Sứ điệp Ngày Di Dân và Người Tị Nạn Thế Giới
Người di cư Châu Phi đang ở trên mũi của một thuyền đánh cá cũ khi họ được chuyển đến cảng Trapani ở Sicily. - REUTERS
21/08/2017 11:05
(Vatican Radio) Sứ điệp của Đức Thánh Cha cho Ngày Di Dân và Người Tị Nạn Quốc tế được Vatican công bố hôm thứ Hai.
Trong sứ điệp Đức Thánh Cha nói rằng cung cấp cứu trợ cho người di cư và tị nạn là một “trọng trách mà Giáo hội muốn chia sẻ với tất cả mọi người có tín ngưỡng và những người thiện chí, là những người được kêu gọi để có sự hồi đáp lại trước nhiều thách đố của tình trạng di cư hiện tại với lòng quảng đại, sự nhanh lẹ, khôn ngoan và nhìn xa trông rộng, mỗi người tùy theo khả năng riêng của mình.”
Dưới đây là Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxico nhân Ngày Di Dân và Người Tị Nạn Thế Giới lần thứ 104:
“Chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập người di cư và tị nạn”
Anh chị em thân mến!
“Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19:34).
Trong suốt những năm đầu của triều đại của tôi, tôi đã liên tục lặp đi lặp lại điều quan tâm đặc biệt của tôi cho tình hình đáng thương của nhiều người di cư và tị nạn chạy trốn chiến tranh, ngược đãi, thảm họa thiên nhiên và nghèo đói. Tình hình này đích thực là một “dấu chỉ của thời đại” mà tôi đã cố diễn giải, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, kể từ khi tôi đến thăm Lampedusa ngày 8 tháng Bảy năm 2013. Khi tôi bắt đầu thành lập Bộ Thúc đẩy Sự Phát triển Toàn diện Con người, tôi muốn có một bộ – hiện tại đang dưới sự hướng dẫn trực tiếp của tôi – để bày tỏ mối quan tâm lo lắng của Giáo hội đối với những người di cư, người di tản, người tị nạn và nạn nhân của tình trạng buôn người.
Mỗi người khách lạ gõ cửa nhà của chúng ta là một cơ hội để gặp gỡ Chúa Giê-su, Đấng đã đồng hóa với những người khách lạ ở mọi độ tuổi được chào đón và bị từ chối (Mt 25:35-43). Thiên Chúa trao phó cho tình yêu mẫu tử của Giáo hội từng con người bị buộc phải rời bỏ quê hương để đi tìm một tương lai tốt đẹp hơn [1]. Sự đoàn kết này phải được diễn tả một cách cụ thể ở từng giai đoạn của việc di cư – từ khi bắt đầu chuyến đi cho đến khi tới nơi và trở về. Đây là một trọng trách mà Giáo hội muốn chia sẻ với tất cả mọi người có tín ngưỡng và những người thiện chí, là những người được kêu gọi để có sự hồi đáp lại trước nhiều thách đố của tình trạng di cư hiện tại với lòng quảng đại, sự nhanh lẹ, khôn ngoan và nhìn xa trông rộng, mỗi người tùy theo khả năng riêng của mình.
Liên quan đến vấn đề này, tôi mong muốn tái khẳng định rằng “sự hồi đáp chung của chúng ta có thể được kết nối bằng bốn động từ: chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập” [2].
Xét theo tình hình hiện tại, chào đón có nghĩa là đưa ra được nhiều lựa chọn hơn để người di cư và tị nạn đến được những quốc gia đích đến một cách an toàn và hợp pháp. Việc này kêu gọi một sự cam kết cụ thể để tăng cường và làm đơn giản hóa tiến trình cấp thị thực (visa) nhân đạo và đoàn tụ gia đình. Đồng thời, tôi hy vọng rằng nhiều quốc gia sẽ thông qua các chương trình tài trợ tư nhân và cộng đồng, và mở ra những hành lang nhân đạo cho những người tị nạn đặc biệt dễ bị xâm phạm. Ngoài ra, cần phải cấp thị thực tạm thời đặc biệt cho những người chạy trốn những cuộc xung đột ở các quốc gia láng giềng. Những vụ trục xuất người di cư và tị nạn mang tính tập thể và tùy tiện không phải là giải pháp thích hợp, đặc biệt nơi con người bị trả về với những quốc gia không bảo đảm sự tôn trọng nhân phẩm và quyền căn bản [3]. Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc cung cấp nơi ở ban đầu phù hợp và có giá trị cho người di dư và tị nạn. “Mở rộng thêm nhiều chương trình chào đón, hiện đã được bắt đầu tại nhiều quốc gia khác nhau, dường như đang mở ra một sự gặp gỡ giữa con người và làm cho chất lượng phục vụ tốt hơn và bảo đảm được sự thành công” [4]. Nguyên tắc tập trung vào nhân vị, được Đấng Tiền nhiệm của tôi, Đức Benedict XVI, khẳng định chắc chắn, [5] bắt buộc chúng ta luôn phải ưu tiên sự an toàn cho con người vượt trên an ninh quốc gia. Vì vậy, cần phải bảo đảm rằng các nhân viên có trách nhiệm canh giữ biên giới phải được đào tạo kỹ lưỡng. Hoàn cảnh của những người di cư, những người tìm nơi ẩn náu và người tị nạn đòi buộc rằng họ phải được bảo đảm sự an toàn con người của họ và tiếp cận được những dịch vụ căn bản. Vì lợi ích của phẩm giá nền tảng của mỗi nhân vị, chúng ta phải cố gắng tìm ra những giải pháp thay thế cho việc cầm giữ những người đi vào một quốc gia một cách bất hợp pháp [6].
Động từ thứ hai – bảo vệ – có thể được hiểu như một chuỗi những bước thực hiện nhằm bảo vệ quyền và phẩm giá của người di cư và tị nạn, không bị lệ thuộc vào tình trạng pháp lý của họ [7]. Sự bảo vệ đó được bắt đầu từ quốc gia quê hương của họ, và phải đưa ra được thông tin thật và có xác minh trước khi khởi hành, và bảo đảm được sự an toàn tránh những hoạt động tuyển dụng bất hợp pháp [8]. Việc này phải được thực hiện, với khả năng có thể, trong quốc gia đích đến, bảo đảm cho họ có được sự trợ giúp phù hợp của lãnh sự quán, quyền được giữ lại giấy tờ tùy thân của họ, được tiếp cận với pháp lý một cách công bằng, khả năng có thể mở một tài khoản ngân hàng riêng, và nhu cầu tối thiểu đủ cho cuộc sống hiện tại. Khi được công nhận và đánh giá đúng giá trị, tiềm năng và những kỹ năng của người di cư, người tìm nơi ẩn náu và người tị nạn là một nguồn lực thật sự cho cộng đồng đón nhận họ [9]. Đây là lý do tại sao tôi hy vọng rằng, trong những quốc gia đích đến, người di cư có thể được tự do di chuyển, có cơ hội tìm việc làm, và tiếp cận được với những phương tiện truyền thông, trong sự tôn trọng phẩm giá của họ. Với những người quyết định trở về quê hương của họ, tôi muốn nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát triển những chương trình tái hội nhập xã hội và nghề nghiệp. Hội nghị Quốc tế về Quyền của Trẻ em đã đưa ra một nền tảng pháp lý chung cho việc bảo vệ những người di cư vị thành niên. Những trẻ này phải được tách ra khỏi bất kỳ một hình thức giam giữ liên quan đến tình trạng di cư. Và khi các em đủ tuổi các em phải được bảo đảm quyền được ở lại và quyền được tiếp tục việc học của các em. Phải có những chương trình chăm sóc và giám hộ tạm thời cho các trẻ em không có người thân đi kèm và những trẻ bị tách ra khỏi gia đình [10]. Quyền về quốc tịch toàn cầu phải được công nhận và chứng thực đầy đủ cho những trẻ em sơ sinh. Có thể dễ dàng tránh cho người di cư và tị nạn đôi khi không rơi vào tình trạng không được công nhận quyền công dân bằng cách thông qua “pháp chế về quốc tịch phù hợp với những nguyên tắc căn bản của luật quốc tế” [11]. Không được giới hạn sự tiếp cận với hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia và chương trình trợ cấp dựa trên tình trạng di cư, cũng như không làm ảnh hưởng đến việc chuyển giao những đóng góp của họ nếu bị hồi hương.
Thăng tiến có nghĩa là một nỗ lực kiên quyết bảo đảm rằng tất cả những người di cư và tị nạn – cũng như những cộng đồng chào đón họ – có quyền để có thể đạt được tiềm năng của họ, trong tất cả mọi chiều kích đóng góp cho nhân loại theo chương trình của Đấng Tạo Dựng [12]. Trong vấn đề này, chúng ta phải công nhận gái trị thật của chiều kích tôn giáo, bảo đảm cho mọi người nước ngoài trong bất kỳ quốc gia nào quyền tự do tin và thực hành niềm tin tôn giáo. Nhiều di dân và người tị nạn có những khả năng phải được công nhận và đánh giá thích đáng. Vì, “về bản chất tự nhiên, lao động mang ý nghĩa hợp nhất các dân tộc” [13], tôi khuyến khích một nỗ lực kiên quyết để thăng tiến tính bao dung xã hội và nghề nghiệp của người di cư và tị nạn, bảo đảm cho tất cả – kể cả những người đi tìm nơi ẩn náu – cơ hội có việc làm, hướng dẫn ngôn ngữ và quyền công dân có giá trị, cùng với thông tin phù hợp được dịch sang tiếng mẹ đẻ của họ. Trong trường hợp những di dân tuổi vị thành niên, việc tham gia lao động của các em phải được kiểm soát để tránh sự bóc lột và những nguy hiểm cho sự phát triển và trưởng thành của các em. Năm 2006, Đức Benedict XVI đã làm nổi bật, trong bối cảnh của sự di cư, gia đình là “một nơi và một nguồn cội của văn hóa sự sống và một yếu tố chính cho sự hòa hợp các giá trị” [14]. Tính toàn vẹn của gia đình phải được thúc đẩy, hỗ trợ cho sự đoàn tụ gia đình – gồm cả ông bà, các cháu và anh em ruột – không lệ thuộc vào những nhu cầu về tài chính. Di dân, người tìm nơi ẩn náu và người tị nạn khuyết tật phải có được sự hỗ trợ và ủng hộ nhiều hơn. Chân nhận những nỗ lực đáng tán dương của nhiều quốc gia, liên quan đến sự hợp tác quốc tế và cứu trợ nhân đạo, tôi hy vọng rằng việc đưa ra sự hỗ trợ này sẽ phải xét đến những nhu cầu (chẳng hạn trợ giúp y tế và xã hội, cũng như giáo dục) của những quốc gia đang phát triển đón nhận một dòng người di cư và tị nạn đáng kể. Tôi cũng hy vọng rằng những cộng đồng địa phương đang trong nguy cơ và phải đối mặt với khó khăn về vật chất, sẽ được xét đến trong những nhóm được thụ hưởng cứu trợ [15].
Động từ cuối cùng – hội nhập – liên quan đến những cơ hội tạo sự phong phú đa văn hóa do sự có mặt của người di cư và tị nạn mang đến. Sự hội nhập không phải là “một sự đồng hóa làm cho những người di cư phải triệt tiêu hay quên đi giá trị văn hóa của riêng họ. Nhưng sự tiếp xúc với người khác giúp khám phá ra ‘sự bí mật’ của họ, mở rộng để đón chào những mặt giá trị của họ và từ đó góp phần cho việc hiểu biết lẫn nhau. Đây là một tiến trình lâu dài nhắm định hình cho các xã hội và các nền văn hóa, ngày càng xây dựng chúng thành một sự phản ánh cho những món quà đa diện của Thiên Chúa ban cho con người” [16]. Tiến trình này có thể được thúc đẩy qua việc cấp quyền công dân không đòi hỏi những tiêu chuẩn về tài chính hay ngôn ngữ, và qua việc cung cấp cơ hội hợp pháp cho di dân đặc biệt đối với những người chấp nhận định cư lâu dài trong đất nước tiếp nhận họ. Tôi nhắc lại sự cần thiết phải thúc đẩy một văn hóa gặp gỡ theo mọi con đường khả thi – bằng cách gia tăng những cơ hội giao lưu đa văn hóa, chứng minh bằng tài liệu và truyền bá những cách thực hành hội nhập tốt nhất, và phát triển những chương trình giúp chuẩn bị cho các cộng đồng địa phương về các tiến trình hội nhập. Tôi xin nhấn mạnh đến trường hợp đặc biệt của những người bị buộc phải rời bỏ đất nước đích đến của họ vì lý do khủng hoảng nhân đạo. Những người này phải được bảo đảm sự hỗ trợ thích hợp cho việc hồi hương và các chương trình tái hội nhập hiệu quả ở quốc gia quê nhà của họ.
Phù hợp với truyền thống mục vụ của mình, Giáo hội sẵn sàng cam kết thực hiện tất cả những sáng kiến được đề cập đến ở trên. Tuy nhiên để có thể đạt được kết quả mong muốn, sự đóng góp của các cộng đồng chính trị và xã hội dân sự là không thể thiếu được, mỗi cộng đồng tùy theo trách nhiệm của riêng mình.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hợp quốc được tổ chức ở New York ngày 29 tháng Chín năm 2016, các nhà lãnh đạo chính trị đã mạnh mẽ bày tỏ mong muốn đưa ra hành động quyết định để hỗ trợ những người di cư và tị nạn để cứu mạng sống của họ và bảo vệ các quyền cho họ, chia sẻ trách nhiệm này trên mức độ toàn cầu. Để đạt mục tiêu này, các chính phủ đã cam kết phác thảo và thông qua hai Hiệp Ước Toàn Cầu trước cuối năm 2018, một dành cho người tị nạn và một dành cho người di cư.
Anh chị em thân mến, trong khi những tiến trình này vừa được bắt đầu, những tháng sắp tới là một cơ hội duy nhất để ủng hộ cho những hoạt động cụ thể mà tôi đã miêu tả qua bốn động từ. Vì vậy tôi mời gọi anh chị em tận dụng mọi cơ hội để chia sẻ sứ điệp này với tất cả các nhân vật chính trị và xã hội có liên quan (hay những người đang tìm cách tham gia) trong tiến trình dẫn đến việc thông qua hai Hiệp Ước Toàn Cầu này.
Hôm nay, ngày 15 tháng Tám, chúng ta mừng Lễ Mẹ Maria Lên Trời. Chính Mẹ Rất Thánh của Chúa đã phải trải qua sự khổ cực của cuộc lưu đày (Mt 2:13-15), bước theo cuộc hành trình của Con của Mẹ lên đồi Can-vê, và bây giờ cùng thông phần vinh quang của Ngài trên nước trời. Nhờ sự can thiệp của tình mẫu tử của Mẹ chúng ta hãy phó thác lên Mẹ tất cả những niềm hy vọng của người di cư và người tị nạn trên thế giới và những nguyện vọng của các cộng đồng tiếp nhận họ, để đáp lại lệnh truyền tối cao của Thiên Chúa, tất cả chúng ta học được cách yêu thương tha nhân như chính bản thân chúng ta.
Thành Vatican, 15 tháng Tám 2017
Lễ trọng mừng Mẹ Maria Đồng trinh Đầy Ơn Phúc về Trời
[1] X. Đức Pi-ô XII, Tông huấn Exsul Familia, Titulus Primus, I.
[2] Diễn từ trước các Tham dự viên tại Diễn đàn Quốc tế về “Di cư và Hòa bình,” 21 tháng Hai, 2017.
[3] X. Tham luận của Quan sát viên Thường trực của Tòa thánh tại Phiên họp 103 của Hội đồng IOM, 26 tháng Mười Một 2013.
[4] Diễn từ trước các Tham dự viên tại Diễn đàn Quốc tế về “Di cư và Hòa bình,” 21 tháng Hai, 2017.
[5] X. Đức Benedict XVI, Tông thư Caritas in Veritate, 47.
[6] X. Tham luận của Quan sát viên Thường trực của Tòa thánh tại Phiên họp thứ 20 của Hội đồng Nhân quyền LHQ, 22 tháng Sáu 2012.
[7] X. Đức Benedict XVI, Tông thư Caritas in Veritate, 62.
[8] X. Hội đồng Giáo hoàng về Chăm sóc Mục vụ cho Di dân và các Dân tộc bản địa, Instruction Erga Migrantes Caritas Christi, 6.
[9] X. Đức Benedict XVI, Diễn từ trước các tham dự viên tại Hội nghị Thế giới lần thứ 6 về Chăm sóc Mục vụ cho Di dân và các Dân tộc Bản địa, 9 tháng Mười Một 2009.
[10] X. Đức Benedict XVI, Sứ điệp Ngày Quốc tế Người Di cư và Tị nạn (2010) và Tham luận của Quan sát viên Thường trực của Tòa Thánh tại Phiên họp Thường kỳ lần thứ 26 của Hội đồng Nhân Quyền về Nhân quyền cho Người Tị nạn, 13 tháng Sáu 2014.
[11] Hội đồng Giáo hoàng về Chăm sóc Mục vụ cho Di dân và các Dân tộc Bản địa và Hội đồng Giáo hoàng Cor Unum, Chào đón Đức Ki-tô nơi những Người Tị nạn và những Người bị cưỡng bức Di tản, 2013, 70.
[12] X. Đức Phao-lô VI, Tông thư Populorum Progressio, 14.
[13] Đức Gio-an Phao-lô II, Tông thư Letter Centesimus Annus, 27.
[14] Đức Benedict XVI, Sứ điệp Ngày Quốc tế Người Di cư và Tị nạn (2007).
[15] X. Hội đồng Giáo hoàng về Chăm sóc Mục vụ cho Di dân và các Dân tộc Bản địa và Hội đồng Giáo hoàng Cor Unum, Chào đón Đức Ki-tô nơi những Người Tị nạn và những Người bị cưỡng bức Di tản, 2013, 30-31.
[16] Đức Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp Ngày Người Di cư và Tị nạn Thế giới (2005).
[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 22/08/2017]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét