại Fatima trong một diễn văn với chủ đề “Một Trăm năm Fatima và Tính Thích hợp Muôn thuở của Thông điệp Hòa bình.”

Dưới đây là văn bản tiếng Anh bài diễn văn của Đức Tổng Giám mục Bernardito Auza
Liên Hợp quốc, New York, 12 tháng Năm, 2017
Kính thưa ngài Đại sứ Mendonça e Moura, Đại diện thường trực của Bồ đào nha tại Liên Hợp quốc, Kính thưa toàn thể quý vị, Kính thưa các diễn giả đáng kính, thưa toàn thể quý vị,
Đây là một niềm vui trọng đại cho riêng tôi và cho Phái Bộ Quan sát viên Thường trực của Tòa Thánh được kết hợp với Phái bộ Thường trực của Bồ đào nha tại Liên Hợp quốc chủ trì sự kiện kỷ niệm này trước lễ kỷ niệm 100 năm vào ngày mai lần hiện ra đầu tiên tại Fatima.
Ngay tại giây phút này, Đức Giáo hoàng Phanxico hạ cánh tại căn cứ không quân Monte Real ở Leiria, Bồ đào nha, và trong ít phút nữa sẽ gặp gỡ Tổng thống Bồ đào nha Marcelo Rebelo de Sousa. Trong suốt thời gian sự kiện của chúng ta đang diễn ra ở đây, ngài sẽ dùng máy bay trực thăng để đến sân vận động Fatima và sẽ di chuyển đến Đền thờ Đức Bà Fatima đúng vào giờ sự kiện của chúng ta kết thúc, ngài sẽ vào Nguyện đường Capelinha, một nguyện đường nhỏ kỷ niệm Những Lần Hiện Ra, để cầu nguyện và chuẩn bị cho nghi thức làm phép nến và đọc kinh Mân côi tối nay.
Với tất cả chúng ta không thể đến Fatima để cùng ngài đánh dấu kỷ niệm một trăm năm, tôi nghĩ đây là nơi thích hợp thứ hai, ở đây tại Liên Hợp quốc, để nói về Tính Thích hợp Muôn thuở của Thông điệp Hòa bình mà ba trẻ mục đồng đã làm chứng đích thực và ngày mai sẽ tròn 100 năm, một Bà mặc toàn đồ trắng nói Bà từ trời xuống loan báo cho các trẻ lần thứ nhất.
Trong khi chúng ta không thể đến Cova da Iria, một phần của Fatima đã đến đây tại trụ sở của Liên Hợp quốc. Bức tượng mà chúng ta có ở đây đã được làm phép bởi Đức Giáo hoàng Pi-ô XII ở Vatican tròn 70 năm vào ngày mai, năm 1947, nhân ngày kỷ niệm lần thứ mười ba lần hiện ra đầu tiên ở Fatima và được làm phép lại một lần nữa bởi Đức Giám mục Fatima ngày 13 tháng Mười, 1952, kỷ niệm năm thứ 35 lần hiện ra cuối cùng của Fatima. Sau lần làm phép đó ở Fatima, Tượng đã được chuyển sang Hoa kỳ, tại đó vào ngày 8 tháng Mười Hai, 1952, Tượng được đưa vào đây trong Liên Hợp quốc bởi Đức ông Harold Colgan, một linh mục người New Jersey, ngài trước đó sáu năm đã thành lập tổ chức về sau trở thành Đạo Binh Xanh và Hội Tông Đồ Fatima Thế giới. Cùng với một người bạn, Đức ông Colgan đã đem tượng vào trong Phòng Tĩnh tâm của Tiền sảnh Khách nơi nhiều người đọc kinh Mân Côi cầu cho hòa bình thế giới và kết thúc chiến tranh Triều Tiên.
Hôm nay sau gần 65 năm, bản sao của bức tượng đặt trong Nguyện đường nhỏ Những Lần Hiện Ra ở Fatima, trở lại với Liên Hợp quốc. Chúng ta hy vọng rằng những lời cầu nguyện cho hòa bình đã được dâng lên trước tượng này trong suốt thời gian sáu thập kỷ rưỡi, bởi hàng triệu người trên khắp nước Mỹ, Canada và nhiều quốc gia khác, có thể được nhậm lời theo một cách đặc biệt để chấm dứt cuộc chiến ở Syria, để chấm dứt mối đe dọa leo thang chiến tranh ở bán đảo Triều Tiên, để dừng lại bạo lực ở Nam Sudan, Somalia, Yemen, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo, và Đông Ukraina và những nơi khác đang trong xung đột. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho sự chấm dứt chủ nghĩa khủng bố, bách hại tôn giáo, sắc tộc và chủng tộc, những sự đàn áp không nương tay của chính thể chuyên chế, những liên minh ma túy gieo rắc cái chết và tội phạm có tổ chức, buôn bán người và những hình thức khác của nô lệ hiện đại, và nhiều cuộc bạo loạn trong các quốc gia khác nhau đã làm vấy máu và lòng hận thù trên thế giới.
Khi chúng ta nghiên cứu thông điệp mà ba trẻ mục đồng của Fatima, Lucia dos Santos và những người em họ Francisco và Jacinta Marto chứng thực rằng người Nữ được tượng trưng bằng bức tượng này đã nói với các em, chúng ta có thể nói rằng Mẹ Maria đặc biệt đến như một Đại sứ Hòa bình với một lệnh truyền để các em trở thành những thành viên nhân sự chủ chốt, sử dụng theo cách nói chuyên biệt của LHQ, Phái bộ Thường trực của Mẹ với tất cả các dân tộc. Và sứ mạng đó vẫn rất phù hợp cho hôm nay, với hơn 50 cuộc xung đột đang diễn ra trên khắp địa cầu mà Đức Giáo hoàng Phanxico gọi là một “Chiến tranh Thế giới theo từng vùng,” giống như Chiến tranh Thế giới thứ I cách đây một thế kỷ.
Tuy nhiên, trước khi tôi đến với “chương trình hòa bình” các mục đồng nói rằng vị Hiền mẫu Đại sứ Hòa bình này loan báo cho các trẻ, tôi muốn bắt đầu trước hết với tính xác thực của những lần hiện ra ở Fatima. Làm sao để chúng ta biết được những gì các trẻ mục đồng làm chứng rằng Đức Bà Fatima tỏ lộ cho các em là thật? Đối với những người không tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa hay tính siêu nhiên, những gì được cho là xảy ra ở Fatima một thế kỷ trước dường như thuộc về lĩnh vực truyện thần tiên hơn là sự kiện. Với những người tin vào Thiên Chúa nhưng quan niệm của họ thuộc về Thiên Chúa thoát khỏi thực tại trần thế, một sự can thiệp như vậy của một người nữ được cho là từ trời hiện xuống với các trẻ mục đồng tương tự như sự coi thường niềm tin. Đối với những người không thuộc Ki-tô giáo, với những Ki-tô hữu gặp khó khăn trong việc sùng kính Mẹ Chúa Giê-su theo Công giáo hay Chính thống, hay thậm chí với những người Công giáo đang phải đấu tranh với ý tưởng về những phép lạ hiện ra, những gì xảy ra ở Fatima dường như là sự mê tín của những người thiện chí nhưng cả tin.
Hầu hết những người không phải Công giáo và thậm chí nhiều người Công giáo đều ngạc nhiên khi họ biết rằng người Công giáo không buộc phải tin những gì được cho là đã xảy ra ở Fatima một thế kỷ trước. Họ không phải tin rằng Mẹ Maria đã hiện ra, hay tin vào bất kỳ điều gì Mẹ yêu cầu nơi các trẻ mục đồng. Trong thần học Công giáo, những gì xảy ra ở Fatima được gọi là “sự mặc khải riêng,” tức là nói đến những thị kiến và những lần hiện ra, được công nhận bởi Giáo hội là có giá trị cho niềm tin, đã diễn ra từ sự kiện toàn của Tân Ước. Khi Giáo hội công nhận một sự mặc khải riêng, người Công giáo không được kêu gọi để tin mặc khải đó giống như cách họ tin vào nội dung của Tin mừng hay nội dung của Truyền thống đã được truyền lại bởi những môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su. Đúng hơn nó được chấp nhận như đáng tin và cùng với những gì chúng ta có thể gọi là niềm tin con người, minh trí, hay ý thức chung được thanh tẩy.
Nói một cách khác, Giáo hội tìm được qua việc phân tích nghiên cứu chứng tá của Lucia, Francisco, và Jacinta thấy rằng các trẻ là những chứng nhân xác thực, thông điệp của các trẻ tường thuật lại không có bất kỳ điều gì trái nghịch lại với những gì Giáo hội xem là chân lý của đức tin hay của lý trí, và con người có thể được phép chấp nhận nó một cách khôn ngoan. Mục đích của những mặc khải riêng tư như vậy, theo thần học của Giáo hội, là giúp con người hiểu và sống những giáo huấn của Chúa Giê-su tại một thời điểm cụ thể, nhưng con người không bị buộc phải sử dụng sự trợ giúp đó, cho dù Giáo hội nói rằng không được vô tình xem nhẹ nó.
Chúng ta hãy áp dụng những nguyên tắc này cho cách chúng ta hiểu được phép lạ công khai đã xảy ra ngày 13 tháng Mười, 1917, trong lần hiện ra cuối cùng. Hai tháng trước đó, các trẻ nói rằng Mẹ Maria hứa sẽ có một phép lạ để giúp mọi người tin những điều các trẻ mục đồng nói. Bảy mươi ngàn người đã có mặt, giữa trận mưa như trút nước, và không chỉ có những người tin. Cũng có những người được miêu tả như là những người tò mò và cả những người mạnh mẽ chống lại tôn giáo và các lực lượng chống giáo sĩ, các nhà báo và những người hoài nghi, những người muốn tận mắt chứng kiến sự lừa gạt khi không có phép lạ nào xảy ra. Đến một thời gian nhất định khi các trẻ được cho là đang nghe thấy và nhìn thấy Đức Bà là Đấng người khác không thể nhận biết được, các trẻ chỉ tay hướng lên trên, đám mây đen tách ra, và mặt trời hiện ra như một vầng mờ đục, cái đĩa quay tròn trên bầu trời và cuối cùng lao về hướng trái đất trước khi đi theo đường ngoằn ngoèo trở về vị trí bình thường của nó.
Người ta la hoảng lên lo cho mạng sống. Các nhà báo từ tờ báo của Lisbon O Dia miêu tả những gì họ và người khác quan sát được:
“Vào lúc một giờ chiều, lúc giữa trưa theo giờ mặt trời, cơn mưa tạnh. Bầu trời, màu xám lóng lánh như ngọc trai, tỏa sáng khung cảnh khô cằn bao la bằng một loại ánh sáng kỳ lạ. Mặt trời có một lớp mạng mỏng như sa trong suốt che phủ để con mắt có thể dễ dàng nhìn thẳng vào. Tông màu xám ngọc trai chuyển thành một tấm thảm màu bạc phân chia ra khi những đám mây bị chia tách, và người ta nhìn thấy mặt trời, được bao phủ bởi cùng một lớp ánh sáng xám mỏng như sa, xoay tít và quay theo đường tròn của những đám mây bị tách ra. Một tiếng kêu phát ra từ miệng tất cả mọi người và họ quỳ sụp xuống mặt ruộng bùn lầy. Ánh sáng biến thành một màu xanh dương tuyệt mỹ trông dường như nó vừa đi xuyên qua cửa sổ kính màu của thánh đường và tỏa ra trên những người đang quỳ xuống với đôi tay giang ra. Ánh xanh dương nhạt dần và rồi ánh sáng dường như lại đi qua kính màu vàng. Màu vàng tô lên những chiếc khăn tay màu trắng, tô lên những chiếc váy màu tối của phụ nữ. Chúng tỏa ra phủ trên các cây, trên các tảng đá và trên sườn dốc núi. Mọi người bật khóc và gỡ mũ nón trên đầu cầu nguyện trong phép lạ mà họ đã chờ đợi.”
Avelino de Almeida, biên tập của tờ O Seculo, một tờ báo lớn khác của Lisbon, người mục đích ban đầu đến để chế nhạo sự hiện ra, tuy nhiên lại được thúc đẩy để viết ra những gì ông quan sát được, “Từ trên đường, nơi những chiếc xe hơi đậu và nơi hàng trăm con người không đủ can đảm để dẫm xuống bùn đang chen chúc nhau, người ta có thể nhìn thấy đám đông vô số người quay nhìn về hướng mặt trời, nó xuất hiện vượt ra khỏi các đám mây và nằm trên đỉnh cao nhất của nó. Nó trông giống như một tấm bảng bằng bạc màu đục và có thể nhìn thẳng vào nó mà không có một chút khó chịu. Có thể là một nhật thực đang xảy ra. Nhưng ngay lúc đó một tiếng hô thật lớn vang lên và người ta có thể nghe được những người quan sát ở sát cạnh hô lên: ‘Một phép lạ! Một phép lạ!’ Trước những đôi mắt kinh ngạc của đám đông, thể hiện ngoài là người ngoan đạo vì họ đứng đầu trần, đang háo hức nhìn bầu trời, thì mặt trời run lên, làm những chuyển động lạ thường vượt ra ngoài mọi quy luật của vũ trụ – mặt trời ‘nhảy múa’ theo cách diễn đạt của những người dân.” Cuối cùng khi mọi việc kết thúc, mặt đất và quần áo của mọi người đều khô ráo, cho dù có trận mưa như trút nước.
Làm sao một việc như vầy được đánh giá bởi chúng ta gần một thế kỷ sau? Có thể nào 70.000 người, trong đó có nhiều người chống giáo sĩ, những nhà báo hoài nghi, và những nhân viên cộng đồng chống đối, và các giới chức Giáo hội tất cả đều trải nghiệm một thị kiến chung liên quan đến mặt trời? Ngay cả nếu đó chưa phải là vấn đề, thì chuyện gì xảy ra với quần áo lúc đó, trong một tíc tắc, từ ướt sũng thành khô ráo hoàn toàn?
Nhà vô thần Richard Dawkins, trong quyển sách Ảo Giác Của Thiên Chúa của ông, đã thừa nhận, “Không dễ để giải thích được tại sao bảy mươi ngàn người có thể cùng có chung ảo giác,” tuy nhiên ông lại tiếp tục đi đến sự khẳng định rằng tất cả mọi người phải bị ảo giác tập thể vì nó “thậm chí sẽ khó chấp nhận hơn việc nó thực sự xảy ra nếu không có phần còn lại của thế giới, bên ngoài Fatima, cũng nhìn thấy nó — và không chỉ nhìn thấy, nhưng cảm nhận nó như là một sự phá hủy thảm khốc của thái dương hệ.” Nhưng khoa học hay thậm chí lý trí có thể gạt bỏ dữ liệu của 70.000 người tất cả đều chứng thực và xem những người đó đơn giản là bị lừa gạt.
Sự thừa  nhận của tính đáng tin cậy chung của đám đông khổng lồ và đa dạng đó, không phải tất cả mọi người ở đó đều sẵn sàng đón một phép lạ, phải thừa nhận rằng họ có mặt ở đó với con số khổng lồ như vậy vì các trẻ nói Bà đã hứa trước đó hai tháng rằng sẽ có một phép lạ vào ngày 13 tháng Mười, chứng cớ cụ thể của những bộ quần áo hoàn toàn khô ráo ngay lập tức, đã làm cho nhiều người trong suốt chiều dài của thế kỷ trước đi đến kết luận — trên nền tảng của sự khôn ngoan của con người hay điều mà chúng ta gọi là đức tin tự nhiên, một loại đức tin chúng ta chấp nhận là sự thật đối với những điều chúng ta không tự mình quan sát trên căn bản tính xác thực của những người làm chứng — rằng những lần hiện ra ở Fatima là đáng tin.
Và đó là điều, chúng ta có thể nói như vậy, làm cho những gì xảy ra ở Fatima mở ra với mọi người, vì thậm chí người Công giáo cũng đánh giá tính xác thực của Fatima, như mọi sự mặc khải riêng tư, chủ yếu trên nền tảng của đức tin của con người hoặc việc sử dụng lý trí, cụ thể là, có thể dựa trên chứng cớ của những gì được cho là đã xảy ra có thực sự xảy ra không. Những chi tiết cần phải được xem xét có thể được tìm thấy trong những tờ báo chống Công giáo của một thế kỷ trước làm chứng rằng một điều gì đó mà khoa học không thể giải thích thực sự đã xảy ra, thêm tính xác thực mạnh mẽ hơn cho những gì các trẻ đã làm chứng cho điều này.
Với điều được xem là nền tảng quan trọng đó, cuối cùng tôi xin quay lại với “chương trình hòa bình” mà các trẻ mục đồng nói rằng Người Nữ, Người hứa cho phép lạ mặt trời, truyền đạt lại cho các em. Nó có một số chi tiết thực sự có ý nghĩa sâu xa và mệnh lệnh cụ thể cho những ai có niềm tin Công giáo, nhưng tôi muốn tập trung vào điều mà tôi gọi là những bài học chung cho tất cả mọi người liên quan đến việc theo đuổi hòa bình.
Trước tiên là về sự cần thiết của hoán cải. Hoán cải có nghĩa là thay đổi, thay đổi cách suy nghĩ và lối sống của một người, kiểm tra lại suy nghĩ, lời nói, hành động và tính ù lì và nhìn đến những cách họ đang chia rẽ, hoặc gây hại, hay phá hủy, hơn là xây dựng hòa bình, huynh đệ và hiệp nhất. Quá thiếu hòa bình trên thế giới xuất phát từ sự thật rằng con người không chịu hoán cải thoát khỏi những con đường hiếu chiến, thoát khỏi cách xem người khác như đồ vật, thoát khỏi tính vô nhân hay đối xử tàn tệ với người khác. Quá thiếu hòa bình do sự tập trung quá mức vào những điều sai trái người khác đã làm hơn là cân nhắc về những thiệt hại do chính mình tạo ra, hay do những chính sách của riêng quốc gia mình, đã gây ra và dẫn đến việc người khác phải đi tìm phương thuốc bằng bất cứ cách nào. Đức Giáo hoàng Phanxico đã và đang tìm cách kêu gọi cộng đồng quốc tế quay lại với sự hoán cải chung này, kêu gọi chúng ta hãy hoán cải thoát khỏi sự sùng bái thần tượng đồng tiền mà nó có thể đưa toàn bộ các dân tộc đến chỗ chối bỏ và làm đau khổ người nghèo, từ việc nhen nhúm thương mại vũ trang chỉ dẫn đến việc chém giết tàn sát mà những chính thể chuyên chế và khung bố có thể thực hiện, thoát khỏi sự thiếu lòng hiếu khách khi con người phải chạy trốn khỏi những hoàn cảnh chiến tranh, nghèo đói hay thảm họa tự nhiên. Nếu không có hoán cải, hòa bình sẽ vẫn chỉ đơn thuần là một ảo tưởng. Hoán cải là một điều kiện mấu chốt đầu tiên cho hòa bình.
Bài học chung thứ hai là nơi khởi đầu của nền hòa bình. Các trẻ mục đồng nói rằng sau khi Mẹ Maria cho thấy những thị kiến về sự kinh khủng của hỏa ngục, của sự phá hủy sẽ bị chủ nghĩa cộng sản vô thần đem đến, và của sự bách hại Giáo hội lên tới mức ám sát vị giám mục áo trắng — tất cả đều bị gây nên bởi tội và đó là điều mà thế giới cần phải hoán cải — Mẹ miêu tả cho các em một phương thuốc, đó là sự thánh hiến cho Trái Tim Vẹn Sạch của Mẹ. Ý nghĩa của việc này là một cam kết tìm con đường noi theo trái tim của Mẹ, một trái tim  người Ki-tô hữu tin là tinh tuyền và trọn vẹn, khôn ngoan và vâng lời, trung tín và đầy thao thức, một trái tim yêu mến Thiên Chúa trọn vẹn và yêu thương tha nhân bằng tình yêu của Thiên Chúa. Với một trái tim như vậy, năm năm trước khi được chọn lên ngôi giáo hoàng, năm 2000, Đức Giáo hoàng Benedict XVI tương lai đã viết, “còn hùng mạnh hơn mọi loại súng đạn và vũ khí” và có khả năng thay đổi lịch sử. Hòa bình bắt đầu từ tâm hồn. Nếu tâm hồn không có hòa bình, sẽ rất khó có thể trở thành người xây dựng hòa bình, trở thành người xây dựng và gìn giữ. Con người phải được biến đổi trước. Và từ sự biến đổi đó cuộc cách mạng hòa bình sẽ tự bắt nguồn, như chúng ta đã thấy trong những nỗ lực và sự thành công của những nhà kiến tạo hòa bình trong những thế kỷ gần đây.
Bài học chung thứ ba là cầu nguyện. Cầu nguyện là một khí cụ của hòa bình. Các trẻ mục đồng nói rằng Mẹ Maria yêu cầu các em cầu nguyện và hy sinh cho sự hoán cải của tha nhân để bình an trở lại với tâm hồn của họ. Mẹ yêu cầu các em đọc những lời kinh nguyện cụ thể, như chính Kinh Mân Côi và những kinh giữa các chục kinh Mân côi, hoặc vào ngày thứ Bảy đầu tháng. Nhưng có hai bài học chung về cầu nguyện. Thứ nhất là giá trị chủ quan của lời cầu nguyện, lời cầu nguyện làm biến đổi người đang cầu nguyện, đặc biệt khi một người cầu nguyện một cách khiêm nhường và xin lòng thương xót. Ngay cả những người không tín ngưỡng cũng công nhận rằng đọc kinh có một ảnh hưởng tích cực trên con người, một điều được chứng thực bởi nhiều cuộc nghiên cứu tâm lý và y khoa. Nhưng thông điệp của Fatima chứa đựng một bài học về giá trị khách quan của lời cầu nguyện, rằng cầu nguyện có thể thay đổi không chỉ thế giới trong tâm hồn của người cầu nguyện nhưng cả thế giới bên ngoài. Và ngoài bất kỳ hành động xây dựng hòa bình nào, Mẹ Maria đòi hỏi các trẻ mục đồng phải cầu nguyện, cầu nguyện cho sự hoán cải của người khác, cầu nguyện cho sự hoán cải của nước Nga thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản vô thần Bôn-xê-víc vừa chớm nở mà Mẹ tiên báo rằng sẽ gây hại nặng nề cho thế giới, cầu nguyện cho đức giám mục áo trắng người sẽ bị bắn. Những lời kinh nguyện này dường như đã có kết quả, như Thánh Gio-an Phao-lô II nói tại Fatima năm 1982 và năm 2000, khi ngài tạ ơn Đức Bà và cám ơn Jacinta vì những lời cầu nguyện đã cứu mạng sống của ngài và năm 1991, sau những biến cố quan trọng của năm 1989, khi ngài tin rằng qua lời những lời cầu nguyện Mẹ Maria “đã dẫn đưa các dân tộc về bến tự do bằng sự dịu dàng của tình mẫu tử. Mẹ Maria nói rằng trong công cuộc hòa bình, trước khi có hành động, như một điều không thể thiếu, cầu nguyện và hy sinh phải đi trước.
Và bài học thứ tư và là bài học cuối cùng là tính cần thiết có sự tham gia của tất cả mọi người trong công cuộc xây dựng hòa bình. Thật kinh ngạc khi Mẹ Maria không ưu tiên trực tiếp đến với các nguyên thủ của chính phủ hay những nhà ngoại giao hoặc những nhà lãnh đạo tôn giáo để tranh thủ ảnh hưởng của họ trong vấn đề hòa bình, nhưng lại đến với ba trẻ thiếu nhi đơn sơ không được học hành nhiều và trao phó cho các em một thông điệp, những bí mật và một nhiệm vụ đặc biệt cho công cuộc hòa bình và những ích lợi cho các linh hồn và thế giới. Những tiêu chuẩn lựa chọn của Mẹ Maria đưa ra cho thấy rằng mọi người đều có một vai trò, ngay cả những người mà thế giới coi là tầm thường, hoặc bất tài hay quá nhỏ bé. Nếu các trẻ mục đồng được chọn, và các trẻ đã có thể đáp lời một cách toàn tâm toàn ý như các em đã làm, thì đó là một dấu hiệu cho thấy những gì là có thể đối với mọi người.
Và như vậy, khi chúng ta đánh dấu kỷ niệm 100 năm Fatima, chúng ta nắm bắt được rằng chúng ta không đơn thuần kỷ niệm một loạt những sự kiện trong quá khứ, nhưng là một điều, tôi tin rằng, rất cụ thể, luôn có tính hợp thời, cho hiện tại của chúng ta và cho tương lai của chúng ta. Thông điệp hòa bình mà các trẻ nói rằng của Đức Bà từ trời chuyển xuống, và những việc thực hành hối cải, hoán cải tâm hồn, cầu nguyện và cam kết như Mẹ đã hướng dẫn, cũng quan trọng cho nền hòa bình của thế giới hôm nay như trong quá khứ 100 năm trước.
Khi Đức Thánh Cha Phanxico ở Fatima tối nay và ngày mai dẫn dắt tất cả người Công giáo trên toàn thế giới trong lời cầu nguyện cho hòa bình và với lòng tri ân vì gia tài hằng sống được trao ban bởi vị Hiền Mẫu Đại Sứ Hòa Bình, cả chúng ta nữa, cùng họp nhau tại Liên Hợp quốc đây, hãy cam kết bản thân hoàn thành tốt phận vụ của mình, như Francisco, Jacinta và Lucia, để đáp lại tiếng gọi cao quý và công cuộc khẩn thiết để xây dựng hòa bình.
Xin cảm ơn quý vị rất nhiều.

[Nguồn: radiovaticana]



[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 14/05/2017]



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét