Thứ Hai, 22 tháng 9, 2025

Năm Thánh Công lý - Diễn văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV

Năm Thánh Công lý - Diễn văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV

NĂM THÁNH CÔNG LÝ

DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

Quảng trường Thánh Phêrô
Thứ Bảy, 20 tháng 9 năm 2025
____________________________________


Muy buenos días a todos, chào anh chị em!

Anh chị em thân mến,

Tôi vui mừng được chào đón anh chị em nhân dịp Năm Thánh dành riêng cho những người đang hoạt động trong lãnh vực rộng lớn của công lý, dưới nhiều hình thức khác nhau. Tôi thân ái chào các vị chức trách hiện diện tại đây, đến từ nhiều quốc gia, đại diện cho các tòa án khác nhau, và tất cả anh chị em là những người hằng ngày thực thi một sứ vụ cần thiết cho các mối tương quan có trật tự giữa các cá nhân, cộng đồng và các quốc gia. Tôi cũng gỏ lời chào anh chị em hành hương khác đã đến tham dự Năm Thánh này! Năm Thánh biến tất cả chúng ta thành những người lữ hành, khi khám phá lại các dấu chỉ của một niềm hy vọng không làm thất vọng, chúng ta mong muốn “tìm lại niềm tín thác mà chúng ta cần, trong Giáo Hội và trong xã hội, trong các mối tương quan liên vị, trong các quan hệ quốc tế, và trong bổn phận của chúng ta là cổ võ phẩm giá của mọi người cùng sự tôn trọng hồng ân tạo dựng của Thiên Chúa” (Đức Phanxicô, Spes Non Confundit, 25).

Còn dịp nào tốt hơn dịp này để suy tư sâu xa hơn về công lý và chức năng của nó, là điều mà chúng ta biết là không thể thiếu cho sự phát triển có trật tự của xã hội, và cũng là một nhân đức trụ cột, soi sáng và hướng dẫn lương tâm của mỗi con người. Thực vậy, công lý được mời gọi giữ một vai trò cao hơn trong sự chung sống của con người, một vai trò không thể bị thu hẹp vào việc áp dụng luật pháp đơn thuần hay chỉ là công việc của các thẩm phán, cũng không thể chỉ giới hạn trong các khía cạnh thủ tục.

Câu Kinh Thánh, “Ưa điều chính trực, ghét điều gian ác” (Tv 45:7), nhắc nhở và khuyến khích chúng ta làm điều thiện và tránh điều ác. Thật vậy, biết bao sự khôn ngoan được chứa đựng trong châm ngôn, “Hãy trả cho mỗi người những gì thuộc về họ!” Thế nhưng, tất cả những điều này vẫn chưa thể diễn tả hết khát khao sâu thẳm về công lý hiện hữu trong mỗi người chúng ta, khát khao công lý là công cụ then chốt để xây dựng ích chung trong mọi xã hội loài người. Thật vậy, công lý bao hàm phẩm giá của cá nhân, các mối tương quan với tha nhân, cũng như chiều kích cộng đồng của sự chung sống, với những cơ cấu và quy luật chung của nó. Nó thiết lập một vòng tuần hoàn giữa các mối tương quan xã hội, đặt giá trị của mỗi con người làm trung tâm và tìm cách gìn giữ giá trị ấy thông qua công lý, đặc biệt khi phải đối diện với những xung đột có thể phát sinh từ hành động cá nhân hay từ sự mất đi ý thức cộng đồng vốn tác động đến các thể chế và cơ cấu.

Truyền thống dạy chúng ta rằng công lý, trước hết, là một nhân đức, nghĩa là một thái độ vững chắc và ổn định, sắp xếp hành vi của chúng ta theo lý trí và đức tin (xem Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, 1804). Đặc biệt, nhân đức công lý bao gồm “ý chí kiên định và vững vàng luôn trả cho Thiên Chúa và cho tha nhân những gì thuộc về họ” (sđd., 1807). Theo tầm nhìn này, đối với người tín hữu, công lý mời gọi chúng ta “tôn trọng quyền của mỗi người và thiết lập trong các mối tương quan của con người sự hòa hợp thúc đẩy sự công bằng liên quan đến con người và ích chung” (sđd.). Mục tiêu của nó là bảo đảm một trật tự nhằm bảo vệ những người yếu thế – những người tìm kiếm công lý vì họ đã bị áp bức, bị loại trừ hoặc bị lãng quên,

Có nhiều ví dụ trong các Tin Mừng, trong đó hành động của con người được đo lường bằng một công lý có khả năng vượt thắng tội ác lạm quyền. Chẳng hạn, sự kiên trì của bà góa đã thúc giục vị thẩm phán khôi phục lại ý thức về công lý của ông (xem Lc 18:1-8). Cũng có một công lý cao cả hơn, trả công cho người thợ làm giờ cuối ngang bằng với người làm cả ngày (xem Mt 20:1-16); một công lý lấy lòng thương xót làm chìa khóa để thấu hiểu các mối tương quan và dẫn chúng ta đến sự tha thứ, đón nhận người con đã mất nay được tìm thấy (xem Lc 15:11-32); và hơn thế nữa, một công lý mời gọi chúng ta tha thứ không phải bảy lần, mà là bảy mươi lần bảy (xem Mt 18:21-35). Chính sức mạnh của sự tha thứ này, vốn gắn liền với giới răn yêu thương, nổi bật lên như một yếu tố cấu thành của một nền công lý có khả năng kết hợp siêu nhiên với nhân loại.

Vì thế, công lý của Tin Mừng không lấy đi công lý của con người, nhưng thách thức và tinh luyện nó. Nó thúc đẩy công lý của con người tiến xa hơn nữa, thúc đẩy nó hướng đến việc tìm kiếm sự hòa giải. Thật vậy, sự dữ không chỉ chịu trừng phạt mà còn phải được sửa chữa, và để đạt được điều này, cần phải nhìn sâu vào lợi ích của các cá nhân cũng như ích chung. Nhiệm vụ này rất khó khăn, nhưng không phải là không thể đối với những người, ý thức rằng mình đang thi hành một sứ vụ khó khăn hơn những người khác, cam kết sống một cuộc đời công chính. Như chúng ta đã biết, công bình trở nên cụ thể khi nó vươn tới tha nhân, khi mỗi người được trả lại những gì thuộc về họ, cho đến khi đạt được sự bình đẳng về phẩm giá và cơ hội giữa mọi người. Tuy nhiên, chúng ta nhận thức rằng sự bình đẳng thực sự không giống như sự bình đẳng hình thức trước pháp luật. Trong khi sự bình đẳng hình thức là một điều kiện không thể thiếu để thực thi công lý một cách đúng đắn, nó không loại trừ được thực trạng của sự phân biệt đối xử ngày càng gia tăng, mà hệ quả chính là thiếu khả năng tiếp cận công lý. Ngược lại, sự bình đẳng đích thực là khả năng được trao cho tất cả mọi người để họ có thể thực hiện khát vọng của mình và để những quyền gắn liền với phẩm giá của họ được bảo đảm bởi một hệ thống các giá trị chung và được chia sẻ – những giá trị có khả năng truyền cảm hứng cho các quy phạm và luật lệ làm nền tảng cho hoạt động của các thể chế.

Ngày nay, điều thôi thúc những người hoạt động trong việc quản trị công lý chính là tìm kiếm – hoặc phục hồi – những giá trị đã bị lãng quên trong đời sống chung của chúng ta, cũng như quan tâm và tôn trọng chúng. Đây là một tiến trình hữu ích và cần thiết trước sự xuất hiện các hành vi và chiến lược khinh thường sự sống con người ngay từ lúc bắt đầu, chối bỏ những quyền cơ bản thiết yếu cho sự hiện hữu của cá nhân, và không tôn trọng lương tâm, nơi sự tự do tuôn đổ. Chính qua các giá trị làm nền tảng cho đời sống xã hội mà công lý đảm nhận vai trò trung tâm của nó trong sự chung sống giữa các cá nhân và cộng đồng. Như Thánh Augustinô đã viết: “Công lý không phải là công lý nếu nó không đồng thời là thận trọng, mạnh mẽ và tiết độ” (Letters 167, 2, 5). Điều này đòi hỏi khả năng luôn suy tư dưới ánh sáng của sự thật và sự khôn ngoan để diễn giải luật một cách sâu sắc – vượt trên chiều kích thuần túy hình thức – để nắm bắt ý nghĩa sâu xa hơn của sự thật mà chúng ta phục vụ. Do đó, việc nỗ lực hướng tới công lý đòi hỏi khả năng yêu quý nó như một thực tại chỉ có thể đạt được thông qua sự chú tâm không ngừng nghỉ, hoàn toàn vô vị lợi và sự phân định kiên trì. Khi công lý được thực thi, người ta đặt mình phục vụ các cá nhân, xã hội và nhà nước, với sự cống hiến trọn vẹn và kiên định. Sự cao cả của công lý không giảm đi khi nó được áp dụng cho những vấn đề nhỏ, nhưng nó luôn trổi vượt lên khi được thực thi trong sự trung thành với luật pháp và với lòng tôn trọng con người, bất kể họ ở đâu trên thế giới (xem Thánh Augustinô, De Doctrina Christiana IV, 18, 35).

“Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng” (Mt 5:6). Với mối phúc này, Chúa Giêsu bày tỏ sự căng thẳng tinh thần mà chúng ta phải mở lòng đón nhận – không chỉ để đạt được công lý đích thực, mà trên hết là để tìm kiếm nó, đặc biệt là nơi những người được kêu gọi thực thi nó trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau. “Khát khao” công lý có nghĩa là nhận ra rằng nó đòi hỏi nỗ lực cá nhân nhằm diễn giải luật pháp một cách nhân bản nhất có thể. Nhưng, trên hết, nó mời gọi chúng ta nỗ lực hướng tới một sự “no thỏa” chỉ có thể đạt được trong một nền công lý cao cả hơn, vượt trên những hoàn cảnh cụ thể.

Các bạn thân mến, Năm Thánh cũng mời gọi chúng ta suy tư về một khía cạnh của công lý thường bị bỏ qua: thực trạng của rất nhiều quốc gia và dân tộc đang “khao khát công lý” vì điều kiện sống của họ quá bất công và phi nhân đến mức không thể chấp nhận được. Do đó, đối với bối cảnh quốc tế hiện nay, cần phải áp dụng những lời tuyên bố luôn có giá trị sau đây: “Không có công lý thì không thể quản trị quốc gia; không thể có luật pháp trong một nhà nước không có công lý đích thực. Một hành động được thực hiện theo luật pháp chắc chắn được thực hiện theo công lý, và không thể có một hành động thực sự hợp pháp nếu nó được thực hiện ngược lại công lý… Một nhà nước không có công lý thì không phải là một nhà nước. Thật vậy, công lý là nhân đức trả lại cho mỗi người những gì thuộc về họ. Do đó, không phải là công lý đích thực nếu nó tách nhân loại ra khỏi Thiên Chúa thật” (Thánh Augustinô, De Civitate Dei, XIX, 21, 1). Ước chi những lời đòi hỏi này của Thánh Augustinô truyền cảm hứng cho mỗi chúng ta để thể hiện việc thực thi công lý như một việc phục vụ con người, bằng khả năng tốt nhất của chúng ta, luôn hướng mắt về Thiên Chúa, để tôn trọng trọn vẹn công lý, luật pháp và phẩm giá của mỗi người.

Với niềm hy vọng này, tôi xin cảm ơn và chúc lành cho từng người anh chị em, cho gia đình và công việc của anh chị em.


[Nguồn: vatican.va

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 21/9/2025]


Vatican lập tài liệu 1.600 vị tử đạo vì đức tin trong 25 năm qua

Vatican lập tài liệu 1.600 vị tử đạo vì đức tin trong 25 năm qua

Các nhà thần học và chuyên gia đã lập thành tài liệu những câu chuyện của hơn 1.600 người bị sát hại trong 25 năm qua vì lý do là người Kitô hữu Photo: YouTube Al Rojo Vivo/Telemundo

*******

Vatican lập tài liệu 1.600 vị tử đạo vì đức tin trong 25 năm qua

Trong số này, có 643 vị bị giết tại Châu Phi Hạ Sahara, 357 vị tại Châu Á và Châu Đại Dương, 304 vị tại Châu Mỹ, 277 vị tại Trung Đông và Maghreb, và 43 vị tại Châu Âu.

15, THÁNG CHÍN, 2025 17:37

ZENIT STAFF

(ZENIT News / Roma 15.09.2025). - Một ủy ban của Vatican gồm các sử gia, thần học gia và các chuyên gia khác đã lập thành tài liệu những câu chuyện của hơn 1.600 người nam và nữ đã bị sát hại trong 25 năm qua vì là Kitô hữu. Tổ chức từ thiện Công giáo Trợ giúp Giáo hội Đau khổ (ACN) đã hỗ trợ công việc của ủy ban này, phù hợp với đặc sủng của họ. Nghiên cứu tỉ mỉ vừa được công bố này đã hoàn tất công việc được thực hiện trong dịp Năm Thánh 2000, theo yêu cầu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lúc bấy giờ.

Đức Thánh Cha Lêô XIV đã mời đại diện từ tất cả các hệ phái Kitô giáo tham dự Phụng vụ Lời Chúa tại Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô Ngoại Thành hôm Chúa Nhật ngày 14 tháng 9, để vinh danh những “chứng nhân đức tin” đó.

Các thành viên của ủy ban đã làm việc từ tháng 7 năm 2023, khi Đức Thánh Cha Phanxicô yêu cầu ủy ban “thu thập những lời chứng về đời sống, cho đến khi đổ máu đào, của những anh chị em này của chúng ta, để ký ức của họ trở thành một kho tàng quý giá được cộng đoàn Kitô hữu lưu giữ.”

Khi đó, ngài nói rõ rằng nghiên cứu này không nên giới hạn trong Giáo hội Công giáo, mà nên “mở rộng đến tất cả các hệ phái Kitô giáo”, đồng thời thêm rằng “chúng ta mang ơn rất lớn đối với tất cả họ, và chúng ta không thể quên các họ.”

Vị đứng đầu Ủy ban là Đức Tổng Giám mục Fabio Fabene, đã lưu ý trong buổi trình bày kết quả rằng “tử đạo đã tồn tại trong mọi thời kỳ của Giáo hội, nhưng có lẽ ngày nay, hơn bao giờ hết, nhiều người đã hiến dâng mạng sống mình để không phản bội sứ điệp của Đức Kitô.”

Phó Chủ tịch Ủy ban, ông Andrea Riccardi, người sáng lập Cộng đoàn Sant’Egidio, nhấn mạnh rằng mục đích của công việc này là “để ghi nhớ các vị ấy, để ký ức của họ không bị phai mờ và tên tuổi của những người đã ngã xuống vì đức tin không bị lãng quên.”

Để hoàn thiện danh sách, ủy ban đã nhờ sự hỗ trợ từ các hội đồng giám mục, các dòng tu và tổ chức khác của Giáo hội. Đồng thời ủy ban cũng tham khảo các tài khoản truyền thông đã được kiểm chứng cẩn thận. Sau hơn một năm rưỡi làm việc, ủy ban đã xác định và xác nhận 1.624 trường hợp Kitô hữu, thuộc mọi hệ phái, bị giết vì đức tin từ năm 2000 đến năm 2025.

Trong số này, có 643 vị bị giết tại Châu Phi Hạ Sahara, 357 vị tại Châu Á và Châu Đại Dương, 304 vị tại Châu Mỹ, 277 vị tại Trung Đông và Maghreb, và 43 vị tại Châu Âu.

Theo ông Andrea Riccardi, “đây không phải là một con số đầy đủ, vì sự tử đạo không thể được thống kê đầy đủ, nhất là ở những vùng xa xôi hẻo lánh.”

Hoàn cảnh xung quanh những cái chết này khác nhau tùy theo vùng địa lý. “Nhiều chứng nhân đức tin ở Châu Mỹ đã chết dưới tay các tổ chức tội phạm, những kẻ buôn bán ma túy, hoặc vì họ đã ngăn chặn nạn phá rừng và khai thác tài nguyên thiên nhiên.”

Ông Riccardi giải thích: “Sự hiện diện của người Kitô hữu sống ngay chính, tôn trọng luật pháp và ích chung, đã là mối phiền toái của những kẻ muốn thực hiện các hoạt động phạm pháp.” Ông nói thêm rằng con số 357 vị bị giết ở Châu Á và Châu Đại Dương bao gồm 200 vị bị giết vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 2019 trong vụ đánh bom nhằm vào các nhà thờ Công giáo và Tin lành ở Sri Lanka, và các vị tử đạo ở Châu Phi “chủ yếu bị giết bởi lực lượng thánh chiến hoặc vì vai trò của họ trong các cuộc xung đột chính trị – sắc tộc.”

Ủy ban quyết định không công bố danh sách đầy đủ các tên “cho đến thời thích hợp để làm việc đó,” mặc dù một số tên đã được nêu rõ, chẳng hạn như bảy tu sĩ Anh giáo từ Hội Huynh đệ Melanesia bị tra tấn và giết bởi thủ lĩnh của một nhóm dân quân khi họ đang cố gắng hòa giải một cuộc xung đột địa phương tại Quần đảo Solomon vào năm 2003; Linh mục Ragheed Ganni người Iraq, người đã từ chối đóng cửa giáo xứ của ngài ở Mosul và bị nhóm khủng bố ISIS giết vào ngày 3 tháng 6 năm 2007; Abish Masih, một cậu bé 10 tuổi bị thiệt mạng trong một vụ đánh bom vào nhà thờ ở Youhanabad, Pakistan, năm 2015. 21 vị tử đạo người Copte bị sát hại vào tháng 2 năm 2015 trên bờ biển Libya và được Đức Thánh Cha Phanxicô thêm vào Sách Tử đạo của Roma; bốn nữ tu Thừa sai Bác ái bị giết trong tu viện của họ ở Aden, Yemen, bởi những người đàn ông bịt mặt tấn công ngôi nhà dành cho người già nơi các chị phục vụ; và Thầy Paul McAuley, một tu sĩ Thừa sai La Salle tại vùng Amazon thuộc Peru, người đã tích cực bảo vệ người bản địa và môi trường, và được tìm thấy đã chết và bị thiêu vào năm 2019 tại ngôi trường nơi Thầy dạy học.

Theo ông Riccardi, “công trình của ủy ban này và buổi cử hành đại kết vào Chúa Nhật ngày 14 tháng 9 cho thấy rằng Giáo hội của chúng ta vẫn là một Giáo hội của các vị tử đạo, và các vị ấy có nhiều điều để dạy chúng ta. Họ là những người đương thời với chúng ta mà chúng ta có thể đã gặp gỡ và quen biết trong đời.”

Trong bối cảnh Năm Thánh Hy vọng, ông nhấn mạnh rằng đây là “những người nam và nữ đã tin vào một Thiên Chúa trung tín với họ ngay cả trong những nghịch cảnh. Giáo hội coi việc tưởng nhớ các vị tử đạo không phải là một khoảnh khắc của nỗi buồn sầu mà là niềm hy vọng cho tương lai.”

Bà Regina Lynch, Chủ tịch điều hành của ACN, nhấn mạnh tầm quan trọng của những kết quả này, nói rằng “chúng phản ánh kinh nghiệm làm việc của chúng tôi trên thực địa, giúp đỡ các cộng đồng phải đối mặt với những mối đe dọa sinh tồn thường xuyên. ACN rất tự hào được đồng hành và hỗ trợ những Kitô hữu này, nhưng trên hết, chúng tôi biết ơn vì được học hỏi từ chứng tá của họ, nó củng cố đức tin của chúng tôi cũng như của các ân nhân mỗi ngày.”

Khi thành lập Ủy ban vào năm 2023, Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích rằng “các Kitô hữu tiếp tục thể hiện sức sống của Bí tích Rửa tội đã kết hợp chúng ta trong những hoàn cảnh đầy hiểm nguy. Quả thật, một số không nhỏ những người, mặc dù nhận thức được các mối nguy hiểm mà họ phải đối mặt, vẫn bày tỏ đức tin của mình hoặc tham dự Thánh lễ Chúa Nhật. Những người khác bị giết khi đang nỗ lực thực thi bác ái để giúp đỡ cuộc sống của người nghèo, chăm sóc những người bị xã hội ruồng bỏ, trân trọng và thăng tiến món quà hòa bình và sức mạnh của sự tha thứ. Còn có những người khác là nạn nhân âm thầm của các biến động lịch sử, với tư cách cá nhân hoặc các nhóm.”


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 19/9/2025]