Thứ Tư, 8 tháng 10, 2025

Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi một kỷ nguyên truyền giáo và chào đón mới

Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi một kỷ nguyên truyền giáo và chào đón mới

*******

Tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã chủ sự Thánh lễ Năm Thánh cho các Nhà Truyền giáo và Người Di cư, trong đó ngài nhấn mạnh đến tính cấp bách của một Giáo hội “ra đi” và sự cần thiết của văn hóa huynh đệ trong bối cảnh của sự thờ ơ và kỳ thị.

Trong khuôn khổ Năm Thánh của Thế giới Truyền giáo và Di dân, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự Thánh lễ trọng thể tại Quảng trường Thánh Phêrô, trong bầu khí hân hoan và suy tư về vai trò của truyền giáo trong Giáo hội đương đại.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “toàn thể Giáo hội là truyền giáo” và ngày nay, biên giới của việc truyền giáo không còn được đo bằng cây số, mà bằng những nỗi khổ đau của nhân loại đang gõ cửa các cộng đoàn Kitô giáo: “Đó không còn là vấn đề ra đi đến những vùng đất xa xôi, mà là ở lại, là đón tiếp, là mở rộng vòng tay và con tim với những ai đến với sự mong manh và niềm hy vọng.”

Đức Giáo hoàng đặc biệt nhấn mạnh đến thảm cảnh của người di cư: “Thưa anh chị em, những chiếc thuyền đang mong chờ để nhìn thấy một bến cảng an toàn thì không thể nào, cũng không được phép, để những đôi mắt chứa đầy thống khổ đó bắt gặp sự lạnh lùng của thái độ thờ ơ hay sự kỳ thị.” Trước thách thức này, ngài thúc giục một sự phản ứng của lòng trắc ẩn và tình liên đới, biến người tín hữu thành “một sự hiện diện của niềm an ủi và hy vọng.”

Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

Trong bài suy niệm, Đức Thánh Cha nhắc lại lời của ngôn sứ Kha-ba-cúc và những suy tư của Đức Bênêđictô XVI về sự im lặng của Thiên Chúa trước sự dữ, đồng thời chỉ ra rằng đức tin chính là câu trả lời mở ra con đường cứu độ: “Đức tin, dù chỉ nhỏ bé bằng hạt cải, vẫn chứa đựng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa làm biến đổi lịch sử.”

Đức Thánh Cha trình bày hai cam kết nền tảng cho sứ vụ của Giáo hội: cộng tác truyền giáo — mời gọi các Giáo hội có truyền thống lâu đời để cho mình trở nên phong phú bởi sức sống của các cộng đoàn thuộc Nam bán cầu — và cổ võ ơn gọi truyền giáo mới, đặc biệt tại Châu Âu, hướng đến giới trẻ.

Ngài khẳng định: “Hôm nay, một kỷ nguyên truyền giáo mới bắt đầu trong lịch sử Giáo Hội,” trích lời Thánh Giáo hoàng Phaolô VI và vị tiền nhiệm là Đức Thánh Cha Phanxicô, để nhấn mạnh đến tính cấp bách của việc “sống trong trạng thái truyền giáo liên tục.”

Bài giảng kết thúc với phép lành đặc biệt dành cho các nhà truyền giáo, các cộng đoàn địa phương và những người di dân, những người mà Đức Thánh Cha gửi tới thông điệp rõ ràng: “Anh chị em luôn được chào đón. Biển cả và sa mạc mà anh chị em đã vượt qua, trong Kinh Thánh, là những nơi cứu độ. Ước gì anh chị em gặp được dung nhan Thiên Chúa nơi các nhà truyền giáo đón tiếp anh chị em.”


Toàn văn bài giảng


JUBILEE OF THE MISSIONARY WORLD AND JUBILEE OF MIGRANTS
NĂM THÁNH THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO VÀ NĂM THÁNH NGƯỜI DI CƯ


BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

Quảng trường Thánh Phêrô
Chúa Nhật XXVII Thường Niên, ngày 5 tháng Mười năm 2025

____________________________________


Anh chị em thân mến,

Hôm nay, chúng ta cử hành Năm Thánh của Thế giới Truyền giáo và Người Di cư. Đây là một dịp tốt đẹp để khơi dậy trong chúng ta ý thức về ơn gọi truyền giáo, được sinh ra từ ước muốn mang niềm vui và sự an ủi của Tin Mừng đến với tất cả mọi người, nhất là những người đang sống một lịch sử đầy khó khăn và thương tổn. Tôi nghĩ cách riêng đến những anh chị em di cư của chúng ta, những người đã phải rời bỏ quê hương, thường là phải bỏ lại những người thân yêu, trải qua những đêm tối sợ hãi và cô đơn, và chịu sự kỳ thị và bạo lực.

Chúng ta hiện diện nơi đây, trước mộ của Thánh Tông đồ Phêrô, để mỗi người chúng ta nói lên với niềm hân hoan rằng: toàn thể Giáo hội là truyền giáo, và điều thật cấp bách — như Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định — rằng Giáo hội “phải ra đi để loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người, ở mọi nơi, trong mọi dịp, không trì hoãn, không miễn cưỡng, và không sợ hãi” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 23).

Chính Thánh Thần thôi thúc chúng ta tiếp nối công trình của Đức Kitô nơi các vùng ngoại vi của thế giới, nhiều khi mang dấu ấn của chiến tranh, bất công và đau khổ. Trước những cảnh tượng tối tăm này, trong lịch sử tiếng kêu đã rất thường xuyên thấu lên tới Thiên Chúa nay lại vang lên: Lạy Chúa, sao Chúa không ra tay? Sao Người dường như vắng mặt? Tiếng kêu đau đớn này là một hình thức cầu nguyện thấm đẫm toàn bộ Thánh Kinh, và sáng nay chúng ta nghe lại từ ngôn sứ Khabacuc: “Lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe? Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài. Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn?” (Kb 1:2-3).

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, khi suy tư về những câu hỏi này trong chuyến thăm lịch sử tới trại Auschwitz, trở lại chủ đề này trong một bài giáo lý, ngài nói rằng: “Thiên Chúa im lặng, và sự im lặng này xé nát linh hồn người cầu nguyện, người không ngừng kêu cầu, chẳng tìm được câu trả lời. […] Thiên Chúa dường như quá xa xôi, thật quên lãng, quá vắng bóng” (Bài Giáo lý, ngày 14 tháng Chín năm 2011).

Nhưng câu trả lời của Chúa mở ra cho chúng ta niềm hy vọng. Trong khi ngôn sứ kêu than về sức mạnh không tránh được của sự dữ dường như đang thắng thế, thì Thiên Chúa loan báo rằng tất cả những điều này có một thời hạn nhất định, có hồi kết sau cùng, bởi vì ơn cứu độ sẽ đến và không trì hoãn: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (Kb 2:4).

Do đó, có một sự sống, một cơ hội mới của sự sống và ơn cứu độ đến từ đức tin, bởi đức tin không chỉ giúp chúng ta chống lại sự dữ bằng cách kiên trì trong việc thiện, mà còn biến đổi đời sống của chúng ta để làm cho nó trở thành khí cụ của ơn cứu độ mà Thiên Chúa hằng muốn thực hiện trong thế giới. Và, như Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng, đó là một sức mạnh dịu dàng; đức tin không áp đặt qua các phương tiện quyền lực hoặc theo những cách thức phi thường; một hạt cải là đủ để đạt được những điều tưởng chừng không thể (x. Lc 17:6), bởi vì nó mang trong mình sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa mở ra những con đường cứu độ.

Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

Ơn cứu độ đó được thực hiện khi chúng ta đích thân cam kết và gánh lấy nỗi đau khổ của người lân cận với lòng trắc ẩn của Tin Mừng; ơn cứu độ ấy phát triển cách âm thầm và dường như không hiệu quả trong những cử chỉ và lời nói thường ngày, giống như hạt giống nhỏ bé mà Chúa Giêsu nói đến; đó là ơn cứu độ dần lớn lên khi chúng ta trở thành “những đầy tớ vô dụng,” nghĩa là khi chúng ta dấn thân phục vụ Tin Mừng và anh chị em của mình, không phải để theo đuổi lợi ích riêng, nhưng chỉ nhằm mang tình yêu của Chúa đến cho thế giới.

Với niềm tin tưởng này, chúng ta được mời gọi canh tân trong lòng ngọn lửa của ơn gọi truyền giáo. Như Thánh Phaolô VI khẳng định, “Bổn phận của chúng ta là loan báo Tin Mừng trong thời kỳ phi thường này của lịch sử nhân loại, một thời điểm, chắc chắn, chưa từng có, trong đó, những đỉnh cao của tiến bộ chưa từng đạt được lại đi song song với những vực sâu của sự hoang mang và tuyệt vọng cũng chưa từng có” (Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo, ngày 25 tháng Sáu năm 1971).

Thưa anh chị em, hôm nay, một kỷ nguyên truyền giáo mới đang mở ra trong lịch sử Giáo Hội.

Nếu trong một thời gian dài, chúng ta đã gắn liền truyền giáo với việc “ra đi,” với việc đến những vùng đất xa xôi chưa biết đến Tin Mừng, hoặc đang trong tình trạng nghèo đói, thì ngày nay, biên giới truyền giáo không còn thuộc địa lý nữa, bởi vì sự nghèo đói, đau khổ, và khát khao một niềm hy vọng lớn lao hơn đang đến với chúng ta. Điều này được minh chứng qua câu chuyện của rất nhiều anh chị em di dân của chúng ta: bi kịch họ chạy trốn khỏi bạo lực, nỗi đau khổ đồng hành với họ, nỗi sợ hãi không thể vượt qua, hiểm nguy của những chuyến hành trình dọc theo các bờ biển, tiếng kêu thống thiết và tuyệt vọng của họ. Thưa anh chị em, những chiếc thuyền đang mong chờ để nhìn thấy một bến cảng an toàn thì không thể nào, cũng không được phép, để những đôi mắt chứa đầy thống khổ đó bắt gặp sự lạnh lùng của thái độ thờ ơ hay sự kỳ thị.

Vấn đề không còn là “ra đi,” nhưng là “ở lại” để rao giảng Đức Kitô qua sự đón tiếp, lòng trắc ẩn, và tình liên đới. Ở lại mà không ẩn náu trong sự tiện nghi của chủ nghĩa cá nhân, ở lại để nhìn vào khuôn mặt của những người đến từ những miền đất xa xôi và đau khổ, ở lại để mở rộng vòng tay và trái tim với họ, để chào đón họ như những người anh chị em, để trở thành sự hiện diện của niềm an ủi và niềm hy vọng cho họ.

Có rất nhiều nhà truyền giáo, nam và nữ, nhưng cũng có những tín hữu và người thiện chí, đang làm việc để phục vụ người di cư và thúc đẩy một nền văn hóa huynh đệ mới về vấn đề di cư, vượt lên trên những định kiến và thành kiến. Nhưng sự phục vụ cao quý này thách đố mỗi người chúng ta, trong phạm vi khả năng của mình. Đây là lúc — như Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định — để tất cả chúng ta phải đặt mình trong “trạng thái truyền giáo thường trực” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 25).

Tất cả điều này đòi hỏi ít nhất hai cam kết truyền giáo lớn: hợp thông truyền giáo và ơn gọi truyền giáo.

Trước hết, tôi mời gọi anh chị em cổ võ sự hiệp thông truyền giáo giữa các Giáo Hội. Ở những cộng đoàn có truyền thống Kitô giáo lâu đời, đặc biệt tại phương Tây, sự hiện diện của nhiều anh chị em đến từ phương Nam của thế giới cần được đón nhận như một cơ hội trao đổi phong phú, giúp canh tân dung mạo của Giáo Hội và truyền cảm hứng cho một Kitô giáo cởi mở hơn, sống động và năng động hơn. Đồng thời, mỗi nhà truyền giáo khi ra đi đến miền đất mới được mời gọi cư ngụ giữa nền văn hóa mình gặp gỡ với sự tông trọng thiêng liêng, hướng tất cả những gì tốt đẹp và cao quý mà họ tìm thấy về sự thiện, và mang đến cho họ lời ngôn sứ của Tin Mừng.

Tôi cũng muốn nhắc lại vẻ đẹp và tầm quan trọng của các ơn gọi truyền giáo. Tôi đặc biệt nói với Giáo hội Châu Âu. Ngày nay, cần có một động lực truyền giáo mới, từ giáo dân, tu sĩ, và linh mục dâng hiến sự phục vụ của họ ở các vùng đất truyền giáo, từ những đề xuất và kinh nghiệm ơn gọi mới có khả năng khơi dậy ước muốn này, đặc biệt nơi người trẻ.

Anh chị em thân mến, tôi trìu mến ban phép lành đến các giáo sĩ địa phương thuộc các Giáo hội, đến các nhà truyền giáo, và những người đang phân định ơn gọi của mình. Với anh chị em di dân, tôi nói rằng: anh chị em luôn được chào đón. Biển cả và sa mạc mà anh chị em đã vượt qua, trong Kinh Thánh, là những nơi của ơn cứu độ. Ước gì anh chị em gặp được dung nhan Thiên Chúa nơi các nhà truyền giáo đón tiếp anh chị em.

Tôi phó thác tất cả mọi người cho sự chuyển cầu của Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên của Con Mẹ, người đã vội vã lên đường đến miền núi Giuđê, mang Chúa Giêsu trong lòng và đặt mình phục vụ bà Êlisabét. Xin Mẹ nâng đỡ chúng ta, để mỗi người chúng ta có thể trở thành một cộng tác viên trong Vương quốc của Đức Kitô, một Vương quốc của tình yêu, công lý, và hòa bình.



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 6/10/2025]


Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

ANDREAS SOLARO | ANDREAS SOLARO


Kathleen N. Hattrup

05/10/25


Đức Thánh Cha Lêô XIV đã đề cập đến một số biến cố quan trọng trên thế giới – Gaza, Philippines, Manchester – và một sự trùng hợp về Đức Mẹ liên kết ngài với ngày lễ hôm nay.

Cuối Thánh lễ Năm Thánh trong cơn mưa tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Lêô đã lưu ý một số sự kiện thế giới trước khi đọc Kinh Truyền Tin buổi trưa. Ngài nói đến trận động đất ở Philippines, tình hình tại Gaza và kế hoạch hòa bình, cùng vụ tấn công hội đường Do Thái ở Manchester.

Trước khi đi vào các chủ đề đó, Ngài đã đưa ra một đề cập khác về người di cư, nhấn mạnh trên hết: “Phẩm giá con người phải luôn được đặt lên hàng đầu.”

Cuối cùng, ngài cũng lưu ý rằng hôm nay là ngày đặc biệt dâng Lời Khẩn cầu lên Đức Mẹ Pompeii. Sự kiện diễn ra hai lần mỗi năm – vào ngày lễ kính Đức Mẹ mùng 8 tháng Năm, và vào Chúa nhật đầu tiên của tháng Mười, gần ngày lễ của Chân phước Bartolo Longo, người cổ võ vĩ đại của Đền thờ. Thật vậy, năm nay, ngày lễ rơi đúng vào hôm nay, rất trùng khớp với buổi đọc kinh Chúa nhật.

Đền thánh Pompeii có một mối liên hệ đặc biệt với Đức Thánh Cha Lêô, vì ngài được bầu chọn vào ngày mùng 8 tháng 5, và đã nhắc đến điều đó trong những lời đầu tiên trên cương vị là Giáo hoàng:

“Hôm nay là ngày dâng Lời Khẩn cầu lên Đức Mẹ Pompeii. Mẹ Maria Diễm phúc của chúng ta luôn muốn đồng hành cùng chúng ta, ở gần bên chúng ta, Mẹ luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta bằng lời chuyển cầu và tình yêu của Mẹ. Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho sứ mạng này, và cho toàn thể Giáo hội, và cho hòa bình trên thế giới. Chúng ta khẩn xin ơn đặc biệt này từ Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta.”

Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

ANDREAS SOLARO | ANDREAS SOLARO

Sau đây là Những lời của Đức Thánh Cha Lêô trước khi đọc Kinh Truyền Tin:

__________________________


Anh chị em thân mến,

Trước khi cùng đọc Kinh Truyền tin, tôi muốn gửi lời chào và cảm ơn tất cả anh chị em đến tham dự cử hành Năm Thánh cho các Nhà Truyền giáo và người Di cư. Anh chị em là những nhà truyền giáo tuyệt vời vì anh chị em đến ngay cả trong cơn mưa! Cảm ơn anh chị em. Toàn thể Giáo hội là truyền giáo và là một dân tộc vĩ đại đang trên hành trình tiến về Nước Thiên Chúa.

Hôm nay, các anh chị em truyền giáo và di dân nhắc nhở chúng ta về điều này. Tuy nhiên, không được phép ép buộc ai phải chạy trốn, cũng không được phép bóc lột hay ngược đãi ai chỉ vì hoàn cảnh của họ là người nước ngoài hay người túng thiếu! Phẩm giá con người phải luôn được đặt lên hàng đầu. Tôi gửi lời chào tất cả anh chị em hành hương đang hiện diện, đặc biệt là những anh chị em đến từ Giáo phận Pavia, do Đức Giám mục của họ hướng dẫn, cũng như các tín hữu, trong đó có một số bạn trẻ đến từ Bêlem, đang cung nghinh tượng Đức Mẹ Khải Huyền.

Tối thứ Ba, ngày 30 tháng Chín, một trận động đất mạnh đã xảy ra ở khu vực miền Trung Philippines, đặc biệt là ở tỉnh Cebu và các tỉnh lân cận. Tôi xin bày tỏ sự gần gũi với người dân Philippines thân yêu, và tôi cầu nguyện cách riêng cho những người bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi hậu quả của trận động đất. Khi đối mặt với mọi hiểm nguy, chúng ta hãy đoàn kết và hỗ trợ trong niềm tín thác vào Thiên Chúa và trong sự chuyển cầu của Đức Mẹ Diễm phúc của chúng ta.

Tôi bày tỏ mối quan ngại trước sự gia tăng lòng hận thù bài Do Thái trên thế giới, như chúng ta đã thấy trong vụ tấn công khủng bố ở Manchester vài ngày trước. Tôi lại tiếp tục đau buồn trước sự đau khổ vô bờ bến của người dân Palestine tại Gaza.

Trong những giờ vừa qua , giữa tình hình bi thảm ở Trung Đông, đã có một số bước tiến đáng kể được thực hiện trong các cuộc đàm phán hòa bình, tôi hy vọng sẽ đạt được những kết quả mong muốn sớm nhất có thể. Tôi kêu gọi tất cả những người có trách nhiệm hãy cam kết thực hiện con đường này, để đạt được lệnh ngừng bắn và giải thoát các con tin. Đồng thời, tôi thúc giục mọi người hiệp nhất trong lời cầu nguyện, để những nỗ lực đang diễn ra có thể chấm dứt chiến tranh và đưa chúng ta đến một nền hòa bình công bằng và lâu dài.

Chúng ta cùng hiệp thông thiêng liêng với những anh chị em đang quy tụ tại Đền Thánh Pompeii để dâng lời Khẩn cầu lên Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi.

Trong tháng Mười này, khi cùng với Đức Maria chiêm ngắm các mầu nhiệm của Đức Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta, chúng ta hãy đào sâu lời cầu nguyện của mình cho hòa bình: một lời cầu nguyện trở thành tình liên đới cụ thể với những dân tộc bị chiến tranh tàn phá.

Cha cảm ơn rất nhiều thiếu nhi trên khắp thế giới đã dâng lời Kinh Mân Côi cho ý chỉ này. Cảm ơn các con rất nhiều!

Kinh Truyền Tin ...


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 6/10/2025]


Sứ điệp của Đức Thánh Cha Lêô XIV cho Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 40 năm 2025, ngày 07 tháng 10 năm 2025

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Lêô XIV cho Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 40 năm 2025, ngày 07 tháng 10 năm 2025

Sứ điệp của Đức Thánh Cha Lêô XIV cho Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 40 năm 2025, ngày 07 tháng 10 năm 2025

*******

Sau đây là Sứ điệp Đức Thánh Cha Lêô XIV gửi đến các bạn trẻ trên toàn thế giới nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 40, sẽ được cử hành tại các Giáo hội địa phương vào ngày 23 tháng Mười Một năm 2025, với chủ đề:

“Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15:27).

_________________________________________


Sứ điệp của Đức Thánh Cha


Các bạn trẻ thân mến,

Khi bắt đầu sứ điệp đầu tiên của cha gửi đến các con, cha muốn nói lời cảm ơn các con! Cảm ơn vì niềm vui các con đã mang đến khi hành hương về Roma trong Năm Thánh của các con, và cảm ơn tất cả các bạn trẻ đã hiệp thông với chúng ta qua lời cầu nguyện từ mọi miền trên thế giới. Đó là một khoảnh khắc quý giá để canh tân lòng nhiệt thành đức tin và chia sẻ niềm hy vọng đang bừng cháy trong tâm hồn chúng ta! Cha hy vọng cuộc gặp gỡ Năm Thánh không chỉ là một sự kiện riêng lẻ, nhưng đánh dấu một bước tiến trong đời sống Kitô hữu của mỗi người các con, và là nguồn khích lệ mạnh mẽ để các con kiên trì làm chứng cho đức tin.

Động lực đó cũng là trung tâm của Ngày Giới trẻ Thế giới sắp tới, mà chúng ta sẽ cử hành vào ngày 23 tháng Mười Một, Lễ Chúa Kitô Vua, với chủ đề: “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15:27). Là những người hành hương của niềm hy vọng, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta cùng chuẩn bị để trở thành những chứng nhân can đảm của Đức Kitô. Chúng ta hãy bắt đầu một hành trình dẫn chúng ta đến Ngày Giới trẻ Thế giới quốc tế tại Seoul vào năm 2027. Trong tinh thần đó, cha muốn tập trung vào hai khía cạnh của việc làm chứng: tình bạn với Chúa Giêsu mà chúng ta được đón nhận từ Thiên Chúa như một hồng ân, và cam kết trở thành những người kiến tạo hòa bình trong xã hội.


Bạn hữu, và vì thế trở thành chứng nhân

Chứng tá Kitô hữu nảy sinh từ tình bạn với Chúa, Đấng đã chịu đóng đinh và sống lại để cứu chuộc mọi người. Việc làm chứng này không được lẫn lộn với sự tuyên truyền ý thức hệ, vì đó là một nguyên tắc đích thực cho sự biến đổi nội tâm và ý thức xã hội. Chúa Giêsu đã chọn gọi các môn đệ của Người là “bạn hữu”. Người đã tỏ cho họ biết về Nước Thiên Chúa, mời gọi họ ở lại với Người, trở thành cộng đoàn của Người, và sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Ga 15:15; 27). Vì thế, khi Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Hãy làm chứng,” là Chúa đang xác nhận rằng Người coi chúng ta là bạn hữu của Người. Chỉ một mình Người biết rõ chúng ta là ai và tại sao chúng ta ở đây; các bạn trẻ thân mến, Chúa biết rõ tâm hồn các con, sự phẫn nộ của các con trước tình trạng phân biệt đối xử và bất công, biết rõ khát vọng sự thật và cái đẹp, niềm vui và hòa bình của các con. Qua tình bạn của Người, Người lắng nghe các con, khích lệ các con và hướng dẫn các con, mời gọi từng người các con bước vào một đời sống mới.

Ánh mắt của Chúa Giêsu, Đấng chỉ muốn điều tốt lành cho chúng ta, luôn đi trước chúng ta (x. Mc 10:21). Chúa không muốn chúng ta trở thành đầy tớ, hay trở thành “những nhà hoạt động” của một đảng phái chính trị; Người mời gọi chúng ta ở lại với Người như những người bạn, để đời sống chúng ta được đổi mới. Và chứng tá nảy sinh một cách tự nhiên từ sự mới mẻ đầy vui tươi trong tình bạn ấy. Đó là một tình bạn duy nhất ban cho chúng ta sự hiệp thông với Thiên Chúa, là một tình bạn trung tín giúp chúng ta khám phá phẩm giá của mình và của người khác, là một tình bạn vĩnh cửu mà ngay cả cái chết cũng không thể hủy diệt, vì Chúa chịu đóng đinh và đã sống lại là nguồn mạch của tình bạn ấy.

Chúng ta hãy xét đến sứ điệp mà Thánh Tông đồ Gioan gửi đến chúng ta ở cuối Tin Mừng thứ tư: “Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (Ga 21:24). Toàn bộ trình thuật trước đó được tóm tắt như một “lời chứng,” đầy lòng biết ơn và ngạc nhiên, của một người môn đệ không bao giờ tiết lộ tên mình, nhưng tự xưng là “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương.” Danh hiệu này phản ánh một mối quan hệ: đó không phải là tên của một cá nhân, mà là lời chứng của một mối liên kết cá nhân với Đức Kitô. Đó là điều thật sự quan trọng đối với Thánh Gioan: là môn đệ của Chúa và cảm thấy được Người yêu thương. Khi đó, chúng ta hiểu rằng chứng tá Kitô hữu là hoa trái của mối tương quan giữa đức tin và tình yêu với Chúa Giêsu, Đấng mà chúng ta tìm thấy ơn cứu độ cho đời mình nơi Người. Các bạn trẻ thân mến, điều Thánh Tông đồ Gioan viết cũng là gửi đến các con, Các con được Đức Kitô mời gọi theo Người và ngồi bên cạnh Người, lắng nghe trái tim Người và chia sẻ mật thiết đời sống của Người! Từng người trong các con là một “người môn đệ được yêu” đối với Chúa, và từ tình yêu này nảy sinh niềm vui làm chứng.

Một chứng nhân can đảm khác của Tin Mừng là vị Tiền Hô của Chúa Giêsu, Thánh Gioan Tẩy Giả, người đến “để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1:7). Dù ông rất nổi tiếng giữa dân chúng, ông hiểu rõ rằng mình chỉ là một “tiếng kêu” chỉ về Đấng Cứu Thế khi ông kêu lên: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36). Tấm gương của ông nhắc chúng ta rằng những chứng nhân đích thực không tìm cách chiếm vị trí trung tâm, cũng không ràng buộc những môn đệ của mình vào bản thân. Các chứng nhân đích thực thì khiêm nhường và tự do nội tâm, nhất là tự do thoát khỏi chính mình, nghĩa là thoát khỏi sự kiêu căng muốn trở thành trung tâm của sự chú ý. Vì thế, họ tự do lắng nghe, thấu hiểu, và cũng dám nói lên sự thật với mọi người, ngay cả trước mặt những người có quyền lực. Từ Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta học được rằng chứng tá Kitô hữu không phải là sự tuyên bố về bản thân chúng ta hoặc tán dương những khả năng tinh thần, trí tuệ hay đạo đức của chúng ta. Lời chứng đích thực là nhận biết và chỉ về Chúa Giêsu khi Ngài xuất hiện, vì Ngài là Đấng duy nhất cứu chuộc chúng ta. Gioan đã nhận ra Ngài giữa những người tội lỗi, hòa mình trong nhân loại chung. Vì lẽ đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần nhấn mạnh rằng nếu chúng ta không vượt ra khỏi bản thân và vùng an toàn của mình, nếu chúng ta không đến với những người nghèo và những ai cảm thấy bị loại trừ khỏi Nước Thiên Chúa, thì chúng ta không thể gặp được Đức Kitô và không thể làm chứng cho Người. Chúng ta sẽ mất đi niềm vui ngọt ngào của việc được rao giảng Tin Mừng và việc loan báo Tin Mừng.

Các bạn thân mến, cha mời gọi từng người các con hãy tiếp tục nhận diện những người bạn hữu và chứng nhân của Chúa Giêsu trong Kinh Thánh. Khi các con đọc Tin Mừng, các con sẽ thấy rằng tất cả họ đều khám phá ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời qua mối tương quan sống động với Đức Kitô. Thật vậy, những câu hỏi sâu xa nhất của chúng ta không được lắng nghe hay được trả lời bằng việc lướt liên tục không ngừng trên điện thoại, thứ thu hút sự chú ý của chúng ta nhưng để lại cho chúng ta trí óc mệt mỏi và trái tim trống rỗng. Sự tìm kiếm ấy sẽ không đưa chúng ta đi xa nếu chúng ta khóa chặt nó trong bản thân hoặc trong những giới hạn hẹp hòi. Sự viên mãn của những khát vọng đích thực luôn đến qua việc vượt ra khỏi chính mình.


Chứng nhân, và vì thế là thừa sai

Bằng cách này, các bạn trẻ thân mến, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các con có thể trở thành những nhà truyền giáo của Đức Kitô trong thế giới. Nhiều bạn bè đồng trang lứa của các con đang phải đối mặt với bạo lực, bị ép buộc sử dụng vũ khí, bị chia cách khỏi những người thân yêu, và bị buộc phải di cư hoặc lánh nạn. Nhiều người thiếu thốn giáo dục và các nhu cầu thiết yếu khác. Tất cả họ đều chia sẻ với các con việc tìm kiếm ý nghĩa và sự bất an đi kèm, nỗi lo lắng trước áp lực xã hội và công việc ngày càng tăng, sự khó khăn trong việc đối phó với khủng hoảng gia đình, cảm giác đau đớn vì thiếu cơ hội, cũng như sự hối tiếc vì những sai lầm họ đã phạm. Các con có thể đứng bên cạnh các bạn trẻ khác, cùng bước đi với họ và cho thấy rằng Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu, đã đến gần từng con người. Như Đức Thánh Cha Phanxicô thường nói: “Đức Kitô cho thấy rằng Thiên Chúa là sự gần gũi, là lòng trắc ẩn và tình yêu dịu dàng” (Thông điệp Dilexit nos, 35).

Chắc chắn rằng, làm chứng không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong các Tin Mừng, chúng ta thường thấy sự căng thẳng giữa sự đón nhận và từ chối Chúa Giêsu: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5). Tương tự như vậy, người môn đệ-chứng nhân cũng trực tiếp trải nghiệm sự từ chối và đôi khi là sự phản đối dữ dội. Chúa không che giấu thực tại đau đớn này: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15:20). Tuy nhiên, việc đó trở thành cơ hội để thực hành điều răn lớn nhất: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44). Đó là điều mà các vị tử đạo đã làm từ những ngày đầu của Hội Thánh.

Các bạn trẻ thân mến, đây không phải là một câu chuyện chỉ thuộc về quá khứ. Ngày nay, ở nhiều nơi trên thế giới, các Kitô hữu và những người thiện chí cũng đang phải chịu bách hại, lừa dối và bạo lực. Có lẽ chính kinh nghiệm đau thương đó cũng đã ghi dấu trên các con, và các con có thể bị cám dỗ phản ứng theo bản năng bằng cách đặt mình ngang bằng với những người đã từ chối các con, áp dụng những thái độ hung hăng. Nhưng chúng ta hãy nhớ lại lời khuyên khôn ngoan của Thánh Phaolô: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12:21).

Vì vậy, đừng nản lòng: giống như các thánh, các con cũng được mời gọi kiên trì với niềm hy vọng, đặc biệt khi đối diện với những khó khăn và trở ngại.


Tình huynh đệ là mối dây liên kết của hòa bình

Từ tình bạn với Đức Kitô, vốn là một ơn huệ của Chúa Thánh Thần trong chúng ta, nảy sinh một cách sống mang đậm dấu ấn của tình huynh đệ. Những bạn trẻ đã gặp gỡ Đức Kitô mang theo “sự ấm áp” và “hương vị” của tình huynh đệ đến bất cứ nơi nào họ hiện diện, và bất cứ ai tiếp xúc với họ đều bị cuốn hút vào một chiều kích mới mẻ và sâu sắc, được tạo thành bởi sự gần gũi vô vị lợi, lòng trắc ẩn chân thành và sự dịu dàng đích thực. Chúa Thánh Thần cho phép chúng ta nhìn tha nhân bằng đôi mắt mới: nơi người khác có một người anh em, một người chị em!

Chứng tá của tình huynh đệ và sự bình an mà tình bạn với Đức Kitô đánh thức trong chúng ta giúp xua tan thái độ thờ ơ và uể oải tinh thần, giúp chúng ta vượt thắng sự khép kín và nghi kỵ. Nó cũng xây dựng những mối liên kết giữa chúng ta, thúc đẩy chúng ta cùng nhau làm việc, từ hoạt động thiện nguyện đến “bác ái chính trị,” để xây dựng những điều kiện sống mới cho tất cả mọi người. Đừng đi theo những người sử dụng ngôn ngữ đức tin để chia rẽ; thay vào đó, hãy lập kế hoạch để xóa bỏ những bất bình đẳng và hòa giải các cộng đồng bị chia rẽ và bị áp bức. Để đạt được điều đó, các bạn thân mến, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa trong lòng chúng ta và vượt thắng tính ích kỷ của bản thân, trở thành những người nghệ nhân tích cực xây dựng hòa bình. Hòa bình đó, vốn là món quà của Đức Kitô phục sinh (x. Ga 20,19), sẽ trở nên hữu hình trong thế giới qua chứng tá chung của những người mang Thần Khí Chúa trong lòng.

Các bạn trẻ thân mến, trước những đau khổ và niềm hy vọng của thế giới, chúng ta hãy hướng mắt về Chúa Giêsu. Khi Ngài đang hấp hối trên thập giá, Ngài đã trao Đức Trinh nữ Maria cho Thánh Gioan như người mẹ, và trao Gioan cho Mẹ như con của Mẹ. Món quà tình yêu tối hậu đó dành cho mọi người môn đệ, cho từng người chúng ta. Cha mời gọi các con hãy đón nhận mối liên kết thánh thiêng ấy với Mẹ Maria, một người mẹ đầy trìu mến và thấu hiểu, và hãy nuôi dưỡng mối dây ấy cách đặc biệt qua việc cầu nguyện bằng kinh Mân Côi.

Nhờ đó, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chúng ta sẽ cảm nghiệm rằng chúng ta không bao giờ đơn độc, vì với tư cách là con cái, chúng ta luôn được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ và khuyến khích. Hãy làm chứng cho điều này với niềm vui!


Từ Vatican, ngày 7 tháng Mười năm 2025, Lễ nhớ Đức Maria Mân Côi

LEO PP. XIV


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 8/10/2025]