Phát biểu của Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher, Bộ trưởng Ngoại giao Tòa Thánh, nhân dịp Khóa họp thứ 80 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, ngày 29 tháng 9 năm 2025
*******
Sau đây là bài phát biểu của Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher, Bộ trưởng Ngoại giao của Tòa Thánh, nhân dịp Khóa họp thứ tám mươi của Đại hội đồng Liên Hợp quốc:
Phát biểu của Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher
Bộ trưởng Ngoại giao của Tòa Thánh
Trưởng Phái đoàn Tòa Thánh
tại Phiên Thảo luận Cấp cao nhân dịp Khai mạc Khóa họp thứ 80 Đại Hội đồng Liên Hợp quốc
New York, ngày 29 tháng Chín năm 2025
________________________
“Cùng nhau tốt đẹp hơn: 80 năm và hơn thế nữa vì hòa bình, phát triển và nhân quyền.”
Thưa Bà Chủ tịch,
Tôi hân hạnh chuyển đến Bà và các vị đại diện của các Quốc gia hiện diện nơi đây lời chào thăm nồng hậu và phép lành của Đức Giáo hoàng Lêô XIV, đồng thời xin chúc mừng Bà được bầu chọn để lãnh đạo Hội đồng này.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng tri ân đến Đại Hội đồng vì đã dành sự kính trọng cho Đức Giáo hoàng Phanxicô sau khi ngài qua đời vào tháng Tư vừa qua.
Như tất cả quý vị đều biết, khi Đức Giáo hoàng Lêô XIV được bầu chọn, những lời đầu tiên ngài gửi đến thế giới là: “Bình an ở cùng tất cả anh chị em […]. Một nền hòa bình phi vũ trang và giải trừ vũ khí, khiêm nhường và kiên trì.” [1] Trong một thế giới bị xâu xé bởi chiến tranh và xung đột, ngài đã chọn hòa bình là thông điệp đầu tiên của mình.
Thưa Bà Chủ tịch,
Chủ đề được chọn cho Phiên Thảo luận chung năm nay: “Cùng nhau tốt đẹp hơn: Tám mươi năm và hơn thế nữa vì hòa bình, phát triển và nhân quyền” nhấn mạnh tầm quan trọng liên tục của sự hợp tác đa phương trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu. Điều này đặc biệt thích hợp trong năm nay khi cộng đồng quốc tế kỷ niệm việc thành lập Liên Hợp quốc vào năm 1945. Đây là một thời điểm thích hợp để tái khẳng định những giá trị cốt lõi của Tổ chức là thúc đẩy hòa bình quốc tế, phát triển và nhân quyền phổ quát – những giá trị càng trở nên quan trọng hơn trong một thế giới ngày càng bị phân mảnh.
Điều cốt yếu là cộng đồng quốc tế phải hành động tập thể để ngăn chặn và chấm dứt các cuộc xung đột, chống nghèo đói và thúc đẩy nhân quyền, những điều được long trọng tuyên bố trong Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948, và là một trong những thành tựu quan trọng nhất của Tổ chức này. Điều quan trọng cần nhớ là chủ nghĩa biệt lập dẫn đến những bất ổn khó lường, trong khi sự đoàn kết thúc đẩy tính kiên cường trong trách nhiệm và tiến bộ chung. Điều này thể hiện rất rõ trong hoàn cảnh hiện tại, khi những căng thẳng địa chính trị leo thang, khủng hoảng khí hậu đang bùng phát, sự bất bình đẳng ngày càng lan rộng và tình trạng nghèo đói gia tăng đòi hỏi một sự đoàn kết toàn cầu mới. Liên Hợp quốc phải biết thích ứng với một thế giới đã thay đổi và duy trì hiệu quả của mình trước những mối đe dọa mới, như suy thoái môi trường và sự thay đổi do công nghệ, mà không một quốc gia đơn lẻ nào có thể tự mình giải quyết được.
Với tư cách là những đại diện của các quốc gia trên toàn cầu, chúng ta được hiệp nhất bởi nhân tính chung, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, được mời gọi sống trong tình huynh đệ, trong tình liên đới, và sự tôn trọng lẫn nhau. Được hướng dẫn bởi những giáo huấn trường tồn của Giáo hội Công giáo, Tòa Thánh tiếp tục là tiếng nói cho những người không có tiếng nói, đấu tranh cho một thế giới nơi hòa bình thắng thế xung đột, công lý chiến thắng bất bình đẳng, pháp quyền vượt trên quyền lực, và nơi sự thật soi sáng con đường dẫn đến sự triển nở đích thực cho con người. Trong một thế giới đang vật lộn với những thách đố ngày càng tăng, cần phải tái cam kết với các trụ cột nền tảng là Hòa bình, Công lý và Sự thật. [2] Bắt buộc phải khám phá và xây dựng trên các trụ cột này, đồng thời rút ra bài học từ lịch sử để kiến tạo một tương lai công bằng hơn.
Thưa Bà Chủ tịch,
Hòa bình
Hòa bình vừa mang tính phổ quát, vừa là nền tảng cho một xã hội có trật tự và đặt nền móng trên các giá trị. Hòa bình không chỉ đơn thuần là vắng bóng chiến tranh hay xung đột. Nó cũng không thể bị thu gọn lại thành việc duy trì thế cân bằng quyền lực giữa các đối thủ. Trái lại, nó bắt nguồn từ sự tôn trọng lẫn nhau và sự hiểu biết đúng đắn về nhân vị, đòi hỏi phải thiết lập một trật tự dựa trên công lý và bác ái. Đức Giáo hoàng Lêô XIV mô tả hòa bình là “một món quà vừa tích cực vừa đòi hỏi. Nó lôi cuốn và thách đố mỗi người chúng ta, bất kể nền tảng văn hóa hay tôn giáo của chúng ta là gì, đòi hỏi trước hết chúng ta phải làm việc với chính bản thân. Hòa bình được xây dựng trong tâm hồn và từ trái tim, bằng cách loại bỏ tính kiêu căng và ý muốn trả thù, và cẩn trọng lựa chọn lời nói của mình. Vì không chỉ vũ khí, mà cả lời nói cũng có thể làm tổn thương và thậm chí giết chết.”[3]
Một xã hội hòa bình và thịnh vượng có thể được xây dựng nhờ cam kết liên tục mỗi ngày để khôi phục trật tự mà Thiên Chúa đã định, trật tự này sẽ thăng hoa khi mỗi người nhận biết và đảm nhận vai trò của mình trong việc cổ võ nó. Để ngăn chặn xung đột và bạo lực, hòa bình phải được bén rễ sâu trong trái tim của mỗi cá nhân, để nó có thể lan tỏa qua các gia đình và các hiệp hội khác nhau trong xã hội, cho đến khi toàn thể cộng đồng chính trị thấm nhuần. Chỉ trong một bối cảnh được đánh dấu bởi sự tôn trọng công lý, mới có thể phát triển một văn hóa hòa bình đích thực, có khả năng ảnh hưởng đến toàn cộng đồng quốc tế. Thật vậy, “không thể đạt được hòa bình trên mặt đất nếu phúc lợi cá nhân không được bảo đảm và con người không được chia sẻ với nhau cách tự do và tin tưởng những của cải tinh thần và tài năng của họ.”[4]
Kiến tạo hòa bình đòi buộc phải loại bỏ hận thù và báo thù để lựa chọn đối thoại và hòa giải. “Chưa bao giờ việc chúng ta trở thành những người kiến tạo hòa bình, làm việc vì ích chung, vì sự thiện hảo cho tất cả mọi người chứ không chỉ cho một số ít, lại khẩn thiết hơn lúc này.” [5] Tòa Thánh khen ngợi những người xây dựng nhịp cầu nối giữa những chia rẽ bằng các phương thế bất bạo động. Hành động can đảm của họ soi sáng con đường dẫn đến tình huynh đệ, qua đó tất cả mọi người được mời gọi trở thành nghệ nhân của hòa bình trong nền văn hóa gặp gỡ.
Do đó, cộng đồng quốc tế phải ưu tiên cho ngoại giao thay vì chia rẽ, chuyển hướng các nguồn lực từ khí giới chiến tranh sang những sáng kiến thúc đẩy công lý, đối thoại và nâng đỡ người nghèo, và những người túng thiếu nhất. Tòa Thánh tái đề xuất một quỹ toàn cầu, được duy trì bằng một phần chi tiêu cho quân sự, để xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy sự phát triển bền vững và đối phó với biến đổi khí hậu.[6] Đây là những nền tảng không thể thiếu cho một nền hòa bình lâu dài.
Giải trừ quân bị
Một trong những bước đầu tiên để đạt được hòa bình là xây dựng lòng tin. Việc tái vũ trang ồ ạt làm suy yếu mục tiêu này, vì nó tạo ra những mối đe dọa mới và làm trầm trọng thêm nỗi sợ hãi của người dân. Thật vậy, “không thể đạt được hòa bình nếu không có giải trừ quân bị thực sự [và] nhu cầu mỗi dân tộc phải tự trang bị cho việc phòng vệ của mình không được biến thành một cuộc chạy đua tái vũ trang.”[7] Sự gia tăng liên tục cho chi tiêu quân sự toàn cầu đạt mức chưa từng có là 2,72 nghìn tỷ Mỹ kim vào năm 2024,[8] mở rộng vòng tròn bạo lực và chia rẽ, làm chệch hướng các nguồn lực khỏi những nhu cầu cấp bách của người nghèo và những người ở trong hoàn cảnh dễ bị tổn thương.
Giải trừ quân bị không đơn thuần là một sự cần thiết về chính trị hoặc chiến lược, mà trên hết, là một mệnh lệnh đạo đức, bắt nguồn từ việc nhìn nhận tính thánh thiêng của sự sống con người và mối liên kết của gia đình nhân loại. Thật đáng quan ngại khi một số Nhà nước đang rút lui khỏi những cam kết đối với các hiệp ước quốc tế về giải trừ quân bị. Tòa Thánh khẩn thiết kêu gọi cộng đồng quốc tế không đánh mất tầm nhìn quan trọng của việc theo đuổi các thỏa thuận giải trừ quân bị đa phương, và nỗ lực giảm bớt các kho vũ khí thông thường và hạt nhân, đồng thời kiên trì làm việc để củng cố các cơ chế không phổ biến vũ khí và thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin nhằm bảo đảm một nền an ninh chung.
Do đó, Tòa Thánh kêu gọi việc thực thi đầy đủ và củng cố các chế độ pháp lý đã được quy định bởi các Quốc gia thành viên của Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân (NPT), Hiệp ước Cấm Thử Hạt nhân Toàn diện (CTBTO) và Hiệp ước Cấm Vũ khí Hạt nhân (TPNW). Hơn nữa, các Quốc gia sở hữu hạt nhân cần thực hiện các bước cụ thể nhằm cắt giảm kho dự trữ hạt nhân của họ, ngừng hiện đại hóa kho vũ khí của họ, và thúc đẩy đối thoại minh bạch để xây dựng lòng tin giữa các Dân tộc. Các nguồn lực nên được chuyển hướng sang giáo dục, chăm sóc sức khỏe, và phát triển bền vững, với mục tiêu cuối cùng là đạt được một thế giới phi vũ khí hạt nhân.
Việc sản xuất và dự trữ vũ khí hạt nhân là một sự xúc phạm nghiêm trọng đến hòa bình, vì nó chuyển hướng các nguồn lực từ việc thúc đẩy sự phát triển con người toàn diện sang các phương tiện hủy diệt. Ước tính có hơn 12.000 đầu đạn hạt nhân trên toàn thế giới, với tổng sức công phá tương đương 1,5 gigaton, tương đương với hơn 100.000 quả bom kiểu Hiroshima.
80 năm kể từ vụ thử nghiệm hạt nhân đầu tiên và Hiroshima
Năm nay đánh dấu 80 năm kể từ vụ thử nghiệm hạt nhân đầu tiên vào năm 1945, cũng như các vụ ném bom nguyên tử thảm khốc tại Hiroshima và Nagasaki. Những biến cố đã để lại những vết thương cho nhân loại và phơi bày sự mong manh của sự sống chung của chúng ta, nhấn mạnh mệnh lệnh đạo đức về nhu cầu cấp bách đối với việc giải trừ vũ khí hạt nhân cũng như giải trừ quân bị nói chung. Tòa Thánh hoàn toàn tin rằng một thế giới không có vũ khí hạt nhân là vừa cần thiết vừa là khả thi. Việc sử dụng các loại vũ khí như vậy luôn là bất xứng và phi đạo đức. Hơn nữa, không có một động cơ chính đáng hay hợp lý nào có thể biện minh cho việc sở hữu các loại vũ khí như vậy xét về sức mạnh hủy diệt của chúng và những rủi ro đi kèm. Tòa Thánh xác tín rằng việc sở hữu và sử dụng chúng là nguy hiểm, là mối đe dọa đối với nhân loại và hoàn toàn phi đạo đức và do đó “phải được coi là một phương tiện chiến tranh bất hợp pháp.”[9] Trong khi đó, “phản ứng đối với mối đe dọa từ vũ khí hạt nhân phải là nỗ lực chung và phối hợp, được truyền cảm hứng bởi những cố gắng gian khó nhưng bền bỉ để xây dựng lòng tin lẫn nhau, và từ đó vượt qua bầu khí ngờ vực hiện nay.”[10]
Tôn trọng luật nhân đạo quốc tế
Trong một thế giới bị tàn phá bởi chiến tranh và xung đột, việc tôn trọng luật nhân đạo quốc tế cấu thành một trụ cột khác của hòa bình vì nó bảo vệ phẩm giá con người giữa các cuộc xung đột vũ trang. Những vi phạm – như các cuộc tấn công vào dân thường, bệnh viện, trường học và nhà thờ – là những tội ác chiến tranh nghiêm trọng. Thật đáng buồn, chúng ta cũng đang “chứng kiến với sự tuyệt vọng việc sử dụng nạn đói một cách bất công như một loại vũ khí chiến tranh”.[11] “Thực tế khi chiến tranh chẳng may bùng nổ không có nghĩa là mọi thứ trở nên hợp pháp giữa các bên tham chiến.”[12] Cần phải minh định rằng binh sĩ vẫn hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với bất kỳ vi phạm nào về quyền của các cá nhân và dân tộc, hoặc các quy tắc của luật nhân đạo quốc tế. Những hành động như vậy không thể được biện minh bởi lý do phải tuân lệnh cấp trên. Những người gia nhập các lực lượng vũ trang được mong đợi phải duy trì các nguyên tắc thiện chí, sự thật và công lý trên tầm mức toàn cầu. Rất nhiều người, trong những hoàn cảnh như vậy, đã hy sinh mạng sống vì những giá trị này và để bảo vệ những sinh mạng vô tội.[13]
Đức Giáo hoàng Lêô XIV đã than phiền rằng “thật đáng lo ngại khi thấy rằng sức mạnh của luật pháp quốc tế và luật nhân đạo dường như không còn mang tính ràng buộc nữa, bị thay thế bởi cái gọi là quyền của kẻ mạnh hơn để áp đặt vô giới hạn. Đây là điều bất xứng với nhân tính của chúng ta, là nỗi hổ thẹn cho toàn thể nhân loại và các nhà lãnh đạo quốc gia. Sau nhiều thế kỷ lịch sử, làm sao người ta có thể tin rằng hành động chiến tranh đem lại hòa bình chứ không gây tác dụng ngược đối với những người thực hiện chúng?”[14] Tòa Thánh kêu gọi tất cả các Quốc gia bảo đảm việc thực thi và tôn trọng đầy đủ các Công ước Geneva, đồng thời kêu gọi giáo dục về những nguyên tắc của luật nhân đạo quốc tế, đào tạo cho các lực lượng vũ trang, và trừng phạt những kẻ vi phạm. Trong bối cảnh này, Tòa Thánh ghi nhận những thách đố to lớn mà các nhân viên cứu trợ nhân đạo phải đối mặt, bao gồm những đe dọa đối với sự an toàn của họ, sự hạn chế tiếp cận với những người cần được giúp đỡ, và thiếu hụt nguồn lực.
Thưa Bà Chủ tịch,
Tự do tôn giáo và sự bách hại Kitô hữu
Tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo là một nền tảng khác của hòa bình, thế nhưng sự bách hại các nhóm tôn giáo thiểu số, đặc biệt là các Kitô hữu, vẫn tiếp diễn trên toàn cầu. Các Kitô hữu trên khắp thế giới phải chịu đựng sự bách hại nghiêm trọng, bao gồm bạo lực thể xác, tù đày, cưỡng bức di dời, kể cả chịu tử đạo. Hơn 360 triệu Kitô hữu sống trong các khu vực mà họ phải chịu đựng mức độ bách hại hoặc phân biệt đối xử gay gắt, với những cuộc tấn công vào các nhà thờ, nhà ở, và cộng đồng ngày càng gia tăng trong những năm gần đây. Dữ liệu cho thấy Kitô hữu là nhóm bị bách hại nhiều nhất trên toàn cầu, nhưng cộng đồng quốc tế dường như đang làm ngơ trước thảm cảnh của họ.
Tuy nhiên, tự do tôn giáo không chỉ đơn thuần là thoát khỏi sự bách hại; đó là quyền tự do tuyên xưng đức tin của mình, hoặc một mình, hoặc trong một cộng đồng với những người khác, công khai hoặc riêng tư, trong việc giảng dạy, thực hành, thờ phượng và tuân giữ đạo. Tự do tôn giáo bao gồm các quyền tự do khác, trong đó có tự do tư tưởng, tự do lương tâm, tự do ngôn luận, hội họp và lập hội. Để quyền tự do tôn giáo, vốn được Thiên Chúa muốn và khắc ghi trong bản tính con người, được thực thi, thì không được có bất kỳ chướng ngại nào trên đường đi của nó. Thật vậy, mỗi người, với lý trí và ý chí tự do, đều có một nghĩa vụ đạo đức là tìm kiếm Chân lý, và một khi đã nhận biết được, phải trung thành với nó và sắp xếp đời sống mình theo những đòi hỏi của nó.[15] Phẩm giá của mỗi cá nhân và bản chất của việc tìm kiếm chân lý tối hậu đòi hỏi mọi người phải được tự do thoát khỏi những ép buộc liên quan đến tôn giáo. Xã hội và Nhà nước không được ép buộc bất kỳ người nào hành động trái với lương tâm của họ, cũng không được ngăn cản bất cứ ai hành động phù hợp với lương tâm.
60 năm Tuyên ngôn Nostra Aetate
Tự do tôn giáo đi song hành với đối thoại liên tôn, và trong khi tự do tôn giáo là trách nhiệm của các Quốc gia, thì đối thoại liên tôn là trách nhiệm của các tôn giáo. Bất kỳ sự can thiệp nào của một cơ quan quyền lực vào đối thoại liên tôn đều là sự vi phạm tự do tôn giáo. Đối thoại liên tôn không đơn thuần là việc trao đổi ý kiến, nhưng là một hành trình chung hướng tới sự tôn trọng lẫn nhau, công lý và hòa bình. Trong một thế giới bị tổn thương bởi chủ nghĩa cực đoan tôn giáo, sự phân cực văn hóa, và các cuộc xung đột thường bị khơi mào bởi sự hiểu lầm, thì đối thoại liên tôn là một mệnh lệnh đạo đức. Nó đòi hỏi sự khiêm nhường, cởi mở, và một cam kết lắng nghe cách tích cực để bảo đảm rằng sự khác biệt làm phong phú chứ không gây chia rẽ. Đồng thời cũng cần phải bảo vệ các tôn giáo khỏi sự lợi dụng và bị biến thành công cụ.
Tòa Thánh đang đi đầu trong đối thoại tôn giáo, và năm nay đánh dấu kỷ niệm 60 năm văn kiện Nostra Aetate, tuyên ngôn mang tính bước ngoặt của Công đồng Vatican II về mối tương quan giữa Giáo hội Công giáo và các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Được công bố ngày 28 tháng Mười năm 1965, Nostra Aetate là một lời kêu gọi biến đổi để loại bỏ mọi thành kiến và đón nhận phẩm giá phổ quát của mỗi con người, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Nó đã mở đường cho một kỷ nguyên mới của sự hiểu biết, đặc biệt trong các mối tương quan Công giáo – Do Thái giáo, và thúc đẩy sự tôn trọng đối với tất cả các truyền thống tôn giáo. Trong sáu thập kỷ qua, những nguyên tắc của Nostra Aetate đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao sáng kiến về đối thoại, hòa giải và hợp tác, từ các cuộc gặp gỡ liên tôn đến những nỗ lực chung để giải quyết các thách đố toàn cầu như nghèo đói, di cư và biến đổi khí hậu.
Thưa Bà Chủ tịch,
Công lý: bảo vệ phẩm giá và thúc đẩy ích chung
Đức Giáo hoàng Lêô XIV khẳng định cách rõ ràng rằng “làm việc cho hòa bình đòi hỏi phải hành động cách ngay chính. […] Trong thời đại chuyển mình mang tính lịch sử này, Tòa Thánh không thể không lên tiếng trước nhiều sự mất cân bằng và bất công dẫn đến không ít những điều kiện làm việc không xứng đáng, và các xã hội ngày càng bị phân mảnh và đầy xung đột. Cần phải thực hiện mọi nỗ lực để vượt qua sự bất bình đẳng toàn cầu – giữa sự xa hoa và sự khốn cùng – đang tạo ra những chia rẽ sâu sắc giữa các lục địa, giữa các quốc gia và thậm chí trong từng xã hội.”[16]
Phẩm giá của con người
Trong thế giới đầy xáo trộn của chúng ta, phẩm giá của con người phải được đặt ở trung tâm của mọi nỗ lực của chúng ta. Phẩm giá của mỗi cá nhân là vốn có, không phụ thuộc vào sự hữu dụng hay hoàn cảnh, và vì thế phải được đề cao trong mọi chính sách, luật pháp và hành động. Nguyên tắc này đòi buộc phải loại bỏ mọi hình thức bóc lột, phân biệt đối xử và bạo lực, vốn làm mất nhân tính và chia rẽ gia đình toàn cầu của chúng ta. Thay vào đó, chúng ta có nghĩa vụ phải đề cao các quyền và quyền tự do căn bản của con người như đã được nhấn mạnh trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền.
Tòa Thánh kêu gọi cộng đồng quốc tế đổi mới cam kết của mình để phát triển những điều kiện mà ở đó phẩm giá con người có thể được triển nở. Điều này bao gồm việc bảo đảm sự tiếp cận với những nhu cầu căn bản như lương thực, nước sạch, chỗ ở, chăm sóc sức khỏe và giáo dục, cũng như bảo vệ người nghèo và những người cần giúp đỡ, gồm người tị nạn, di dân và những người bị bách hại vì niềm tin của họ. Điều đó cũng có nghĩa là bảo vệ quyền sống của mỗi người. Sau khi đã chứng kiến những nỗi kinh hoàng của chiến tranh và hậu quả của những người tự xưng là có quyền tuyệt đối đối với việc quyết định sự sống hay cái chết của anh chị em mình, những nhà sáng lập Liên Hợp quốc khẳng định một cách đúng đắn rằng không có quyền lực nào có thể đứng trên phẩm giá vốn có và tính thánh thiêng của sự sống con người.
Tòa Thánh vẫn luôn kiên định trong việc ủng hộ và thăng tiến quyền sống, từ lúc thụ thai cho đến lúc kết thúc tự nhiên, như một điều kiện tiên quyết căn bản cho việc thực thi tất cả các quyền khác, và nhấn mạnh tính bất hợp pháp của mọi hình thức phá thai cũng như an tử. Thay vì thúc đẩy một văn hóa chết chóc, các nguồn lực nên được dồn vào việc bảo vệ sự sống và giúp đỡ những người đang đứng trước các hoàn cảnh khó khăn hoặc thậm chí bi thương để đưa ra những quyết định khẳng định sự sống, bao gồm cả việc hỗ trợ những bà mẹ sinh đứa con đang cưu mang trong bụng. Ngoài ra, các nguồn lực nên được phân bổ để xoa dịu gánh nặng đau khổ của con người trong cơn bệnh tật qua việc chăm sóc y tế và chăm sóc giảm nhẹ đầy đủ. Cần phải minh định rằng chỉ có quyền được sống, và không tồn tại bất kỳ điều đối nghịch với quyền này, ngay cả khi nó được gán cho cái danh giả tạo là tự do.
Thật vậy, khi tự do loại trừ cả những bằng chứng rõ ràng nhất về một chân lý khách quan và phổ quát, là nền tảng của đời sống cá nhân và xã hội, thì con người rốt cuộc bị chi phối bởi quan điểm hoặc lợi ích chủ quan và dễ thay đổi của mình. Quan điểm về tự do này dẫn đến sự biến dạng nghiêm trọng của đời sống trong xã hội. Đến lúc đó, mọi thứ đều có thể được thương lượng và mua bán, ngay cả quyền căn bản đầu tiên, quyền được sống.[17].
Một vấn đề khác gây nguy hiểm cho phẩm giá bất khả xâm phạm của con người qua việc biến họ thành những sản phẩm đơn thuần, đó là việc thực hành điều gọi là mang thai hộ, đại diện cho một sự vi phạm nghiêm trọng phẩm giá của người phụ nữ và đứa trẻ. Tòa Thánh tái kêu gọi một lệnh cấm quốc tế đối với việc thực hành đáng chê trách này.
Tiến bộ thực sự không được đo lường bằng quyền lực hay của cải, mà bằng việc nâng đỡ những người kém may mắn nhất trong xã hội, đồng thời bảo vệ phẩm giá do Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người. Như Đức Giáo hoàng Lêô XIV nhắc nhở chúng ta, “không ai được miễn trừ khỏi bổn phận cố gắng bảo đảm sự tôn trọng đối với phẩm giá của mỗi người, đặc biệt là những người mong manh và dễ bị tổn thương nhất, từ thai nhi đến người già, từ người bệnh đến người thất nghiệp, cả công dân và người nhập cư.”[18]
Pháp quyền
Mười năm trước, từ chính diễn đàn này, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng “công việc của Liên Hợp Quốc, theo những nguyên tắc được nêu trong Lời mở đầu và các điều khoản đầu tiên của Hiến chương thành lập, có thể được xem là sự phát triển và thúc đẩy pháp quyền, dựa trên nhận thức rằng công lý là một điều kiện thiết yếu để đạt được lý tưởng về tình huynh đệ phổ quát.”[19]
Thật vậy, để trở nên công bằng, một xã hội phải dựa trên nguyên tắc Pháp quyền, trong đó luật pháp là tối thượng, chứ không phải ý muốn độc đoán của cá nhân.[20] Thực tế, như Thánh Augustinô đã lưu ý khoảng 1600 năm trước, rằng nếu công lý bị loại bỏ thì những vương quốc vĩ đại nhất của thế gian cũng chẳng khác gì các băng nhóm tội phạm.[21]
Về mặt thực tế, pháp quyền bao hàm ý tưởng kiềm chế việc thực thi quyền lực. Không một cá nhân hay nhóm nào, bất kể địa vị của họ, tuyên bố có quyền để vi phạm phẩm giá và quyền của người khác hay của cộng đồng của họ. Do đó, các nguyên tắc về bình đẳng trước pháp luật, trách nhiệm giải trình, áp dụng luật pháp công bằng, phân chia quyền lực, sự chắc chắn về mặt pháp lý, quy trình tố tụng đúng đắn, ngăn ngừa sự độc đoán, cũng như tính minh bạch trong cả các vấn đề thủ tục và pháp lý, phải luôn luôn được tuân thủ.
Xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là một nghĩa vụ đạo đức bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của mỗi con người, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Nghèo đói không chỉ đơn thuần là thiếu thốn các nguồn vật chất, mà còn là sự xúc phạm đến phẩm giá con người, tước đi tiềm năng do Thiên Chúa ban cho cá nhân để họ được triển nở.
Như Đức Giáo hoàng Lêô XIV khẳng định, “thảm kịch liên tục tiếp diễn của nạn đói và suy dinh dưỡng lan rộng, vẫn còn dai dẳng ở nhiều quốc gia ngày nay, là điều đáng buồn và đáng xấu hổ hơn khi chúng ta nhận ra rằng, mặc dù trái đất có khả năng sản xuất đủ lương thực cho tất cả mọi người, và bất chấp những cam kết quốc tế về an ninh lương thực, thật đáng tiếc là quá nhiều người nghèo trên thế giới vẫn thiếu lương thực hằng ngày của họ.”[22] “Chìa khóa để vượt thắng nạn đói nằm ở việc chia sẻ chứ không nằm ở việc tích trữ cách tham lam. Đây là điều mà ngày nay chúng ta có lẽ đã quên, vì dù đã có một số bước đi quan trọng được thực hiện, nhưng an ninh lương thực toàn cầu tiếp tục xấu đi, làm cho mục tiêu “Không còn nạn đói” của Chương trình nghị sự 2030 ngày càng khó đạt được. […] Sản xuất lương thực thôi là chưa đủ: điều quan trọng còn phải bảo đảm rằng hệ thống lương thực là bền vững và cung cấp chế độ ăn uống lành mạnh và hợp túi tiền cho tất cả mọi người. Do đó, đây là vấn đề phải suy nghĩ lại và đổi mới hệ thống lương thực của chúng ta, từ quan điểm của tình liên đới, vượt qua lối tư duy khai thác thiên nhiên cách tàn bạo, và định hướng tốt hơn những nỗ lực của chúng ta để canh tác và chăm sóc môi trường cùng các tài nguyên của nó, để bảo đảm an ninh lương thực và tiến tới chế độ dinh dưỡng đầy đủ và lành mạnh cho tất cả mọi người.”[23]
Trong một thế giới với sự giàu có và tiến bộ công nghệ chưa từng có, không thể chấp nhận được việc hàng triệu người vẫn thiếu sự tiếp cận với những nhu cầu căn bản. Sự dai dẳng của tình trạng nghèo đói cùng cực, đặc biệt ở các khu vực bị ảnh hưởng bởi xung đột, biến đổi khí hậu và bất bình đẳng có hệ thống, đòi hỏi phải có hành động khẩn cấp và tập thể. Tòa Thánh kêu gọi cộng đồng quốc tế ưu tiên phát triển con người toàn diện trong tinh thần liên đới, bảo đảm rằng các chính sách kinh tế và các chương trình phát triển đặt con người làm trung tâm và thúc đẩy không chỉ sự thịnh vượng vật chất mà còn cả sự phát triển tinh thần và xã hội. Trong cuộc chiến chống nghèo đói, nguyên tắc liên đới phải luôn đi đôi với nguyên tắc bổ trợ. Điều này cho phép tinh thần sáng tạo phát triển, tạo thành nền tảng của mọi sự phát triển kinh tế và xã hội tại các quốc gia nghèo. Người nghèo phải được nhìn nhận “không phải như một vấn đề, mà là những con người có thể trở thành những người xây dựng chính cho một tương lai mới và nhân bản hơn cho tất cả mọi người”.[24]
Bất bình đẳng toàn cầu và xóa nợ
Vượt qua những bất bình đẳng toàn cầu, cho dù là kinh tế, xã hội hay môi trường, là một thách đố vô cùng lớn. Tòa Thánh nhấn mạnh rằng mỗi cá nhân, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, đều có quyền đối với các tài nguyên và cơ hội cần thiết cho một đời sống xứng phẩm giá. Tuy nhiên, những bất bình đẳng lớn về của cải, tiếp cận giáo dục, chăm sóc sức khỏe, an ninh lương thực và điều kiện sống an toàn vẫn còn tồn tại dai dẳng, thường trở nên trầm trọng thêm bởi bất công có hệ thống, bởi xung đột và suy thoái môi trường.
Do đó, điều không thể thiếu là phải giải quyết các nguyên nhân thuộc cấu trúc của chúng, bao gồm các hệ thống thương mại bất công, các hình thức lao động bị bóc lột và việc tiếp cận các nguồn tài nguyên không đồng đều. Gánh nặng nợ nần trói buộc các quốc gia trong nghèo đói, và cần phải được xóa bỏ như một vấn đề thuộc về công lý. Hơn nữa, việc giảm nợ cho các quốc gia nghèo nhất, bảo đảm sự phân phối công bằng các tài sản toàn cầu và đầu tư vào phát triển bền vững đều là những bước thiết yếu hướng tới công lý.
Trong Năm Thánh mà Giáo hội Công giáo đang cử hành, Tòa Thánh kêu gọi “các quốc gia giàu có nhất […] thừa nhận tính chất nghiêm trọng của rất nhiều quyết định trong quá khứ của họ và quyết tâm tha nợ cho các quốc gia sẽ không bao giờ có khả năng hoàn trả được. Đây không chỉ là vấn đề quảng đại, đây là một vấn đề công lý. Ngày nay, điều này càng trở nên trầm trọng hơn bởi một hình thức bất công mới đang tồn tại mà chúng ta ngày càng nhận thức rõ, cụ thể là một “món nợ sinh thái”, đặc biệt giữa Bắc bán cầu và Nam bán cầu, liên quan đến những sự mất cân bằng thương mại với những tác động đến môi trường và việc sử dụng không cân xứng các nguồn tài nguyên thiên nhiên của một số quốc gia trong thời gian dài.”[25]
Chăm sóc tạo vật và khủng hoảng khí hậu
Việc nghiêm túc xem xét món nợ sinh thái cũng là một vấn đề của “công lý môi trường”, điều này “không thể được coi là một khái niệm trừu tượng hoặc một mục tiêu xa vời nữa. Đó là một nhu cầu cấp bách liên quan đến nhiều thứ hơn việc chỉ đơn thuần bảo vệ môi trường. Vì đó là một vấn đề thuộc công lý – xã hội, kinh tế và con người.”[26]
Cộng đồng quốc tế cần tiếp tục công việc quan trọng là chăm sóc tạo vật.[27] Sự cần thiết phải kiên trì trong sứ mạng này đã trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết trong mười năm qua kể từ khi Đức Giáo hoàng Phanxicô công bố Thông điệp Laudato si’ về Chăm sóc Ngôi nhà Chung của Chúng ta, và cộng đồng quốc tế đã thông qua Thỏa thuận Paris về khí hậu vào ngày 12 tháng 12 năm 2015. Chúng ta đang sống trong một bối cảnh địa chính trị mang đậm dấu ấn, về một mặt, bởi xung đột dữ dội và khủng hoảng của chủ nghĩa đa phương, và mặt khác là khủng hoảng khí hậu với những tác động rõ ràng và nghiêm trọng đối với những người dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu, những người nghèo nhất và các thế hệ tương lai, là những người ít chịu trách nhiệm nhất cho tình trạng này.
Đức Giáo hoàng Lêô XIV viết rằng “Các hiện tượng thiên nhiên cực đoan do biến đổi khí hậu gây ra bởi hoạt động của con người đang ngày càng gia tăng về cường độ và tần suất, chưa kể đến những tác động trung và dài hạn của sự tàn phá về con người và sinh thái đang bị gây ra bởi các cuộc xung đột vũ trang. Cho đến nay, chúng ta dường như vẫn chưa có khả năng nhận ra rằng sự phá hủy thiên nhiên không tác động đến tất cả mọi người theo cùng một cách. Khi công lý và hòa bình bị chà đạp, những người bị tổn thương nhiều nhất là người nghèo, người bị gạt ra bên lề và người bị loại trừ. Sự đau khổ của các cộng đồng bản địa là điển hình trong vấn đề này”.[28] Điều đó đặt ra một mối đe dọa rõ rệt đối với sự an lành của các thế hệ tương lai, và với hòa bình và an ninh. Nó đòi hỏi một phản ứng mạnh mẽ, có trách nhiệm và cam kết của cộng đồng quốc tế. Một phản ứng không thể biến thiên nhiên “thành một món hàng để mặc cả, một mặt hàng để trao đổi vì lợi ích kinh tế hoặc chính trị.”[29]
Điều này có nghĩa là phải củng cố cam kết hợp tác quốc tế trong việc thúc đẩy chia sẻ công nghệ và thực hiện hành động khí hậu, cũng như tăng cường nỗ lực thúc đẩy giáo dục về văn hóa chăm sóc, để đưa ra những lối sống mới.
Di dân và người tị nạn
Di dân là một trong những nạn nhân đầu tiên của nhiều bất bình đẳng toàn cầu. Phẩm giá của họ không chỉ bị chối bỏ ngay tại quê hương, mà cuộc sống của họ cũng bị đe dọa khi họ không còn phương tiện để lập gia đình, để làm việc, hoặc để tự nuôi sống bản thân. Phản ứng trước các cuộc khủng hoảng người di cư, người tị nạn và di tản cần phải vượt qua những cân nhắc thuần túy chính trị và đón nhận cách tiếp cận mang tính đạo đức, nhân đạo, dựa trên tinh thần liên đới.
Tòa Thánh nhấn mạnh rằng nhân phẩm vốn có của người di cư, người tị nạn và người di tản trong nước (IDPs) phải được bảo vệ bất kể tình trạng pháp lý, quốc tịch, sắc tộc, tôn giáo hay giới tính của họ. Các chính sách và hành động phải ưu tiên sự an toàn, bảo vệ và đối xử nhân đạo đối với họ, tuân thủ nguyên tắc không gửi trả (non-refoulement) và thực hiện các biện pháp để ngăn chặn bạo lực và bóc lột. Trong bối cảnh này, ưu tiên nên được dành cho việc đoàn tụ gia đình, nhìn nhận vai trò quan trọng của gia đình trong sự phát triển con người, sức khỏe tâm lý và sự ổn định xã hội.
Để giảm bớt những nguy hiểm liên quan đến di cư bất hợp pháp, Tòa Thánh kêu gọi mở rộng các kênh di cư an toàn, có trật tự và hợp pháp nhằm chống lại các hoạt động của những kẻ chuyển người lậu hoặc buôn bán người, ngăn chặn những hành trình đầy rủi ro và thường dẫn đến cái chết. Tòa Thánh mạnh mẽ lên án tội ác ghê tởm của nạn buôn người, và tha thiết hy vọng sẽ có sự đồng thuận xung quanh Tuyên bố Chính trị tại kỳ Họp Cấp cao sắp tới để xem xét Kế hoạch Hành động Toàn cầu chống nạn buôn người.
Hơn nữa, Tòa Thánh cũng hy vọng rằng Diễn đàn Đánh giá tình hình Di cư Quốc tế lần thứ hai sẽ tái khẳng định các cam kết đã được đặt ra trong Hiệp ước Toàn cầu về Di cư. Tương tự, Diễn đàn Tị nạn Toàn cầu – Rà soát Tiến triển vào tháng 12 năm 2025 cũng cần củng cố các cam kết hiện có, nhằm bảo đảm rằng tiến trình hỗ trợ người tị nạn sẽ tiếp tục được duy trì.
Trí tuệ nhân tạo (AI)
Cùng với những thách thức này, như Đức Giáo hoàng Lêô XIV nói, còn có “một cuộc cách mạng công nghiệp khác […] trí tuệ nhân tạo đặt ra những thách đố mới cho việc bảo vệ phẩm giá con người, công lý và lao động.”[30] Trong truyền thống Kitô giáo, trí tuệ được coi là một chiều kích thiết yếu của nhân tính, được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Mặc dù AI là một thành tựu công nghệ phi thường, nhưng nó chỉ bắt chước trí tuệ của người đã thiết kế ra nó, và do đó đặt ra những vấn đề về triết học và đạo đức mới. Khác với các phát minh khác, AI được huấn luyện dựa trên sự sáng tạo của con người, tạo ra các sản phẩm cạnh tranh hoặc vượt trội hơn khả năng của con người, làm dấy lên những lo ngại về tác động tiềm tàng của nó đối với nhân loại. Thật vậy, công nghệ này tự học và đưa ra lựa chọn một cách độc lập, thích ứng và cho ra kết quả ngoài dự đoán của người lập trình. Điều này đặt ra những câu hỏi căn bản về đạo đức và an toàn.
Có một nguy cơ là AI sẽ thúc đẩy “mô hình kỹ trị”, vốn xem tất cả các vấn đề của thế giới đều có thể được giải quyết thuần túy bằng công nghệ. Mô hình này thường đặt phẩm giá con người và tình huynh đệ xuống hàng thứ yếu trong việc theo đuổi hiệu quả, và coi thường các chiều kích thiết yếu của Chân và Thiện. Tuy nhiên, phẩm giá con người không bao giờ được phép bị xúc phạm vì lợi ích của tính hiệu quả. Thay vào đó, AI phải được sử dụng để thúc đẩy và phục vụ một sự phát triển toàn diện lành mạnh hơn, nhân bản hơn, xã hội hơn.
Dù tiềm năng to lớn mà AI mang lại cho việc thúc đẩy phúc lợi con người, AI không bao giờ có thể thay thế cho phán đoán đạo đức và luân lý của con người hoặc làm giảm giá trị độc nhất của con người.
Tòa Thánh nhấn mạnh sự đến cần thiết phải phát triển và thực hiện các hướng dẫn đạo đức và khuôn khổ quy định rõ ràng cho AI nhằm bảo vệ phẩm giá con người, đảm bảo tính minh bạch, thúc đẩy trách nhiệm giải trình, và thúc đẩy sự bao gồm.
Quyền của người lao động
Hơn nữa, việc sử dụng rộng rãi trí tuệ nhân tạo khiến nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm. Lao động không chỉ đơn thuần là phương tiện để mưu sinh, mà còn là một ơn gọi, nhờ đó con người được tham dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, phát triển tài năng của họ, và xây dựng một xã hội công bằng.
Lao động là một sự thể hiện nền tảng của phẩm giá con người. Nó cho phép các cá nhân nuôi sống gia đình của họ, đóng góp cho xã hội, và phát triển trong các đức hạnh. Mọi công việc đều phải được nhìn nhận là đáng trân trọng, cho dù là lao động chân tay, trí óc hay sáng tạo, và không được phép ép buộc người lao động phải làm việc trong các điều kiện làm mất phẩm giá do Thiên Chúa ban cho họ.
Người lao động có quyền được hưởng mức lương đủ sống, bảo đảm một đời sống xứng đáng cho bản thân và gia đình họ. Điều này bao gồm việc tiếp cận với nhà ở, giáo dục, chăm sóc sức khỏe và cơ hội nghỉ ngơi. Tiền lương phải phản ánh giá trị của con người, và không chỉ bị chi phối bởi các quy luật thị trường. Các chủ lao động phải từ bỏ những hình thức bóc lột đặt lợi nhuận lên trên công lý, và bảo đảm trả lương bình đẳng cho cùng một công việc.
Tòa Thánh lên án mọi cách áp dụng bóc lột buộc người lao động phải làm việc quá sức, trong những điều kiện nguy hiểm, hoặc bị đối xử vi phạm nhân phẩm của họ.
Cần có một hệ thống kinh tế ưu tiên tạo việc làm, đặc biệt cho những người thất nghiệp và thiếu việc làm, và khuyến khích các cơ hội cho tinh thần khởi nghiệp. Khi các nền kinh tế không tạo ra đủ việc làm, thì có một nghĩa vụ đạo đức bảo vệ phẩm giá của người lao động và gia đình họ bằng cách cung cấp hỗ trợ xã hội và thực hiện các chính sách công bằng.
Đầu tư cho gia đình
Mức lương công bằng và những điều kiện làm việc bền vững, đặc biệt cho phụ nữ, cũng giúp xây dựng gia đình. Gia đình không tồn tại vì xã hội hay Nhà nước, mà chính xã hội và Nhà nước tồn tại vì gia đình. Do đó, Tòa Thánh kêu gọi một cam kết đổi mới trong việc hỗ trợ những người trẻ muốn xây dựng một gia đình. Trong một thế giới nơi sự chia rẽ đang thống trị, giao ước hôn nhân giữa một người nam và một người nữ là một phương thế để vượt qua những thế lực phá vỡ các mối tương quan và xã hội. Gia đình là cộng đồng đầu tiên nơi bản chất xã hội của con người được trải nghiệm, và nó mang đến một đóng góp độc đáo và không thể thay thế cho xã hội.
Sự thật: dẫn dắt chủ nghĩa đa phương và sự rõ ràng trong diễn ngôn
Ngôn ngữ không mơ hồ và không gây chia rẽ
Các mối tương quan và đối thoại chân thực đòi hỏi một ngôn ngữ rõ ràng và không mơ hồ. Thật vậy, khi ngôn ngữ không được đồng thuận chung, bị diễn giải lại hoặc trở nên mơ hồ, những nỗ lực đối thoại có thể bị đe dọa. Đã có nhiều cố gắng đưa ra nhằm diễn giải lại các quyền căn bản của con người được ghi trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền. Thật đáng tiếc, những cách diễn giải mới này không chỉ gây chia rẽ cộng đồng quốc tế mà còn thường xuyên bóp méo quan điểm đúng đắn về bản chất con người. Trong bối cảnh ngày nay, đang rất cần có một cuộc đối thoại đa phương giữa các Quốc gia, thì sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau đòi hỏi phải sử dụng một ngôn ngữ rõ ràng và không gây chia rẽ.
NHỮNG TÌNH HUỐNG ĐẶC BIỆT
Ukraine
Thưa Bà Chủ tịch,
Trong số nhiều cuộc khủng hoảng hiện đang ảnh hưởng đến cộng đồng quốc tế, cuộc chiến ở Ukraine là một trong những khủng hoảng sâu xa và đau đớn nhất. Sự kéo dài của nó đang biến những thành phố từng sôi động trước đây trở thành những đống đổ nát và dập tắt nụ cười của những đứa trẻ lẽ ra được lớn lên bằng những trò chơi chứ không phải sống giữa những tiếng còi báo động không ngừng và sống trong hầm trú ẩn.
Cuộc chiến này phải chấm dứt ngay bây giờ. Không phải vào một thời điểm mơ hồ nào đó trong tương lai, mà là ngay lập tức. Với mỗi ngày trôi qua, số lượng nạn nhân tăng lên, sự tàn phá mở rộng và lòng hận thù sâu sắc hơn. Mỗi ngày không có hòa bình đều lấy mất đi một điều gì đó từ toàn thể nhân loại.
Vì lý do này, Tòa Thánh một lần nữa lặp lại lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng Lêô XIV về một lệnh ngừng bắn ngay lập tức, để mở ra con đường cho một cuộc đối thoại chân thành và can đảm. Chỉ qua việc đó, tiếng ồn ào của vũ khí mới có thể im ắng và tiếng nói của công lý và hòa bình mới được nghe thấy.
Tòa Thánh kêu gọi tất cả các quốc gia hiện diện tại đây hãy từ bỏ thái độ thụ động, và đưa ra những hỗ trợ cụ thể cho bất kỳ sáng kiến nào có thể dẫn đến những cuộc đàm phán thực sự và hòa bình lâu dài. Đã đến lúc phải đứng lên vì hòa bình và bác bỏ luận lý của sự thống trị và hủy diệt.
Trung Đông
Tòa Thánh đang theo dõi sát tình hình ở Trung Đông với mục tiêu đạt được một nền hòa bình công bằng và lâu dài giữa Israel và Palestine dựa trên giải pháp hai Nhà nước, phù hợp với luật pháp quốc tế và tất cả các nghị quyết liên quan của Liên Hợp quốc.
Đức Giáo hoàng Lêô XIV mạnh mẽ kêu gọi các bên liên quan, cũng như cộng đồng quốc tế hãy chấm dứt “cuộc xung đột ở Đất Thánh, đã gây ra quá nhiều sự kinh hoàng, hủy diệt và chết chóc.” Ngài khẩn cầu rằng “tất cả các con tin phải được thả tự do, đạt được một lệnh ngừng bắn vĩnh viễn, tạo điều kiện cho việc đưa viện trợ nhân đạo an toàn đi vào, và luật nhân đạo phải được tôn trọng hoàn toàn, đặc biệt là nghĩa vụ bảo vệ dân thường cũng như nghiêm cấm trừng phạt tập thể, sử dụng vũ lực bừa bãi và cưỡng bức di dời dân cư.”[31]
Hơn nữa, một giải pháp công bằng cho vấn đề Giêrusalem dựa trên các nghị quyết quốc tế là điều cần thiết để đạt được một nền hòa bình công bằng và lâu dài. Mọi quyết định hay hành động đơn phương làm thay đổi quy chế đặc biệt của Giêrusalem và nguyên trạng tại đây đều không thể chấp nhận, cả về mặt đạo đức lẫn pháp lý.
Syria
Đối với Syria, Tòa Thánh ủng hộ tầm quan trọng của một tiến trình chuyển tiếp hòa bình và công bằng trong nước, cũng như việc bảo vệ quyền của người dân Syria thuộc mọi nguồn gốc sắc tộc và tôn giáo, không phân biệt đối xử. Nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Syria phải được tôn trọng hoàn toàn, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Châu Phi
Tòa Thánh ghi nhận một cách tích cực rằng nền dân chủ tại nhiều quốc gia Châu Phi đang cho thấy những dấu hiệu tiến bộ: ngày càng có sự cam kết nhiều hơn đối với bầu cử đa đảng, sự tham gia của công dân và những cải cách thể chế. Tuy nhiên, các trở ngại đáng kể vẫn còn, chẳng hạn như chủ nghĩa độc tài, những cải cách hiến pháp tùy tiện, và nạn tham nhũng trầm trọng, đang gia tăng sự mất lòng tin vào các thể chế. Tình trạng bất ổn đang ảnh hưởng đến nhiều Quốc gia Châu Phi tạo ra những thách thức sâu sắc và liên kết với nhau, với những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội, kinh tế và nhân đạo. Nạn di cư cưỡng bức, tình trạng di tản trong nước, và sự sụp đổ của các dịch vụ thiết yếu đã tước đoạt của hàng triệu người sự an toàn, y tế và giáo dục, trong khi nạn thất nghiệp nơi giới trẻ lại thúc đẩy nền kinh tế phi chính thức, và trong một số trường hợp, dẫn đến việc tuyển mộ vào các nhóm vũ trang. Phụ nữ và trẻ em, cách riêng, phải chịu đựng bạo lực và bóc lột dưới mọi hình thức.
Trong bối cảnh này, vùng Sahel, Cabo Delgado, và một số khu vực của Sừng Châu Phi nổi lên như những vùng bất ổn. Thật vậy, mối đe dọa thánh chiến, nạn nghèo đói triền miên, buôn lậu bất hợp pháp, khủng hoảng khí hậu, và xung đột nội bộ hội tụ trong một vòng xoáy đưa cuộc sống của hàng triệu người vào tình thế nguy hiểm, bất chấp những nỗ lực của các chính phủ địa phương. Việc bỏ học do khủng hoảng an ninh đã khiến nhiều trẻ vị thành niên đối diện với những mối nguy hiểm nghiêm trọng, làm tổn hại tương lai của lục địa và nuôi dưỡng những hình thức bị gạt ra ngoài lề mới. Trước những thách đố này, khả năng kiên cường của các cộng đồng Châu Phi, đặc biệt là những người trẻ, vẫn là một nguồn lực thiết yếu phải được hỗ trợ bằng các khoản đầu tư có mục tiêu cho giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng, và các mô hình quản trị toàn diện. Hơn bao giờ hết, một cam kết nhất quán và lâu dài của cộng đồng quốc tế là điều cần thiết, dựa trên sự hợp tác chân thành, tôn trọng nhu cầu địa phương và trách nhiệm chung, để hỗ trợ các quốc gia Châu Phi trên con đường hướng tới sự ổn định, hòa bình và phát triển kinh tế.
Cộng hòa Dân chủ Congo
Tình hình ngày càng xấu đi tại khu vực miền đông Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC) là một mối quan ngại của Tòa Thánh. Các tỉnh Ituri, Bắc Kivu và Nam Kivu đang phải đối diện với những căng thẳng sắc tộc, bạo lực do các nhóm phiến quân gây ra, các cuộc đụng độ vũ trang, vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, và tranh chấp về việc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đất nước này đã phải đối mặt với một trong những cuộc khủng hoảng đa chiều phức tạp nhất thế giới trong nhiều năm, đặc trưng bởi tình hình an ninh đầy bất ổn và một tình trạng khẩn cấp nhân đạo ngày càng nghiêm trọng bao gồm tình trạng suy dinh dưỡng cấp tính và di tản hàng loạt.
Tòa Thánh hoan nghênh việc ký kết Thỏa thuận Hòa bình Toàn diện giữa DRC và nhóm vũ trang M23, cũng như Thỏa thuận Hòa bình được ký bởi các bộ trưởng ngoại giao của Congo và Rwanda, nhằm mục đích chấm dứt nhiều thập kỷ giao tranh tại miền đông đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn lo ngại về những làn sóng bạo lực mới. Tháng Bảy vừa qua, Lực lượng Dân chủ Đồng minh (ADF) đã thực hiện một cuộc tấn công khủng bố tàn bạo vào một nhà thờ ở Komanda, tỉnh Ituri, khiến hơn 40 tín hữu bị thiệt mạng. Việc rút quân của Phái bộ Ổn định của Liên Hợp quốc tại Cộng hòa Dân chủ Congo (MONUSCO) đặt ra những câu hỏi về khả năng hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức này và giải quyết những thách thức đang diễn ra.
Điều cần thiết là phải tăng cường sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế và các nỗ lực hòa giải chính trị và ngoại giao để bảo đảm rằng các bên thực hiện cam kết của họ và tìm ra một giải pháp ổn định và thích hợp cho tình hình đang diễn ra.
Sudan
Cuộc xung đột huynh đệ tương tàn tại Sudan cũng là một mối quan ngại sâu sắc, vì nó tiếp tục gây ra những cái chết và sự tàn phá, dẫn đến sự đau khổ cho dân thường. Tòa Thánh mạnh mẽ lặp lại lời kêu gọi chấm dứt ngay lập tức các hành động thù địch và bắt đầu tiến trình đàm phán chân thành – là con đường duy nhất mà qua đó tất cả người dân Sudan có thể tạo dựng một tương lai hòa bình và hòa giải.
Những người có liên quan phải hiểu rằng thời điểm cho trách nhiệm, cho hành động cụ thể và tinh thần liên đới là ngay lúc này. Họ phải thúc đẩy đối thoại giữa các bên và khẩn trương đưa ra hành động nhằm giảm bớt cuộc khủng hoảng nhân đạo đang diễn ra. Sự đau khổ của người dân Sudan đang kêu gào phải được nghe thấy, xuyên thủng sự im lặng của thế giới. Không còn chỗ cho sự thờ ơ nữa.
Nam Sudan
Tòa Thánh đang theo dõi chặt chẽ các diễn biến ở Nam Sudan và kêu gọi tất cả các nhân tố chính trị cam kết đi theo con đường đối thoại và hợp tác, và thực hiện Thỏa thuận Hòa bình năm 2018 với sự chân thành và trách nhiệm, như là nền tảng để xây dựng sự chung sống hòa bình và công bằng. Tòa Thánh cũng mời cộng đồng quốc tế quảng đại hỗ trợ quốc gia non trẻ này trên con đường tiến tới hòa bình và hòa giải, và cung cấp viện trợ nhân đạo cần thiết để giảm bớt đau khổ của người dân. Điều này sẽ góp phần xây dựng một tương lai hy vọng và phẩm giá cho tất cả người dân Nam Sudan.
Nạn buôn bán ma túy
Tại nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Châu Mỹ Latinh, nạn buôn bán ma túy đang làm xói mòn các xã hội và gây ra tình trạng bạo lực khốc liệt. Tòa Thánh vô cùng lo ngại về hiện tượng phức tạp này, nó thường gắn liền với các vấn đề xã hội chưa được giải quyết tại các quốc gia. Nó bao gồm việc trồng cây coca, sản xuất các chất gây ảo giác tổng hợp, và việc thương mại hóa chúng. Những hoạt động này được thực hiện bởi các tổ chức tội phạm có quy mô toàn cầu. Bên cạnh những nỗ lực chung của các Quốc gia nhằm chống lại nạn buôn bán ma túy, Tòa Thánh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đầu tư vào phát triển con người, chẳng hạn như giáo dục và tạo việc làm, để ngăn chặn con người vô tình bị lôi kéo vào.
Tình hình tại vùng Caribê
Tòa Thánh cũng lo lắng trước những căng thẳng ngày càng gia tăng ở vùng Biển Caribê và kêu gọi sự kiềm chế để ngăn chặn mọi hành động có thể gây mất ổn định sự chung sống giữa các quốc gia và làm suy yếu luật pháp quốc tế.
Haiti
Tình hình bi đát ở Haiti cũng đang được Tòa Thánh theo dõi chặt chẽ. Đất nước này bị hoành hành bởi mọi hình thức bạo lực, nạn buôn người, cảnh tha hương bắt buộc và các vụ bắt cóc. Tòa Thánh hy vọng rằng, với sự hỗ trợ cần thiết và cụ thể từ cộng đồng quốc tế, các điều kiện xã hội và thể chế có thể được tạo ra để giúp người dân Haiti tiến tới hòa bình và an ninh.
Nicaragua
Tòa Thánh đang hết sức quan tâm đến tình hình ở Nicaragua và hy vọng rằng tự do tôn giáo và các quyền căn bản khác của các cá nhân và xã hội sẽ được bảo đảm một cách đầy đủ. Tòa Thánh nhắc lại sự cần thiết của việc tham gia cách chân thành, tôn trọng và mang tính xây dựng vào đối thoại nhằm tìm kiếm các giải pháp thúc đẩy hòa bình và hòa hợp trong nước.
Vùng Nam Á
Chuyển sang Đông Nam Á, nhiều tình trạng bất ổn và xung đột đang làm trầm trọng thêm những mối quan ngại về nhân đạo vốn đã kéo dài. Tại Myanmar, bốn năm rưỡi xung đột trong nước đã khiến người dân địa phương bị tàn phá. Chỉ riêng tại Bang Rakhine, hơn 2 triệu người đang có nguy cơ bị đói kém, và người Rohingya tiếp tục chịu đựng sự phân biệt đối xử từ cả các nhóm vũ trang và chính quyền quân sự.
Trong hoàn cảnh xung đột kéo dài này, tội phạm xuyên quốc gia ngày càng gia tăng. Nạn buôn bán và sử dụng ma túy cùng với nạn buôn người đang có chiều hướng gia tăng đáng lo ngại ở Đông Nam Á. Hiện tượng được gọi là trung tâm lừa đảo, nơi những người bị lừa bán bị ép buộc phải lừa gạt người khác trên không gian mạng để gửi tiền cho các mạng lưới tội phạm, là đặc biệt đáng lo ngại. Những cuộc điều tra gần đây cho thấy có hàng chục ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn người bị bán và bị giam giữ trong các trung tâm này, nằm chủ yếu dọc theo các khu vực biên giới giữa Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia và Lào. Ngành công nghiệp trị giá hàng tỷ đô la này tạo ra hàng triệu nạn nhân bị sa vào các vụ lừa đảo. Chỉ với những nỗ lực phối hợp của cộng đồng quốc tế thì tội phạm xuyên quốc gia mới có thể được xử lý cách thỏa đáng.
Để bảo đảm ích chung của xã hội, điều cần thiết là phải duy trì pháp quyền. Việc bảo đảm công lý, tính minh bạch và tôn trọng các quyền tự do dân sự và chính trị càng trở nên quan trọng hơn trong các giai đoạn chuyển đổi chính trị.
Trong bối cảnh này, sự đoàn kết quốc tế và khu vực là vai trò then chốt. Tòa Thánh khuyến khích các nỗ lực của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), dựa trên các nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp, xây dựng sự đồng thuận và giải quyết tranh chấp trong hòa bình, để thúc đẩy các tiến trình kiến tạo hòa bình mang tính bao gồm và do địa phương lãnh đạo.
Vùng Balkan
Tòa Thánh đang theo dõi sát sao các diễn biến tại khu vực Tây Balkan, đặc biệt là ở Bosnia và Herzegovina. Các quốc gia vùng Balkan được kết nối với các giá trị Châu Âu vì những lý do lịch sử, văn hóa và địa lý, và về mặt thể chế, họ khao khát được hội nhập với các Quốc gia đã thuộc về Liên minh Châu Âu. Điều quan trọng là những khác biệt về sắc tộc, văn hóa và tôn giáo không dẫn đến sự chia rẽ, nhưng ngược lại, trở thành một nguồn mạch làm phong phú cho Châu Âu và thế giới nói chung. Tòa Thánh khẳng định rằng các vấn đề thuộc về lịch sử cùng như hiện tại ảnh hưởng đến khu vực chỉ có thể được giải quyết thông qua đối thoại và hợp tác.
Vùng Caucasus
Tòa Thánh, trong khi thừa nhận các thỏa thuận hòa bình giữa Armenia và Azerbaijan được ký vào tháng Tám, mời gọi hai quốc gia tiếp tục bước đi trên con đường hòa giải để đạt được nền hòa bình ổn định và lâu dài ở Nam Caucasus.
Chủ nghĩa đa phương hiệu quả dựa trên đối thoại
Thưa Bà Chủ tịch,
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập Liên Hợp quốc, Tòa Thánh tái khẳng định tầm quan trọng bền vững của thể chế này cũng như lợi ích to lớn mà nó đã đạt được trên nhiều lãnh vực kể từ khi thành lập vào năm 1945. Liên Hợp quốc tiếp tục là một diễn đàn quan trọng mà trong đó tất cả các quốc gia tham gia vào đối thoại với tư cách là các quốc gia có chủ quyền bình đẳng để giải quyết những thách đố toàn cầu.
Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận những hạn chế và thiếu sót của Liên Hợp quốc, cũng như khủng hoảng uy tín ngày càng tăng trong hệ thống đa phương. Thay vì làm lu mờ những thành tựu của Liên Hợp quốc, những thách đố này cần truyền cảm hứng cho một cam kết đổi mới cho việc phục hồi sức sống của nó.
Có một sự đồng thuận chung ngày càng lớn trong cộng đồng quốc tế về sự cần thiết phải cải cách thể chế này bằng cách tái khám phá nền tảng của nó và thích ứng để phản ánh nhu cầu của kỷ nguyên hiện nay. Như Đức Giáo hoàng Lêô XIV khẳng định: “Nỗ lực này, trong đó tất cả chúng ta đều được kêu gọi tham gia, có thể bắt đầu loại bỏ những nguyên nhân sâu xa của mọi xung đột và mọi mong muốn hủy diệt để chinh phục. Nó đòi hỏi một thiện chí chân thành để tham gia vào đối thoại, được thôi thúc bởi mong muốn giao tiếp hơn là đối đầu. Do đó, cần phải thổi sức sống mới cho ngoại giao đa phương và cho những định chế quốc tế được hình thành và thiết kế chủ yếu để giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra trong cộng đồng quốc tế.”[32]
Tòa Thánh kêu gọi tái cam kết với các nguyên tắc nền tảng được ghi trong Hiến chương Liên Hợp quốc, những nguyên tắc mà ngày nay vẫn còn mang tính thời sự hơn bao giờ hết. Điều quan trọng là phải chống lại cám dỗ thay thế những cam kết nền tảng này bằng những ý tưởng hoặc chương trình mới có nguy cơ làm phai nhạt sứ mạng của Liên Hợp quốc. Cốt lõi của sứ mạng này là đạt được sự quân bình giữa bốn trụ cột của Liên Hợp quốc: thúc đẩy nhân quyền, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, đạt được phát triển bền vững, và bảo đảm pháp quyền. Pháp quyền, nói riêng, là sine qua non (điều kiện tiên quyết) của một trật tự quốc tế công bằng, làm nền tảng cho tất cả các nỗ lực khác.
Kỷ niệm này cũng là cơ hội để củng cố vị thế của Liên Hợp quốc như một ngọn hải đăng hy vọng và một sức mạnh tốt lành trong việc giải quyết những nhu cầu cấp bách nhất của nhân loại.
________________________
[1] Pope Leo XIV, First blessing “Urbi et Orbi”, 8 May 2025.
[2] Cfr. Pope Leo XIV, Address to the members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See, 16 May 2025.
[3] Pope Leo XIV, Address to the members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See, 16 May 2025.
[4] Vatican Council II, Gaudium et Spes, 77.
[5] Pope Leo XIV, Message to the participants in the 44th Session of the FAO Conference, 30 June 2025.
[6] Cfr. Pope Francis, Spes non confundit, 16; Pope Francis, Address to the Conference of the Parties to the United Nations Framework Convention on Climate Change, 2 December 2023.
[7] Pope Francis, Urbi er Orbi, 20 April 2025.
[8] Stockholm International Peace Research Institute (SIPRI). "World Military Expenditure Reaches $2.72 Trillion in 2024." SIPRI, 2024. Available at: https://www.sipri.org.
[9] Pope Francis, Address to the participants in The International Symposium “Prospects for a World Free of Nuclear Weapons And For Integral Disarmament”, 10 November 2017.
[10] Pope Francis, Address on Nuclear Weapons, Atomic Bomb Hypocenter Park (Nagasaki), 24 November 2019.
[11] Pope Leo XIV, Message to the participants in the 44th Session of the FAO Conference, 30 June 2025.
[12] Vatican Council II, Gaudium et Spes, 79 §4.
[13] Cfr. Compendium of the social doctrine of the Church, 502-503.
[14] Pope Leo XIV, Address to Participant in the Plenary Session of the “Reunion of aid agencies for Oriental Churches” (ROACO), 26 June 2025
[15] Cfr. Vatican II, Dignitatis Humanae, 2.
[16] Pope Leo XIV, Address to the members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See, 16 May 2025.
[17] Cfr. Pope John Paul II, Evangelium Vitae, 19-20
[18] Pope Leo XIV, Address to the members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See, 16 May 2025.
[19] Pope Francis, Address to the Unite Nations General Assembly, 25 September 2015.
[20] Cf. Compendium of the social doctrine of the Church, 408.
[21] Saint Augustine, De civitate Dei, Book IV, Chapter 4: “Remota itaque iustitia, quid sunt regna nisi magna latrocinia? Quid et ipsa latrocinia nisi parva regna?”
[22] Pope Leo XIV, Message to the participants in the 44th Session of the FAO Conference, 30 June 2025.
[23] Ibidem.
[24] Pope John Paul II, Message for the World Day of Peace, 1 January 2000.
[25] Pope Francis, Spes non confundit, 16
[26] Pope Leo XIV, Message for the 10th World Day of Prayer for the Care of Creation, 1 September 2025.
[27] Cfr. Pope Leo XIV, Homily in the Holy Mass for the Care of Creation, Borgo Laudato si’, 9 July 2025..
[28] Pope Leo XIV, Message for the 10th World Day of Prayer for the Care of Creation, 1 September 2025.
[29] Ibidem.
[30] Pope Leo XIV, Address to the College of Cardinals, 10 May 2025.
[31] Pope Leo XIV, General Audience, 27 August 2025.
[32] Pope Leo XIV, Address to the members of the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See, 16 May 2025.
[Nguồn: vatican.va]
[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 1/10/2025]