Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

P6 - Đức Thánh Cha Lêô trao đổi với ký giả Elise Ann Allen của Crux về các vấn đề LGBTQ+ và Phụng vụ

Đức Thánh Cha Lêô trao đổi với ký giả Elise Ann Allen của Crux về các vấn đề LGBTQ+ và Phụng vụ

18 tháng Chín, 2025 | Author

P6 - Đức Thánh Cha Lêô trao đổi với ký giả Elise Ann Allen của Crux về các vấn đề LGBTQ+ và Phụng vụ

Đám đông đang đợi đến giờ Kinh Truyền Tin của Đức Thánh Cha Lêô XIV vào ngày 27 tháng 7 tại Quảng trường Thánh Phêrô. (Nguồn: Gregorio Borgia/AP.)

*******

[Chú thích của BBT: Đây là trích đoạn thứ sáu của bài phỏng vấn gồm hai phần giữa Đức Thánh Cha Lêô XIV và nữ ký giả kỳ cựu của Crux, chị Elise Ann Allen, được đưa vào quyển tiểu sử mới về Đức Thánh Cha, León XIV: ciudadano del mundo, misionero del siglo XXI, hay “Đức Lêô XIV: Công dân của thế giới, Nhà truyền giáo của thế kỷ XXI.” Cuốn sách được nhà xuất bản Penguin Peru phát hành bằng tiếng Tây Ban Nha và sẽ có mặt trên các kệ sách và trực tuyến vào ngày 18 tháng Chín. Các ấn bản tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha sẽ ra mắt vào đầu năm 2026.]

Allen: Hai trong số các vấn đề nổi bật nhất gây tranh luận tại Thượng Hội đồng về tính Hiệp hành, xét về mức độ tranh luận mà chúng tạo ra, là vai trò của phụ nữ trong Giáo hội và cách tiếp cận của Giáo hội đối với cộng đồng LBGTQ+. Đức Thánh Cha nghĩ gì về cuộc thảo luận liên quan đến hai vấn đề này, và người sẽ giải quyết chúng như thế nào trong vai trò mới của người là Giáo hoàng?

Đức Thánh Cha Lêô: Theo cách thức hiệp hành. Đối với hầu hết mọi người, chắc chắn hiểu rằng vai trò của phụ nữ trong Giáo hội phải tiếp tục phát triển, tôi nghĩ theo nghĩa đó đã có một phản ứng tích cực. Tôi hy vọng sẽ tiếp tục đi theo những bước chân của Đức Thánh Cha Phanxicô, trong đó có việc bổ nhiệm phụ nữ vào một số vai trò lãnh đạo ở các cấp khác nhau trong đời sống Giáo hội, nhìn nhận những ơn mà phụ nữ có thể đóng góp vào đời sống Giáo hội theo nhiều cách.

Chủ đề này trở thành một vấn đề nóng khi câu hỏi cụ thể được đặt ra về chức thánh. Điều mà Thượng Hội đồng đã bàn đến cách cụ thể là việc phong chức phó tế cho phụ nữ, vốn là một câu hỏi đã được nghiên cứu trong nhiều năm nay. Đã có nhiều ủy ban khác nhau được bổ nhiệm bởi các đức giáo hoàng để xem xét: chúng ta có thể làm gì về vấn đề này? Tôi nghĩ đây sẽ vẫn tiếp tục là một vấn đề. Hiện tại, tôi không có ý định thay đổi giáo huấn của Giáo hội về chủ đề này. Tôi nghĩ có một số câu hỏi trước đó cần được đặt ra.

Chẳng hạn, một ví dụ nhỏ. Đầu năm nay, trong Năm Thánh dành cho các Phó tế vĩnh viễn, rõ ràng tất cả đều là nam giới, nhưng các bà vợ của họ cũng hiện diện. Một ngày nọ, tôi có buổi giáo lý với một nhóm khá đông các phó tế vĩnh viễn nói tiếng Anh. Ngôn ngữ tiếng Anh là một trong những nhóm có nhiều phó tế hơn vì có những nơi trên thế giới chưa bao giờ thật sự thúc đẩy chức phó tế vĩnh viễn, và chính điều đó đã trở thành một câu hỏi: Tại sao chúng ta lại nói về việc truyền chức phó tế cho phụ nữ nếu chính chức phó tế vẫn chưa được hiểu đúng, chưa được thúc đẩy và phát triển đúng trong Giáo hội? Và đâu là những lý do? Vì vậy, dù tôi nghĩ đã có một nguồn cảm hứng đáng kể vào thời Công đồng khi chức phó tế vĩnh viễn được tái lập, nhưng ở nhiều nơi trên thế giới, nó đã không trở thành điều mà tôi nghĩ một số người đã từng mong đợi. Vì vậy, tôi nghĩ có một số câu hỏi cần được đặt ra xoay quanh vấn đề đó.

Tôi cũng tự hỏi, liên quan đến một nhận xét tôi đã đưa ra tại một buổi họp báo mà tôi đã tham dự trong Thượng Hội đồng, về điều thường được gọi là chủ nghĩa giáo sĩ trị trong các cơ cấu hiện tại của Giáo hội. Liệu chúng ta chỉ đơn giản đang muốn mời phụ nữ trở thành giáo sĩ, và việc đó thực sự giải quyết được gì? Có lẽ có rất nhiều điều cần phải được xem xét và phát triển vào thời điểm này trước khi chúng ta có thể đặt ra các câu hỏi khác.

Đó là nơi tôi đang nhìn thấy mọi việc ở thời điểm này. Tôi chắc chắn sẵn lòng tiếp tục lắng nghe mọi người. Có những nhóm nghiên cứu này; Bộ Giáo lý Đức tin, vốn có trách nhiệm đối với một số câu hỏi về vấn đề đó, họ tiếp tục xem xét nền tảng thần học, lịch sử của những câu hỏi đó, và chúng ta sẽ đồng hành, và xem điều gì sẽ đến.

Con xin hỏi một câu hỏi nhanh tiếp theo về vấn đề LGBTQ+, đây có thể là một vấn đề mang tính ý thức hệ rất lớn. Tuy nhiên, vượt ngoài bất kỳ quan điểm ý thức hệ nào, con nghĩ mọi người cảm thấy vấn đề này đã được đề cập đến theo một cách thức khác, với một sắc thái khác, dưới thời Đức Phanxicô. Cách tiếp cận của riêng Đức Thánh Cha sẽ là gì?

Hiện tại tôi chưa có kế hoạch. Tôi đã được hỏi về vấn đề này một vài lần trong những tháng đầu tiên, về vấn đề LGBT. Tôi nhớ lại điều mà một Đức Hồng y từ phương đông đã nói với tôi trước khi tôi trở thành giáo hoàng, rằng “thế giới phương Tây quá bị ám ảnh về tình dục.” Đối với một số người, căn tính của một người hoàn toàn gắn liền với căn tính tình dục, và đối với nhiều người ở các nơi khác trên thế giới, đó không phải là một vấn đề chính trong cách chúng ta đối xử với nhau. Tôi thú nhận rằng điều đó vẫn còn trong tâm trí tôi, bởi vì, như chúng ta đã thấy tại Thượng Hội đồng, bất kỳ vấn đề nào liên quan đến các câu hỏi về LGBTQ đều gây phân cực cao trong Giáo hội. Hiện tại, với những gì tôi đã cố gắng thể hiện và sống theo sự hiểu biết của mình về sứ vụ giáo hoàng tại thời điểm lịch sử này, tôi đang cố gắng không tiếp tục gây phân cực hoặc thúc đẩy sự phân cực trong Giáo hội.

Điều tôi đang nói là điều mà Đức Phanxicô đã nói rất rõ ràng khi Ngài nói, ‘todos, todos, todos’ (tất cả, tất cả, tất cả). Mọi người đều được mời vào, nhưng tôi không mời một người vào vì họ mang hoặc không mang một căn tính cụ thể nào đó. Tôi mời họ vì họ là con cái của Thiên Chúa. Tất cả các bạn đều được chào đón, và chúng ta hãy tìm hiểu nhau và tôn trọng nhau. Đến một lúc nào đó, khi những câu hỏi cụ thể sẽ được đặt ra… Người ta muốn giáo lý Giáo hội thay đổi, muốn thái độ thay đổi. Tôi nghĩ chúng ta phải thay đổi thái độ trước khi chúng ta nghĩ đến việc thay đổi điều mà Giáo hội nói về một vấn đề nào đó. Tôi thấy rất khó có khả năng, chắc chắn là trong tương lai gần, giáo lý của Giáo hội về những điều Giáo hội dạy về tính dục, những điều Giáo hội dạy về hôn nhân, [sẽ thay đổi].

Tôi đã nói về hôn nhân, cũng như Đức Thánh Cha Phanxicô nói khi ngài còn tại vị, rằng gia đình là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ trong một cam kết long trọng, được chúc phúc trong bí tích hôn phối. Nhưng ngay cả khi nói điều đó, tôi hiểu một số người sẽ đón nhận nó một cách rất tiêu cực. Ở Bắc Âu, họ đã đưa ra các nghi thức chúc phúc cho “những người yêu nhau”, như cách họ diễn đạt, điều này hoàn toàn đi ngược lại với văn kiện Fiducia Supplicans mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn, về căn bản nói rằng, dĩ nhiên chúng ta có thể chúc lành cho mọi người, nhưng không tìm cách nghi thức hóa một hình thức chúc lành nào đó vì đó không phải là điều Giáo hội dạy. Điều ấy không có nghĩa những người đó là người xấu, nhưng tôi nghĩ, một lần nữa, điều rất quan trọng là hiểu cách chấp nhận những người khác biệt so với chúng ta, cách chấp nhận những người có các lựa chọn trong cuộc sống của họ và tôn trọng họ.

Tôi thực sự hiểu rằng đây là một chủ đề rất nóng và một số người sẽ đưa ra yêu cầu, nói rằng, “chúng tôi muốn hôn nhân đồng tính được công nhận,” chẳng hạn, hoặc “chúng tôi muốn những người chuyển giới được công nhận,” để nói rằng điều này được Giáo hội chính thức công nhận và phê chuẩn. Về phần các cá nhân sẽ được chấp nhận và đón nhận. Bất kỳ linh mục nào đã từng ngồi tòa giải tội sẽ nghe xưng tội từ đủ mọi hạng người với đủ các vấn đề, đủ mọi hoàn cảnh cuộc sống và những lựa chọn đã được đưa ra. Tôi nghĩ rằng giáo huấn của Giáo hội sẽ tiếp tục như hiện tại, và đó là điều tôi phải nói vào lúc này. Tôi nghĩ điều đó rất quan trọng.

Các gia đình cần được hỗ trợ, điều mà người ta gọi là gia đình truyền thống. Gia đình là cha, mẹ và con cái. Tôi nghĩ rằng vai trò của gia đình trong xã hội, đã có những lúc phải chịu đau khổ trong những thập kỷ gần đây, một lần nữa phải được nhìn nhận, được củng cố trở lại. Tôi chỉ tự hỏi rằng liệu vấn đề về sự phân cực và cách mọi người đối xử với nhau có phải cũng đến từ những hoàn cảnh con người không lớn lên trong bối cảnh của một gia đình nơi chúng ta học được – đó là nơi đầu tiên bạn học cách yêu thương nhau, cách sống với nhau, cách bao dung với nhau, và cách hình thành các mối dây hiệp thông. Đó chính là gia đình. Nếu phá bỏ nền tảng căn bản ấy, sẽ rất khó để học được những điều đó theo cách khác.

Tôi nghĩ có một số yếu tố then chốt cần được xem xét. Tôi tin rằng tôi là tôi vì tôi đã có một mối tương quan tuyệt vời với cha và mẹ tôi. Họ đã có một đời sống hôn nhân rất hạnh phúc trong hơn 40 năm. Cho đến hôm nay, mọi người vẫn nhận xét về điều đó, ngay cả với các anh của tôi. Chúng tôi vẫn rất gắn bó, cho dù có người ở phía này hay phía kia về mặt chính trị, dù chúng tôi ở những nơi xa nhau. Theo kinh nghiệm của tôi, đó là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc tôi là ai, và làm thế nào để đến bây giờ tôi vẫn là tôi.

Con xin hỏi nhanh câu tiếp theo về Thượng Hội đồng, ngoài các nhóm nghiên cứu đã được thành lập, Đức Thánh Cha đã tạo ra hai nhóm mới: một nhóm về phụng vụ, và một nhóm về các hội đồng giám mục và các đại hội đồng giáo hội. Tại sao? Đức Thánh Cha nghĩ cần phải nghiên cứu những gì về các chủ đề này?

Thật ra, các nhóm này đã được Đức Phanxicô phê chuẩn rồi, ngay vào cuối triều đại giáo hoàng của ngài. Cả hai đều phát xuất từ những vấn đề khác đã được nghiên cứu tại Thượng Hội đồng. Các Hội đồng Giám mục trên thực tế đã bắt đầu, ban đầu một số Hội đồng tại Châu Mỹ Latinh trước thời Công đồng nhưng sau đó được phát triển nhiều hơn vào thời Công đồng về vai trò của Hội đồng Giám mục và phương cách các Hội đồng có thể trợ giúp Giáo hội tại bất kỳ quốc gia hoặc khu vực nào.

Nói chung, tôi nghĩ đã có sự đánh giá cao về vai trò của Hội đồng Giám mục. Ngày nay, chị sẽ không còn tình huống trong đó một Giám mục ở bên này sông giảng dạy điều “A” và Giám mục ở bên kia sông lại làm một điều hoàn toàn khác. Chúng tôi đến với nhau và chúng tôi cố gắng cùng nhau suy xét các vấn đề, để đưa ra các định hướng chung hoặc thực hiện những cách tiếp cận chung tùy theo khu vực, văn hóa, ngôn ngữ nơi các ngài đang làm việc. Vì vậy, ở cấp độ mục vụ, đã có một giá trị to lớn.

Quay trở lại khá nhiều năm trước, câu hỏi được đặt ra là quyền hạn thực tế có thể được trao cho một hội đồng giám mục đến mức nào. Đã có rất nhiều tranh luận thần học về điều này kể từ thời Công đồng Vatican II, bởi vì người kế vị các tông đồ là từng cá nhân giám mục, chứ không phải Hội đồng Giám mục. Sự căng thẳng có thể nảy sinh ở chỗ liệu một Hội đồng Giám mục có thể đưa ra quyết định, và liệu các cá nhân giám mục có phải tuân theo quyết định hay không, điều đó đã xảy ra qua lại ở nơi này nơi kia và theo những cách khác nhau suốt nhiều năm. Đã có mong muốn tại Thượng Hội đồng là xem xét kỹ hơn vấn đề đó và để xem liệu Hội đồng Giám mục có thể có một vai trò lớn hơn trong việc cố gắng quy tụ các Giám mục và đưa ra những quyết định hữu ích cho đời sống của Giáo hội trong khu vực hoặc quốc gia của họ hay không.

Vai trò của các Sứ thần hiện cũng đang được nghiên cứu trong một nhóm riêng biệt. Sẽ hợp lý hơn nhiều nếu một giáo hội địa phương nghiên cứu, suy tư, và chọn các đường hướng hoặc cách tiếp cận hữu ích nhất cho giáo hội trong khu vực đó, thay vì mỗi cá nhân giám mục tự quyết định riêng. Như vậy, đây cũng là một cách để hỗ trợ các giám mục trong thừa tác vụ. Đó là một số điều mà chúng tôi đã và đang xem xét.

Đã có sự lo ngại được nêu ra về cách diễn đạt trong một tài liệu về vai trò của các Giám mục và các Hội đồng Giám mục. Câu hỏi đặt ra là liệu các Hội đồng Giám mục nên có một thẩm quyền giáo huấn nào đó hay không? Và điều đó đã được diễn dịch theo những cách khác nhau trong Thượng Hội đồng, nhưng ngay cả trong văn bản gốc nó cũng không được dịch thống nhất theo cùng một cách giữa các ngôn ngữ. Tôi đã chỉ ra điều đó. Một số Giám mục nói tiếng Anh đã rất lo lắng, nghĩ rằng các Giám mục ở Bắc Âu có thể đưa ra một quyết định thay đổi giáo huấn của Giáo hội về ly dị và tái hôn, hoặc về các mối quan hệ đồng tính, hoặc về đa thê. Đây cũng là một vấn đề khác được các Giám mục Châu Phi đưa ra, quay trở lại các vấn đề không dễ hòa hợp với giáo huấn chính thức của Giáo hội. Vì vậy, do sự khác biệt trong bản dịch, vấn đề này đã trở thành một câu hỏi thảo luận của Thượng Hội đồng. Tuy nhiên, câu hỏi vẫn còn đó, khi các Hội đồng Giám mục ngày càng phát triển, thì vai trò của họ sẽ là gì.

Về nhóm nghiên cứu phụng vụ, nội dung nào đang được nghiên cứu? Lý do thành lập nhóm này có liên quan bao nhiêu đến những chia rẽ chung quanh Thánh Lễ Latinh truyền thống, hoặc các vấn đề như nghi lễ Amazon mới, chẳng hạn?

Theo tôi hiểu, nguồn gốc của nhóm này chủ yếu xuất phát từ các vấn đề liên quan đến sự hội nhập văn hóa trong phụng vụ. Làm thế nào để tiếp tục tiến trình giúp phụng vụ trở nên có ý nghĩa hơn trong một nền văn hóa khác, trong một nền văn hóa cụ thể, ở một nơi cụ thể tại một thời điểm cụ thể. Tôi nghĩ đó là vấn đề chính.

Cũng có một vấn đề khác, cũng là một vấn đề nóng khác, mà tôi đã nhận được một số thỉnh cầu và thư gửi [về nó]: Câu hỏi là, mọi người luôn nói “Thánh Lễ Latinh”. À, bạn có thể dâng Thánh Lễ bằng tiếng Latinh ngay bây giờ. Nếu đó là nghi thức Công đồng Vatican II thì không có vấn đề gì. Rõ ràng, giữa Thánh lễ của Công đồng Trent và Thánh lễ của Công đồng Vatican II, Thánh Lễ của Đức Phaolô VI, tôi không chắc sẽ đi đến đâu. Rõ ràng là rất phức tạp.

Tôi biết rằng, thật không may, một phần của vấn đề đó lại trở thành một phần của tiến trình phân cực, mọi người đã sử dụng Phụng vụ như một cái cớ để thúc đẩy các chủ đề khác. Nó đã trở thành một công cụ chính trị, và điều đó thật đáng tiếc. Tôi nghĩ đôi khi, việc “lạm dụng” Phụng vụ từ điều mà chúng ta gọi là Thánh Lễ theo Công đồng Vatican II, đã không hữu ích cho những người đang tìm kiếm một kinh nghiệm cầu nguyện sâu sắc hơn, một sự gặp gỡ với mầu nhiệm đức tin mà họ dường như tìm thấy trong việc cử hành Thánh Lễ theo Công đồng Trent. Một lần nữa, chúng ta đã bị phân cực, đến nỗi thay vì có thể nói, nếu chúng ta cử hành Phụng vụ theo Công đồng Vatican II một cách xứng hợp, bạn có thực sự tìm thấy nhiều sự khác biệt giữa kinh nghiệm này và kinh nghiệm kia không?

Tôi chưa có cơ hội thực sự ngồi lại với một nhóm người đang ủng hộ nghi thức theo Công đồng Trent. Sắp tới có một dịp, và tôi chắc chắn sẽ còn có nhiều cơ hội cho vấn đề này. Nhưng đó cũng là một vấn đề mà tôi nghĩ, có lẽ với tinh thần hiệp hành, chúng ta phải ngồi lại và đối thoại về nó. Nó đã trở thành một vấn đề bị phân cực đến mức mọi người không còn sẵn lòng lắng nghe nhau. Tôi đã nghe các Giám mục nói chuyện với tôi, các ngài chia sẻ với tôi về điều đó, các ngài nói, “Chúng tôi mời họ đến đây và đến kia, nhưng họ thậm chí không chịu lắng nghe”. Họ thậm chí không muốn nói về nó. Bản thân điều đó đã là một vấn đề. Nó có nghĩa là chúng ta đang đi vào ý thức hệ, chúng ta không còn đi vào kinh nghiệm hiệp thông Giáo hội nữa. Đó là một trong những vấn đề trong chương trình nghị sự.


[Nguồn: cruxnow.com]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 29/9/2025]