Thứ Hai, 29 tháng 9, 2025

Đức Thánh Cha gửi đến các Giáo lý viên: Chỉ biết hoặc chia sẻ Chúa Giêsu là chưa đủ, mà chúng ta phải yêu mến Người - Bài giảng Năm Thánh của các Giáo lý viên

Đức Thánh Cha gửi đến các Giáo lý viên: Chỉ biết hoặc chia sẻ Chúa Giêsu là chưa đủ, mà chúng ta phải yêu mến Người

Bài giảng Năm Thánh của các Giáo lý viên

Đức Thánh Cha gửi đến các Giáo lý viên: Chỉ biết hoặc chia sẻ Chúa Giêsu là chưa đủ, mà chúng ta phải yêu mến Người - Bài giảng Năm Thánh của các Giáo lý viên

*******

Lúc 10 giờ sáng nay, Chúa Nhật XXVI Thường Niên, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự Thánh Lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô nhân dịp Năm Thánh của các Giáo lý viên.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha Lêô XIV nhắc nhớ về sự cần thiết phải loan báo rằng “cuộc đời của mọi người đều có thể được biến đổi”, theo Tin Mừng, ngay cả giữa những bi kịch của những người chết “vì lòng tham”. Chỉ biết hoặc chia sẻ về Chúa là không đủ: chúng ta phải yêu mến Ngài. Chỉ bằng cách này, chứng tá mới trở thành hạt giống hy vọng, có khả năng nảy mầm trong tâm hồn và sinh hoa trái.

Dưới đây là bài giảng Đức Thánh Cha sau khi công bố Tin Mừng:

____________________________________


BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

Quảng trường Thánh Phêrô
Chúa Nhật thứ XXVI Thường Niên, ngày 28 tháng 9 năm 2025


Anh chị em thân mến,

Lời của Chúa Giêsu truyền đạt cho chúng ta thấy cách Thiên Chúa nhìn thế giới như thế nào, tại mọi thời điểm và mọi nơi. Chúng ta đã nghe trong Tin Mừng (Lc 16:19-31) rằng ánh mắt của Ngài quan sát một người nghèo và một người giàu: nhìn thấy một người đang chết đói và người kia thì ăn uống thỏa thuê trước mặt ông ta, y phục sang trọng của người này và những vết lở loét của người kia bị chó liếm (x.Lc 16:19-21). Nhưng Chúa nhìn vào tâm hồn con người, và qua ánh mắt của Người, chúng ta cũng có thể nhận ra ai là người túng thiếu và ai là kẻ thờ ơ. Lazarô bị lãng quên bởi chính người đang ở ngay trước mặt, chỉ cách ngưỡng cửa nhà ông ta một chút, thế nhưng Thiên Chúa lại ở gần ông và nhớ tên ông. Trái lại, người sống trong sự dư dật lại không có tên, bởi vì ông đã đánh mất chính mình khi lãng quên người lân cận. Ông lạc lối trong những suy nghĩ của lòng mình: chất đầy của cải nhưng trống rỗng tình yêu. Của cải không làm ông trở nên người tốt.

Câu chuyện mà Đức Kitô kể cho chúng ta, thật không may, lại rất thời sự ngày nay. Đứng trước ngưỡng cửa của sự giàu sang ngày nay là cảnh khốn cùng của toàn thể các dân tộc, bị tàn phá bởi chiến tranh và bóc lột. Trải qua bao thế kỷ, dường như chẳng có gì thay đổi: biết bao nhiêu Lazarô đã chết vì lòng tham lam quên đi công lý, trước lợi nhuận chà đạp lên bác ái, và trước sự giàu có mù quáng trước nỗi đau của người nghèo! Tuy nhiên, Tin Mừng bảo đảm với chúng ta rằng những đau khổ của Lazarô sẽ chấm dứt. Những đau đớn của ông kết thúc cũng như những cuộc vui chè chén của người giàu kết thúc, và Thiên Chúa thực thi công lý cho cả hai: “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (v. 22). Giáo Hội không ngừng công bố lời này của Chúa, để lời ấy có thể hoán cải tâm hồn chúng ta.

Các bạn thân mến, thật là một sự trùng hợp kỳ diệu, đoạn Tin Mừng này cũng đã được công bố trong Năm Thánh Giáo lý viên của Năm Thánh Lòng Thương xót. Khi ngỏ lời với các khách hành hương đến Roma nhân dịp này, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh rằng Thiên Chúa cứu chuộc thế giới khỏi mọi sự dữ bằng cách hiến dâng mạng sống mình để cứu độ chúng ta. Công trình cứu độ của Thiên Chúa là khởi điểm cho sứ mạng của chúng ta, bởi vì công trình ấy mời gọi chúng ta hiến thân vì lợi ích của mọi người. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với các giáo lý viên: đây là trung tâm “mà mọi sự đều xoay quanh, trái tim đang đập và mang lại sự sống cho mọi sự này là lời loan báo Vượt Qua, lời loan báo đầu tiên: Chúa Giêsu đã sống lại, Chúa Giêsu yêu thương bạn, và Người đã hiến mạng sống mình vì bạn; Đấng đã phục sinh và đang sống, Người đang ở gần anh chị em và chờ đợi anh chị em mỗi ngày” (Bài giảng, 25 tháng 9 năm 2016). Những lời này giúp chúng ta suy ngẫm về cuộc đối thoại trong Tin Mừng giữa người giàu có và tổ phụ Abraham. Lời van xin của người giàu để cứu các anh em mình trở thành một lời mời gọi hành động cho chúng ta.

Khi trò chuyện với Abraham, người giàu kêu lên: “Nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối” (Lc 16:30). Ông Abraham đáp lại: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin” (c. 31). Vâng, đã có một Đấng từ cõi chết sống lại: là Đức Giêsu Kitô. Vì thế, những lời của Kinh Thánh không nhằm làm chúng ta thất vọng hay nản lòng, nhưng để đánh thức lương tâm chúng ta. Lắng nghe Môsê và các ngôn sứ có nghĩa là ghi nhớ các giới răn và lời hứa của Thiên Chúa, mà sự quan phòng của Người không bao giờ bỏ rơi ai. Tin Mừng loan báo cho chúng ta rằng cuộc đời của mỗi người đều có thể thay đổi vì Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Biến cố này là chân lý cứu độ chúng ta; vì vậy, nó phải được biết đến và công bố. Nhưng như thế vẫn chưa đủ; nó phải được yêu mến. Chính tình yêu dẫn chúng ta đến việc hiểu Tin Mừng, vì tình yêu biến đổi chúng ta bằng cách mở lòng chúng ta ra với Lời Chúa và với dung mạo người lân cận của chúng ta.

Về vấn đề này, với vai trò là những giáo lý viên, các bạn là những môn đệ của Chúa Giêsu trở thành chứng nhân của Người. Tên gọi thừa tác vụ của các bạn xuất phát từ động từ Hy Lạp katēchein, có nghĩa là “giảng dạy lớn tiếng, làm cho vang vọng.” Điều này có nghĩa rằng giáo lý viên là người của Lời — một Lời mà người ấy tuyên xưng bằng chính cuộc đời mình. Do đó, những giáo lý viên đầu tiên của chúng ta chính là cha mẹ của chúng ta: những người đầu tiên nói với chúng ta và dạy chúng ta nói. Giống như việc chúng ta học tiếng mẹ đẻ, việc loan báo đức tin không thể phó mặc cho người khác; nó diễn ra ở nơi chúng ta sống, trên hết là trong gia đình của chúng ta, quanh bàn ăn gia đình. Khi có một lời nói, một cử chỉ, một khuôn mặt dẫn đến Đức Kitô, gia đình sẽ cảm nghiệm được vẻ đẹp của Tin Mừng.

Tất cả chúng ta đều đã được dạy tin qua chứng tá của những người đã tin trước chúng ta. Từ thời thơ ấu, tuổi thiếu niên, tuổi trẻ, tuổi trưởng thành, và ngay cả ở tuổi già, các giáo lý viên đồng hành với chúng ta trong đức tin của chúng ta, chia sẻ trong hành trình suốt đời này, như những gì anh chị em đã làm trong những ngày hành hương Năm Thánh này. Động lực đó liên quan đến toàn thể Giáo Hội. Khi Dân Thiên Chúa đưa con người đến với đức tin, “sự hiểu biết về các thực tại và Lời được lưu truyền [phát triển]. Điều đó xảy ra nhờ việc chiêm niệm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhớ những điều ấy trong lòng (x.Lc 2:19, 51) nhờ sự thông hiểu sâu xa về các thực tại thiêng liêng mà họ cảm nghiệm, và nhờ việc rao giảng của những người đã nhận được ơn chân lý chắc chắn qua sự kế vị Tông đồ” (Dei Verbum, ngày 18 tháng 11 năm 1965, 8). Trong sự hiệp thông này, Sách Giáo lý là “cuốn cẩm nang hành trình” bảo vệ chúng ta khỏi chủ nghĩa cá nhân và bất hòa, bởi vì nó chứng thực đức tin của toàn thể Giáo Hội Công Giáo. Mỗi tín hữu cộng tác vào công việc mục vụ của Giáo Hội bằng cách lắng nghe các câu hỏi, chia sẻ những khó khăn, và phục vụ khát vọng công lý và chân lý ngự trị trong lương tâm con người.

Đây chính là cách các giáo lý viên dạy — theo nghĩa đen trong tiếng Ý là “để lại một dấu ấn.” Khi chúng ta giảng dạy đức tin, chúng ta không chỉ đơn thuần đưa ra những hướng dẫn, mà chúng ta đặt Lời sự sống vào tâm hồn, để Lời ấy có thể sinh hoa trái của một đời sống tốt lành. Khi thầy Phó tế Deogratias hỏi làm thế nào để trở thành một giáo lý viên tốt, Thánh Augustinô đã trả lời: “Hãy giải thích mọi điều theo cách mà người nghe, nhờ lắng nghe, có thể tin; nhờ tin, có thể hy vọng; và nhờ hy vọng, có thể yêu mến” (Instructing Beginners in Faith, 4, 8).

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy khắc ghi lời mời gọi này trong lòng! Chúng ta hãy nhớ rằng không ai có thể cho đi điều mà họ không có. Nếu người giàu trong Tin Mừng đã tỏ lòng bác ái với Lazarô, thì ông ta đã làm điều tốt không chỉ cho người nghèo mà còn cho chính mình. Nếu con người không tên ấy có đức tin, Thiên Chúa đã cứu ông ta khỏi mọi khổ hình. Nhưng sự gắn bó của ông ta với của cải trần thế đã cướp đi nơi ông ta niềm hy vọng vào điều thiện hảo đích thực và vĩnh cửu. Khi chúng ta cũng bị cám dỗ bởi lòng tham và sự thờ ơ, rất nhiều “Lazarô” của ngày hôm nay nhắc nhở chúng ta về Lời của Chúa Giêsu. Lời trở thành một bài giáo lý sống động cho chúng ta, nhất là trong Năm Thánh này, vốn là thời gian hoán cải và tha thứ, là thời khắc dấn thân cho công lý, và là cuộc tìm kiếm hòa bình chân thành.


[Nguồn: exaudi.org]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 29/9/2025]


P3 - Đức Thánh Cha Lêô trao đổi với ký giả Elise Ann Allen của Crux về Giáo triều và Tài chính Vatican

Đức Thánh Cha Lêô trao đổi với ký giả Elise Ann Allen của Crux về Giáo triều và Tài chính Vatican

Crux Staff

18 tháng Chín, 2025 | Author

P3 - Đức Thánh Cha Lêô trao đổi với ký giả Elise Ann Allen của Crux về Giáo triều và Tài chính Vatican

Đức Thánh Cha Lêô XIV ban phép lành cho các thành viên của Trường Truyền giáo Thánh Anrê vào ngày 29 tháng 8 năm 2025. (Nguồn: Vatican Media.)

*******

[Chú thích của BBT: Đây là trích đoạn thứ ba của bài phỏng vấn gồm hai phần giữa Đức Thánh Cha Lêô XIV và nữ ký giả kỳ cựu của Crux, chị Elise Ann Allen, được đưa vào quyển tiểu sử mới về Đức Thánh Cha, León XIV: ciudadano del mundo, misionero del siglo XXI, hay “Đức Lêô XIV: Công dân của thế giới, Nhà truyền giáo của thế kỷ XXI.” Cuốn sách được nhà xuất bản Penguin Peru phát hành bằng tiếng Tây Ban Nha và sẽ có mặt trên các kệ sách và trực tuyến vào ngày 18 tháng Chín. Các ấn bản tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha sẽ ra mắt vào đầu năm 2026.]

____________________________________

Allen: Con chuyển hướng một chút, điều hành và cải tổ Giáo triều Roma cũng là điều mà Đức Thánh Cha chịu trách nhiệm. Đức Thánh Cha Phanxicô đã thực hiện nhiều cải cách, Ngài đã hoàn thành Tông hiến Predicate Evangelium, nhưng vẫn còn một số việc chưa hoàn tất. Đức Thánh Cha sẽ tiếp cận công cuộc cải tổ thế nào? Người sẽ tiếp tục việc gì, và người có thể làm khác đi ở điểm nào?

ĐTC Lêô: Tôi nghĩ rằng nguồn cảm hứng cơ bản của Tông hiến Predicate Evangelium là rất giá trị và quan trọng, ở chỗ nó đã trình bày cách hiểu mới mẻ về Tòa Thánh, về Giáo triều Roma, là phục vụ cho sứ vụ của Giáo hoàng và cho các giám mục địa phương. Nó phải sẵn sàng theo cả hai cách đó. Rất nhiều giám mục nói với tôi, ngay từ thời tôi còn ở Bộ Giám mục, rằng khi họ đến Roma, họ thấy lo sợ. Tôi được gọi về Roma để làm gì? Có vấn đề gì vậy? Thay vì hiểu rằng Tòa Thánh ở đây để trợ giúp họ, để phục vụ họ.

Vì vậy, khởi đi từ điều đó như một sự hiểu biết cơ bản, và rằng chúng tôi ở đây như một phần của sứ vụ rao giảng Tin Mừng, như chính tựa đề [Predicate Evangelium] đã nói. Tôi nghĩ một lượng công việc đáng kể đã được tập trung vào việc cố gắng tìm cách tổ chức cơ cấu của Tòa Thánh, để đặt Tòa Thánh vào việc phục vụ người khác. Bây giờ, cũng như trong bất kỳ tổ chức nào của con người, có những điểm tích cực và có những điểm cần được cải thiện. Tôi nghĩ sẽ có một số câu hỏi về Predicate Evangelium, một số quyết định đã được đưa ra có lẽ cần một chút điều chỉnh vào một lúc nào đó, nhưng điều cũng rất quan trọng trong tiến trình này là tiếp tục xem xét cách chúng tôi ở Tòa Thánh đang phục vụ người khác thế nào, và chúng tôi có thể làm gì để cải thiện điều đó.

Một trong những vấn đề cụ thể mà tôi hy vọng sẽ bắt đầu làm việc trong tương lai rất gần là tiếp tục phá vỡ hoặc đổi cách làm việc cô lập mà mỗi Bộ đang thực hiện. Có nhiều vấn đề trong Tòa Thánh, trong Giáo hội, không chỉ là phạm vi của một Bộ duy nhất. Sự thiếu đối thoại, thiếu các công cụ giao tiếp, giữa các Bộ khác nhau đôi khi đã trở thành một hạn chế lớn và gây hại cho việc điều hành Giáo hội. Vì vậy, tôi nghĩ có một vấn đề ở đó, có người đã dùng cách diễn đạt gọi là ‘tâm lý silo’ (ND: silo mentality: tâm lý làm việc tách biệt, không chia sẻ thông tin hoặc hợp tác với các phòng ban khác). À, “Bộ của tôi là Bộ Giám mục, và chúng tôi thấy điều này, và tôi không muốn nói chuyện với bất kỳ ai khác. Bộ Đời sống Thánh hiến là Đời sống Thánh hiến, và thế thôi. Có rất, rất nhiều vấn đề trong Giáo hội mà trên thực tế chạm đến các lãnh vực trách nhiệm của hai hoặc ba hoặc bốn hoặc nhiều Bộ. Chúng tôi phải tìm cách tập hợp mọi người lại để nói về điều đó.

Tông hiến Predicate Evangelium đặt nền tảng cho điều này, đặt nền móng, và nó đã bắt đầu xảy ra. Tôi nhớ, trong hai năm của tôi, chúng tôi đã mời các Tổng trưởng từ một vài Bộ khác nhau, “Xin mời đến đây, chúng tôi muốn bàn về điều này hoặc điều kia”, và chúng tôi đã thực hiện như vậy rồi. Nhưng tôi nhớ có người ở đây nhiều năm nói với tôi, “Trong 20 năm, tôi chưa bao giờ có một cuộc họp với một Bộ khác”, hoặc điều gì đó tương tự. Tôi nghĩ bụng, “Anh đang đùa đấy à”. Vì thế, một số việc như vậy đã bắt đầu rồi, nhưng tôi muốn tìm cách thức để thể chế hóa bộ máy để mọi việc diễn ra dễ dàng hơn. Điều đó tất nhiên có nghĩa là tập hợp mọi người lại, chúng ta hãy nói chuyện với nhau, các Tổng trưởng và các Thư ký.

Liên quan đến tình hình tài chính của Tòa Thánh, trước đây Đức Thánh Cha đã nói rằng nó không tệ như đôi khi người ta nói. Đức Thánh Cha có thể giải thích tại sao lại như vậy không? Tình hình tài chính của Tòa Thánh ra sao, và người dự định quản lý nó như thế nào?

Tôi chưa biết tôi sẽ xử lý thế nào, nhưng tôi đang có được một số ý tưởng rõ ràng. Có một số đơn vị tài chính khác nhau hợp thành toàn bộ thực thể của Tòa Thánh, của Vatican. Một số đơn vị tài chính đó đang hoạt động khá tốt. APSA [Cơ quan Quản lý Tài sản Tòa Thánh] vừa công bố báo cáo tài chính năm 2024 của họ và trong năm, họ báo cáo một kết quả dương hơn 60 triệu euro. Tại sao chúng ta lại than khóc về một cuộc khủng hoảng? APSA là một trong những nguồn hỗ trợ tài chính chính yếu cho công việc của Tòa Thánh.

Có rất nhiều nhân viên trong tổ chức này, vì vậy phải chi trả tiền lương. Có một quỹ hưu thực sự phải được xem xét. Tôi không biết có quốc gia nào trên thế giới mà không than khóc rằng “quỹ hưu của chúng ta sẽ bị phá sản trong 30 năm hoặc 20 năm”. Đó là một vấn đề chung phải được nghiên cứu và xử lý. Nhưng bạn không thể nói rằng hôm nay chúng ta đang trong cuộc khủng hoảng, và rồi chúng ta sẽ làm sao đây? Bạn hãy lập kế hoạch và nói, chúng ta phải đối phó với việc đó như thế nào?

Trong thời kỳ đại dịch đã có một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng vì một trong những nguồn thu nhập quan trọng nhất của Vatican là từ các viện Bảo tàng Vatican. Những năm gần đây, tạ ơn Chúa, mọi người đang đi du lịch trở lại. Năm nay có nhiều du khách đến Roma hơn. Có những yếu tố đang diễn ra đã tạo nên một sự đảo ngược đáng kể trong một số vấn đề đã là nguyên nhân gây lo ngại trong quá khứ. Mọi thứ mà tôi có trong túi tiền này không phải lúc nào cũng chuyển sang túi kia, và chúng ta phải học cách tích cực làm việc cùng nhau cả trong Tòa Thánh, trong Vatican.

Chúng ta phải tránh những lựa chọn sai lầm đã được đưa ra trong các năm gần đây. Đã có thông tin công khai rộng rãi về việc mua tòa nhà đó ở London, Đại lộ Sloane, và có bao nhiêu triệu đã bị mất vì chuyện đó. Tôi nghĩ ngay trong thời Đức Phanxicô, các bước đáng kể đã được thực hiện để đặt ra những biện pháp kiểm soát và cân đối mới, những sự kiểm soát, về hoạt động tài chính, nó sẽ hoạt động ra sao. Đã có một số điều rất tích cực theo chiều hướng đó, vì vậy kết quả đang được thể hiện. Tôi không nói rằng chúng ta có thể yên tâm và nói rằng khủng hoảng đã kết thúc. Tôi không nghĩ là khủng hoảng đã chấm dứt, tôi nghĩ chúng tôi phải tiếp tục làm việc về việc này, nhưng tôi không bị mất ngủ vì nó, và tôi nghĩ điều quan trọng là chúng ta phải truyền tải một thông điệp khác. Tôi đã có một cuộc họp với Hội đồng Kinh tế, một cơ cấu khác mà Đức Phanxicô đã tạo ra để có sự giám sát rộng hơn đối với các thực thể khác nhau này. Họ đã đồng ý với tôi, họ nói một phần vấn đề của chúng ta là truyền thông, và Vatican thường xuyên gửi đi những thông điệp sai, nó chắc chắn không truyền cảm hứng cho mọi người nói, “Ồ, tôi muốn giúp bạn”, [mà thay vào đó là], “Tôi sẽ giữ tiền của tôi, bởi vì nếu bạn không quản lý đúng cách, tại sao tôi phải đưa thêm tiền cho bạn?”

Vì vậy, tôi không chỉ thay đổi thông điệp để mà thay đổi. Sau khi đã nghiên cứu một số câu hỏi này trong vài năm qua, tôi đã tham gia vào một vài hội đồng khác nhau kể từ khi tôi ở đây, mọi việc rồi sẽ ổn, nhưng chúng ta phải tiếp tục tiến trình cải cách mà Đức Phanxicô đã bắt đầu.

Liên quan đến khủng hoảng lạm dụng tính dục trong hàng giáo sĩ, chúng ta đã nói về điều này rồi, nhưng ở cấp độ tổng quát hơn, vẫn còn nhận thức rằng trong khi Giáo hội đã có các luật mới nhắm vào lạm dụng và che đậy, chúng vẫn chưa được thi hành, và các nạn nhân phần lớn vẫn bị bỏ lại trong bóng tối về quy trình, họ bị coi là không có bất kỳ quyền nào. Đức Thánh Cha đã đề cập trước đây rằng người đã khởi xướng một nghiên cứu để xác định tại sao các vụ án giáo luật lại mất nhiều thời gian như vậy, nhưng ở cấp độ tổng quát, Giáo hội có thể làm tốt hơn như thế nào trong vấn đề này? Chiến lược của Đức Thánh Cha để đối phó với khủng hoảng lạm dụng trong hàng giáo sĩ là gì?

Rõ ràng có một số vấn đề nghiêm trọng, và đây là một trong những câu hỏi về việc bảo vệ trẻ vị thành niên và cách ứng phó trước khủng hoảng. Tôi nghĩ đây là một khủng hoảng thực sự, còn vấn đề kia [tài chính] thì không hẳn, mà Giáo hội phải tiếp tục giải quyết vì nó chưa được xử lý. Điều này sẽ tiếp tục mất thời gian vì các nạn nhân phải được đối xử với lòng tôn trọng lớn và với sự thấu hiểu rằng những người đã phải chịu đựng các vết thương rất sâu do lạm dụng, đôi khi mang những vết thương đó suốt cả cuộc đời. Thật ngây thơ nếu bản thân tôi hoặc bất kỳ ai nghĩ rằng khi chúng ta đã đưa ra cho họ một khoản bồi thường tài chính nào đó, hoặc chúng ta đã xử lý vụ án và linh mục đã bị huyền chức, cứ như thể những vết thương đó sẽ biến mất vì điều đó.

Vì vậy, trước hết và quan trọng nhất, phải có một sự nhạy cảm và lòng trắc ẩn chân thành và sâu sắc đối với nỗi đau đớn, sự đau khổ mà con người đã phải chịu đựng do bàn tay của các thừa tác viên của Giáo hội, cho dù đó là linh mục, hay giám mục, giáo dân, tu sĩ, nam hay nữ, giáo lý viên, v.v. Đó là một vấn đề vẫn còn với chúng ta, và tôi nghĩ nó cần phải được đối xử với lòng tôn trọng sâu sắc.

Đồng thời, một trong những yếu tố phức tạp trong vấn đề này, và là vấn đề mọi người đang bắt đầu lên tiếng ngày càng nhiều: người bị cáo buộc cũng có quyền, và nhiều người trong số họ tin rằng những quyền đó đã không được tôn trọng. Thống kê cho thấy hơn 90% những người đứng ra tố cáo, họ thực sự là nạn nhân. Họ đang nói sự thật. Họ không bịa đặt điều này. Nhưng cũng có những trường hợp đã được chứng minh rằng có những cáo buộc sai sự thật. Đã có những linh mục mà cuộc sống của họ đã bị hủy hoại vì điều đó.

Luật pháp tồn tại, và chúng ta có thể nói về luật dân sự hoặc luật giáo hội, nhưng luật pháp tồn tại để bảo vệ quyền của tất cả mọi người. Để có một hệ thống công lý đáng tin cậy, tôn trọng quyền của tất cả mọi người, điều đó phải có thời gian. Vì vậy, một trong những điều mà nhiều nạn nhân thường xuyên nhận xét là, tại sao những quy trình này lại mất nhiều thời gian như vậy? À, chúng ta sống ở Ý, tôi đã sống ở Peru, ngay cả ở Hoa Kỳ, nhiều quy trình đi vào tòa án mất nhiều nhiều năm, và đó là một thực tế. Thực tế là nạn nhân đứng ra và tố cáo và sự tố cáo được cho là chính xác, điều đó không làm mất đi nguyên tắc suy đoán vô tội. Vì vậy, các linh mục cũng phải được bảo vệ, hoặc người bị đơn phải được bảo vệ, quyền của họ phải được tôn trọng. Nhưng ngay cả khi nói điều đó, đôi khi cũng là nguyên nhân gây thêm đau khổ cho các nạn nhân. Vì vậy, chúng ta đang ở trong một tình thế khó khăn. Giáo hội chắc chắn đã cố gắng ban hành các luật mới nhằm tăng tốc quy trình, vừa đặc biệt tôn trọng các vấn đề mà tôi đã nói trước, các nạn nhân và nỗi đau của họ và quyền của họ được nhìn nhận nỗi đau đó bằng một sự hồi đáp nào đó từ Giáo hội, nhưng đồng thời tôn trọng người bị cáo buộc. Việc bảo vệ quyền của bên bị buộc tội cũng là một vấn đề.

Có một điều cũng ngày càng trở nên phổ biến, về việc các nạn nhân tìm kiếm sự chữa lành và muốn đứng ra và nói về nỗi đau của họ, và tôi nghĩ điều đó là lành mạnh đối với họ. Nhưng Giáo hội không phải lúc nào cũng tìm được cách tốt nhất để xử lý, để đồng hành điều đó với họ. Vì vậy, có những thách đố trong vấn đề này. Tôi nghĩ rằng nhiều người trong chúng ta có lẽ vẫn còn là người mới tập sự đang học về cách để đồng hành tốt nhất với những người này trong nỗi đau của họ. Tôi nghĩ đây là một trong những lãnh vực mà chúng tôi tiếp tục cần sự giúp đỡ của các chuyên gia để hỗ trợ chúng tôi, và để đồng hành cùng các nạn nhân.

Tôi nghĩ rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã có những cái nhìn rất sâu sắc về vấn đề này. Ngài đã nhận ra tầm quan trọng của vấn đề, nhưng đồng thời nhận ra rằng vấn đề lạm dụng tính dục không thể trở thành trọng tâm duy nhất của Giáo hội. Giáo hội có một sứ mạng. Có những người trên hành trình đã bị tổn thương sâu sắc và chúng ta sẽ cố gắng chăm sóc họ cách tốt nhất có thể, và đồng hành với họ, và họ cũng là một phần của Giáo hội, nếu họ vẫn muốn như vậy. Tôi biết có những người đã rời bỏ Giáo hội vì nỗi đau mà họ phải chịu đựng, và lựa chọn của họ phải được tôn trọng.

Đồng thời, Giáo hội cũng có một sứ mạng là loan báo Tin Mừng, và tạ ơn Chúa, đại đa số những người dấn thân trong Giáo hội, các linh mục, và giám mục, các tu sĩ, chưa bao giờ lạm dụng ai. Vì vậy, chúng ta không thể khiến toàn bộ Giáo hội chỉ tập trung duy nhất vào vấn đề này, bởi vì đó sẽ không phải là một cách đáp ứng chân thực cho những gì thế giới đang tìm kiếm nơi sứ mạng của Giáo hội.

Quả thật đó là một việc rất khó để chăm sóc, bởi chỉ người mà cuộc sống của họ đã bị tổn thương sâu sắc hay thậm chí bị hủy hoại bởi lạm dụng tính dục, mới có thể cảm nhận nỗi đau đó. Đó chính là điểm chúng ta cần tôn trọng và đồng hành với họ. Có nhiều người khác trong Giáo hội cũng có quyền được đồng hành trong hoàn cảnh họ đang sống và trải nghiệm, và Giáo hội cũng phải hiện diện bên họ. Đó là một trong nhiều thách đố mà tôi đang cố gắng tìm cách giải quyết.


[Nguồn: cruxnow.com]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/9/2025]


P2 - Đức Thánh Cha Lêô XIV trả lời phỏng vấn của ký giả Elise Ann Allen từ Crux về tương quan với các Giáo hội khác

Đức Thánh Cha Lêô XIV trả lời phỏng vấn của ký giả Elise Ann Allen từ Crux về mối tương quan với các Giáo hội khác

Crux Staff

18 tháng Chín, 2025 | Author

P2 - Đức Thánh Cha Lêô XIV trả lời phỏng vấn của ký giả Elise Ann Allen từ Crux về tương quan với các Giáo hội khác
Đức Thánh Cha Lêô XIV trong buổi tiếp kiến chung tại Vatican ngày 27 tháng 8 năm 2025. (Credit: Gregorio Borgia/AP.)

*******

[Chú thích của BBT: Đây là trích đoạn thứ hai của bài phỏng vấn gồm hai phần giữa Đức Thánh Cha Lêô XIV và nữ ký giả kỳ cựu của Crux, chị Elise Ann Allen, được đưa vào quyển tiểu sử mới về Đức Thánh Cha, León XIV: ciudadano del mundo, misionero del siglo XXI, hay “Đức Lêô XIV: Công dân của thế giới, Nhà truyền giáo của thế kỷ XXI.” Cuốn sách được nhà xuất bản Penguin Peru phát hành bằng tiếng Tây Ban Nha và sẽ có mặt trên các kệ sách và trực tuyến vào ngày 18 tháng Chín. Các ấn bản tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha sẽ ra mắt vào đầu năm 2026.]

______________________________________


Allen: Một thách thức tiềm ẩn khác, một vấn đề mà tất cả các vị tiền nhiệm gần đây của Đức Thánh Cha đều ưu tiên, và con nghĩ Đức Thánh Cha Phanxicô chắc chắn đã tạo một động lực mới, đó là chủ đề về đại kết. Cách tiếp cận của Đức Thánh Cha sẽ như thế nào? Liệu đây có phải là một ưu tiên tương tự đối với người trên cương vị Giáo hoàng không?

ĐTC Lêô: Chắc chắn rồi. Tôi nghĩ rằng sự nhận thức từ thời Công đồng Vaticanô II về nỗ lực hướng tới một sự hiệp nhất đích thực của tất cả các Kitô hữu phải là một trong những mục tiêu của Giáo hội ngày nay. Một trong những vết thương sâu đậm nhất trong đời sống Giáo hội hiện nay chính là việc chúng ta, những người Kitô hữu, bị chia rẽ. Vì thế, tôi nói về việc xây dựng những nhịp cầu nối; đôi khi việc xây dựng cầu nối với người không phải là Kitô hữu lại dễ dàng hơn so với những người láng giềng Kitô hữu của chúng ta. Có những điều chia cắt chúng ta, có những điều ngăn cản chúng ta đạt được sự hiệp thông đích thực trong những điều chúng ta tin.

Cụ thể, một trong những điều tôi đang cố gắng thúc đẩy trong năm nay, như chị đã biết, là kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nicea. Đức Thánh Cha Phanxicô đã dự định đến Nicea, sau đó Ngài lâm bệnh, rồi ngày này đã bị hoãn hai lần, và rồi chúng tôi phải tìm một ngày mới. Tôi rất quan tâm đến việc này và hy vọng sẽ đến Nicea vào cuối tháng Mười Một. Ban đầu, một số người đã hình dung về cuộc gặp gỡ giữa Đức Thượng phụ Constantinople Bartholomew và tôi. Tôi đã đề nghị biến đây thành một cơ hội đại kết để mời các nhà lãnh đạo Kitô giáo từ nhiều tôn giáo Kitô hoặc cộng đồng Kitô giáo khác nhau cùng tham dự cuộc gặp gỡ này tại Nicea, bởi vì Nicea là một Tín điều, đó là một trong những khoảnh khắc mà trước khi xảy ra những cuộc chia rẽ, tất cả chúng ta vẫn có thể tìm thấy một lời tuyên xưng đức tin chung.

Vì vậy, xét về mặt biểu tượng, đó là câu trả lời cho câu hỏi của chị. Vâng, đó là một ưu tiên. Tôi đã gặp một vài đức Thượng phụ, trong đó có cả đại diện của Đức Thượng phụ Kirill từ Moscow. Giáo hội Chính thống Nga, sau Giáo hội Công giáo, là cộng đồng Kitô giáo lớn nhất trên thế giới, nhưng do chiến tranh, do một số tuyên bố, sự chia cắt đó hiện nay trở nên lớn hơn thay vì thu hẹp. Tôi tin rằng một khía cạnh khác trong sứ vụ của tôi đối với Giáo hội và các tín hữu là xây dựng những cầu nối ở đó nữa. Rõ ràng, có một số khó khăn, điều này rất rõ ràng, giữa Thượng phụ Mátxcơva và Thượng phụ Constantinople, và những lựa chọn đã được thực hiện trong thế giới Chính thống giáo. Nếu Giám mục Roma có thể giúp xây dựng cầu nối giữa những người khác nhau, đưa mọi người đến gần nhau hơn, tôi nghĩ chắc chắn có những thách đố trong đó, nhưng đó là một sứ vụ lớn cần được thực hiện, bởi rốt cuộc, tất cả chúng ta đều tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ của chúng ta.

Vì vậy, có rất nhiều điều đã xảy ra trong dòng lịch sử thế giới tiếp tục gây chia rẽ: ai tin vào điều này, ai tin vào điều kia? Vai trò của Giám mục Roma trong thế giới các tín hữu là gì? Nhưng chúng ta phải kiên trì trong công việc này. Một vấn đề rất cụ thể là tìm ra một ngày chung cho Lễ Phục Sinh. Điều đó vẫn còn trong chương trình nghị sự. Chúng tôi đã thực hiện một số bước. Tôi không nói là chúng tôi đã đạt được tiến bộ, nhưng chúng tôi đã thực hiện một số bước để tìm ra những cách tiếp cận khác nhau nhằm giải quyết vấn đề đó. Điều đó cũng rất phức tạp, bắt đầu từ sự khác biệt giữa lịch Gregory và lịch Julian, và ai sẽ là người đi bước đầu tiên và chúng ta có thể thực hiện việc đó như thế nào. Chúng tôi đang xem xét nó, chúng tôi đang làm việc. Đó là một mục tiêu, đó là một vấn đề quan trọng.

Mặt khác, cũng có câu hỏi về đối thoại liên tôn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã coi đối thoại với Hồi giáo là một ưu tiên lớn. Có người cho rằng cộng đồng Do Thái cảm thấy bị lãng quên trong những năm gần đây, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc chiến gần đây nhất ở Gaza. Với cá nhân Đức Thánh Cha, người thấy đâu là ưu tiên lớn nhất hoặc cơ hội cho Tòa Thánh hiện nay về mặt đối thoại và quan hệ liên tôn?

Có lẽ tôi hơi tự tin, nhưng tôi dám nói rằng ngay trong vài tháng đầu tiên, mối quan hệ với cộng đồng Do Thái nói chung đã được cải thiện một chút. Tôi nghĩ điều quan trọng là phải phân biệt, như chính họ cũng phân biệt, về những gì chính phủ Israel đang làm và cộng đồng Do Thái là ai. Nhưng may mắn thay, ngay cả trong một vài cuộc gặp gỡ tôi đã có, tôi nghĩ có một chút xích lại gần nhau hơn. Tôi nghĩ rằng cội rễ của Kitô giáo chúng ta được tìm thấy trong Do Thái giáo, và chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ trước điều đó. Tôi nghĩ có nhiều điều để nói và nhiều việc để làm.

Với Hồi giáo, tôi đã có một vài cuộc gặp gỡ. Tất nhiên, Hồi giáo cũng không phải là một thực thể đơn nhất, vì vậy chị có thể gặp một nhóm, và chị lại có những nhóm khác, và điều đó không dễ dàng. Tôi nghĩ Đức Phanxicô, đặc biệt với Hồi giáo, đã đạt được những bước tiến lớn trong việc vượt qua một số rào cản đã tồn tại vì những sự kiện lịch sử cụ thể trong quá khứ gần đây và xa xưa. Nhưng, vì lợi ích của hòa bình thế giới, không có con đường nào khác. Tôi nghĩ rằng việc tìm kiếm các con đường để thúc đẩy những cơ hội đối thoại, tôn trọng lẫn nhau và hiểu biết là rất, rất quan trọng. Chắc chắn, đó là một vấn đề khác trong chương trình nghị sự và tôi hy vọng sẽ tiếp tục, và không chỉ với Hồi giáo.

Tôi đã có một cuộc gặp gỡ rất tốt đẹp với một nhóm Phật tử đến Roma. Một lần nữa, để thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau và để hiểu rằng những người khác nhau sẽ có những niềm tin khác nhau. Tôi tin tưởng mạnh mẽ vào Đức Giêsu Kitô và xác tín rằng đó là ưu tiên của tôi, bởi vì tôi là Giám mục Roma và là Người Kế Vị Thánh Phêrô, và Giáo hoàng cần giúp mọi người hiểu, đặc biệt là các Kitô hữu, người Công giáo, rằng đây là căn tính của chúng ta. Và tôi nghĩ đó là một sứ mạng tuyệt đẹp.

Tuy nhiên, khi sứ mạng đó bị bóp méo, bị đẩy vào các hệ tư tưởng, bị hiểu lầm, thì mọi sự trở nên phức tạp hơn. Nhưng tôi không ngại nói rằng tôi tin vào Đức Giêsu Kitô và rằng Người đã chết trên thập giá và sống lại từ cõi chết, và rằng chúng ta được mời gọi cùng nhau chia sẻ sứ điệp đó. Nói điều đó không có nghĩa là tôi sẽ không tôn trọng hoặc xúc phạm hoặc phát động một cuộc thập tự chinh chống lại những người thuộc các tôn giáo khác, bởi vì đó không phải là câu trả lời, chúng ta đã học được điều đó qua lịch sử.

Trở lại với chủ đề trí tuệ nhân tạo và cuộc khủng hoảng mà Đức Thánh Cha đã nói là đang đến gần, Giáo hội có thể đóng vai trò gì trong lãnh vực này? Tại sao điều đó lại quan trọng đến vậy, và Giáo hội có thể đóng vai trò gì?

Về chủ đề trí tuệ nhân tạo, mỗi lần tôi cố gắng nói điều gì đó, thì ngay hôm sau tôi đọc tin tức, và trí tuệ nhân tạo đã tiến xa hơn nữa. Sự phát triển đang diễn ra với tốc độ đáng kinh ngạc này cũng thật đáng lo. Nhưng để trả lời câu hỏi của chị, nếu chúng ta đánh mất cái nhìn về giá trị của nhân loại, và chúng ta nghĩ rằng thế giới kỹ thuật số là cứu cánh tối hậu, và rồi những người cực kỳ giàu có đang đầu tư vào trí tuệ nhân tạo, hoàn toàn phớt lờ giá trị của con người và nhân tính, thì tôi nghĩ Giáo hội phải lên tiếng ở đây. Đời sống con người của chúng ta có ý nghĩa không phải nhờ trí tuệ nhân tạo, mà nhờ chính con người và sự gặp gỡ, việc ở bên nhau, tạo dựng các mối quan hệ, và khám phá trong những mối tương quan con người ấy sự hiện diện của Thiên Chúa.

Sẽ rất khó để khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong AI. Trong các mối tương quan con người, ít nhất chúng ta có thể tìm thấy những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi tôi nói về sự tôn trọng lẫn nhau, và tầm quan trọng của gia đình, và các giá trị bình đẳng và cùng chung sống và làm việc trong hòa bình, đó là những giá trị nảy sinh từ sự hiểu biết thật sự về món quà tuyệt vời mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta với tư cách là con người. Nếu Giáo hội không lên tiếng, hoặc nếu ai đó không lên tiếng về điều này, nhưng Giáo hội chắc chắn phải là một trong những tiếng nói ở đây, mối nguy hiểm là thế giới kỹ thuật số sẽ đi theo con đường riêng của nó và chúng ta sẽ trở thành những quân cờ, hoặc bị bỏ lại bên lề.

Toàn bộ vấn đề về lao động, công việc. Phẩm giá con người có mối tương quan rất quan trọng với công việc chúng ta làm. Thông qua những ơn được ban cho, việc chúng ta có thể sản xuất, cống hiến điều gì đó cho thế giới và kiếm sống, điều đó chính là một phần của sự tự trọng, tôn trọng gia đình mình. Một số giá trị đó đang gặp nguy cơ ngay lúc này, vì vậy tôi nghĩ Giáo hội cần phải nêu vấn đề đó lên.

Tôi rất quan tâm, điều này đã xảy ra hai năm trước, khi Đức Thánh Cha Phanxicô lần đầu tiên, đối với một giáo hoàng, được mời tham dự cuộc họp G7 tại Bari để nói về vấn đề này. Giáo hội không chống lại những tiến bộ của công nghệ, hoàn toàn không, nhưng vai trò của đức tin và lý trí, vai trò của khoa học và đức tin, tôi nghĩ nếu đánh mất mối tương quan đó sẽ khiến khoa học trở thành một vỏ trống rỗng, lạnh lẽo sẽ gây tổn hại lớn đến nhân loại. Và trái tim con người sẽ bị đánh mất giữa dòng phát triển công nghệ, nếu theo cách mọi thứ đang diễn ra hiện nay.

Một khía cạnh khác của trí tuệ nhân tạo là việc xác định và gìn giữ sự thật trong thời đại ‘deep fakes’. Mạng xã hội tràn ngập thông tin sai lạc, và giờ đây còn có những giả mạo do AI tạo ra, người ta thậm chí có thể làm giả một cuộc phỏng vấn với Đức Thánh Cha. Làm thế nào để sự thật có thể được bảo vệ và gìn giữ khi chiếc xe không phanh, theo một cách nói, của AI tiếp tục phát triển mỗi ngày?

Đó là một câu hỏi rất hay. Tôi không biết mình có câu trả lời nào khác ngoài việc tiếp tục nói với mọi người rằng có chân lý, chân lý đích thực. Tôi không có nhiều kiên nhẫn khi nghe người ta nói: “à, đây là một bộ sự thật thay thế”, như chúng ta đã từng nghe trong quá khứ. Không, sự thật là sự thật. Ngay cả trong ba tháng ngắn ngủi là Giáo hoàng, một ngày nọ khi nói chuyện với một người, họ hỏi, “Đức Thánh Cha có ổn không?” Và tôi nói, “À, tôi khỏe, tại sao thế?” “Ôi, người đã bị ngã xuống bậc tam cấp.” Tôi nói, “không, tôi đâu có ngã”, nhưng có một video ở đâu đó mà họ đã tạo ra vị giáo hoàng giả này, là tôi, bị ngã xuống bậc tam cấp khi tôi đang đi đâu đó, và rõ ràng nó quá giống thật đến nỗi họ nghĩ đó là tôi. Đó chỉ là một ví dụ nhỏ, không quan trọng lắm, nhưng đó là một ví dụ về những gì có thể được thực hiện.

Gần đây có người đã xin phép tạo ra một con người nhân tạo là tôi để bất cứ ai cũng có thể đăng nhập vào trang web này và có một buổi tiếp kiến riêng với “Giáo hoàng”, và vị giáo hoàng trí tuệ nhân tạo này sẽ trả lời các câu hỏi của họ, và tôi nói, “Tôi sẽ không cho phép điều đó.” Nếu có ai đó không nên được mô phỏng bằng một hình đại diện (avatar), thì tôi cho rằng Giáo hoàng là người đứng đầu trong danh sách đó. Ý tôi là, theo một nghĩa nào đó, sự sáng tạo của con người, những khả năng mà chúng ta có được nhờ sự sáng tạo của mình, có thể được sử dụng cho đủ loại việc khác nhau.

Tôi không chống lại trí tuệ nhân tạo. Trong thế giới y khoa, những điều tuyệt vời đã xảy ra nhờ AI, và cả ở những lãnh vực khác. Tuy nhiên, có một mối nguy hiểm ở đây vì cuối cùng anh tạo ra một thế giới giả tạo và rồi anh phải tự hỏi, sự thật là gì? Ngay hôm qua tôi đã nói chuyện với một nhóm, Năm Thánh của những Người có ảnh hưởng trên mạng, và một trong những điều tôi nhấn mạnh là cách cùng nhau làm việc để thực sự đảm bảo chúng ta đang đối phó với sự thật, với sự trung thực, với cái thực, chứ không chỉ lan truyền thêm những tin giả. Đó là một thách đố lớn, bởi vì người ta bị cám dỗ tạo ra điều giả, nhưng họ tạo ra nó vì dường như có một nhu cầu nào đó nơi một số người đón nhận nó. Tại sao lại có nhiều người tiêu thụ tin giả này? Có điều gì đó đang diễn ra ở đây. Mọi người muốn tin vào thuyết âm mưu, mọi người muốn tìm kiếm tất cả những thứ giả tạo này, và điều đó rất mang tính phá hoại, rất phá hoại.

Câu hỏi cuối cùng. Người là vị Giáo hoàng thứ hai trong lịch sử được bầu chọn trong một Năm Thánh ; vị trước đó là Đức Innocent XII vào năm 1700. Đây không chỉ là một Năm Thánh bình thường, mà là Năm Thánh của niềm Hy vọng. Điều đó có ý nghĩa gì đối với cá nhân Đức Thánh Cha? Người nghĩ điều gì mà người, hoặc có thể là linh đạo Augustinô, có thể mang lại cho thế giới hôm nay về mặt hy vọng?

Vào thời điểm Mùa Chay và Lễ Phục Sinh vừa qua, đã có trải nghiệm vô cùng mạnh mẽ về những ngày cuối cùng của Đức Thánh Cha Phanxicô. Ngài ngày càng trở nên rất yếu, và rồi phép lành Urbi et Orbi từ ban công và vòng đi cuối cùng của Ngài quanh Quảng trường Thánh Phêrô, rồi cái chết của ngài vào ngày hôm sau, điều này diễn tả một cách sống động những gì chúng ta tin, về mầu nhiệm Vượt Qua: sự sống, cái chết và sự sống mới.

Năm Thánh, và năm nay đặc biệt bởi vì chủ đề là niềm hy vọng, Năm Thánh chính là việc sống đức tin của chúng ta cách mãnh liệt hơn như những người lữ hành khi chúng ta đến Roma, hoặc khi chúng ta thực hiện cuộc hành hương riêng và đi qua Cửa Thánh, là cách thể hiện mang tính biểu tượng việc đi vào những gì Chúa đang mời gọi chúng ta. Đó là một phần của mầu nhiệm cuộc sống. Vì vậy, việc được Giáo hội, các anh em Hồng y, kêu gọi đảm nhận thừa tác vụ cụ thể này với tư cách là Người Kế Vị Thánh Phêrô, đối với tôi, điều đó thật sự là một phần của cuộc hành hương của cái chết và đời sống mới.

Thành thật mà nói, không dễ dàng để từ bỏ mọi thứ mà chị đã từng có, và từng là, trong quá khứ và đảm nhận một vai trò cơ bản là 24 giờ một ngày, và rất công khai. Mọi điều về tôi đều được biết rõ, quá khứ, hiện tại, v.v., cùng những trách nhiệm, và sứ mạng. Tuy nhiên, sứ điệp hy vọng, thực tế rằng đây là một Năm Thánh là một lời nhắc nhở liên tục đối với tôi về ý nghĩa trong cuộc đời tôi khi sống hành trình hoán cải không ngừng và trao tặng cho người khác sứ điệp Tin Mừng. Đó là một sứ điệp tràn đầy hy vọng mà ngày nay vẫn còn mang ý nghĩa lớn lao trong thế giới vào một thời điểm đầy thử thách.

Theo một nghĩa nào đó, về mặt biểu tượng, hai tháng đầu tiên của tôi đã đại diện cho rất nhiều loại xung đột mà thế giới đang trải qua hiện nay. Tuy nhiên, giữa tất cả những điều đó, tôi ngủ ngon, tôi cảm nghiệm rất rõ sự hiện diện của Chúa, Chúa Thánh Thần ở cùng tôi. Tôi biết có những thách đố lớn ở phía trước. Tôi chỉ mới bắt đầu. Tuy nhiên, Năm Thánh hy vọng, và những phản hồi mà tôi nhận được... Tôi chưa đi xa ra ngoài Roma, nhưng mọi điều, những bức thư tôi nhận được, những gì tôi nhìn thấy từ nhiều nơi trên thế giới, đó là Chúa Thánh Thần. Có điều gì đó đang diễn ra trong Năm Thánh này khi mọi người đang khám phá ra niềm hy vọng trong cuộc sống của họ và bằng cách nào đó nói rằng, chúng tôi muốn trở thành một phần của điều đó.

Đó là một phúc lành thực sự đối với cá nhân tôi, và tôi hy vọng sẽ tiếp tục đồng hành với những người khác trong tinh thần đó. Tôi chỉ có thể nói, đó không phải là tôi, mà Chúa đang làm tất cả những điều này, vì vậy nó nằm trong tay Ngài. Chính xác là vào giữa năm, có cả sự phấn khởi và những thách đố, nhưng tràn đầy hy vọng bởi vì tôi thực sự tin rằng những gì Giáo hội đang hướng tới, chúng ta có rất nhiều điều để cống hiến cho thế giới.


[Nguồn: cruxnow.com]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/9/2025]


P1 - Trong cuộc phỏng vấn với phóng viên Crux, Đức Thánh Cha nói về Ukraine, tính hiệp hành, sự phân cực và World Cup

Trong cuộc phỏng vấn với phóng viên Crux, Đức Thánh Cha nói về Ukraine, tính hiệp hành, sự phân cực và World Cup


14 tháng Chín, 2025 Author

P1 - Trong cuộc phỏng vấn với phóng viên Crux, Đức Thánh Cha nói về Ukraine, tính hiệp hành, sự phân cực và World Cup

Đức Thánh Cha Lêô XIV trò chuyện với ký giả Elise Ann Allen của Crux, ngày 30 tháng 7 năm 2025. (Credit: Crux Photo.)

*******

Chú thích của BBT: Đây là những trích đoạn đầu tiên của bài phỏng vấn gồm hai phần giữa Đức Thánh Cha Lêô XIV và nữ ký giả kỳ cựu của Crux, chị Elise Ann Allen, được đưa vào quyển tiểu sử mới về Đức Thánh Cha, có tựa đề León XIV: ciudadano del mundo, misionero del siglo XXI, hay “Đức Lêô XIV: Công dân của thế giới, Nhà truyền giáo của thế kỷ XXI.” Cuốn sách được nhà xuất bản Penguin Peru phát hành bằng tiếng Tây Ban Nha và sẽ có mặt trên các kệ sách và trực tuyến vào ngày 18 tháng 9. Các ấn bản tiếng Anh và tiếng Bồ Đào Nha sẽ ra mắt vào đầu năm 2026.

ROMA – Trong một cuộc phỏng vấn dài và gồm nhiều chủ đề cho một quyển tiểu sử mới về cuộc đời ngài, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chia sẻ về lý lịch của mình với tư cách là vị giáo hoàng đầu tiên sinh ra tại Hoa Kỳ và là vị giáo hoàng đầu tiên mang quốc tịch Peru, ngài dí dỏm nói về việc sẽ cổ vũ cho đội bóng nào trong World Cup giả định, cũng như sự thấu hiểu của ngài về sứ vụ giáo hoàng và các vấn đề thời sự như hòa bình tại Ukraine, tầm nhìn của ngài về tính hiệp hành, và tình trạng phân cực đang gây ra rất nhiều chia rẽ trên thế giới.

Trao đổi với nữ ký giả kỳ cựu của Crux, chị Elise Ann Allen, trong buổi phỏng vấn thứ hai của cuộc phỏng vấn kéo dài hai tiếng rưỡi cho quyển tiểu sử do chị viết, Đức Thánh Cha Lêô nói rằng ngài định nghĩa tiến trình hiệp hành của Đức Thánh Cha Phanxicô là “một thái độ, một sự cởi mở, một sự sẵn lòng thấu hiểu. Nói về Giáo hội hiện nay, điều này có nghĩa là mỗi thành viên của Giáo hội đều có tiếng nói và vai trò để thực hiện qua việc cầu nguyện, suy tư… qua một tiến trình.”

Ngài nói: “Đó là một thái độ mà tôi nghĩ có thể dạy cho thế giới hôm nay rất nhiều điều.”

Đề cập đến vấn đề phân cực, ngài nói: “Tôi nghĩ đây là một thứ thuốc giải. Tôi cho rằng đây là một cách để giải quyết một số những thách thức lớn nhất mà chúng ta đang gặp phải trên thế giới ngày nay. Nếu chúng ta lắng nghe Tin Mừng, và nếu chúng ta cùng nhau suy tư, và nếu chúng ta cố gắng cùng nhau tiến bước, lắng nghe nhau, cố gắng khám phá xem Thiên Chúa đang nói gì với chúng ta hôm nay, thì chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều từ đó.”

Khi nhắc lại kinh nghiệm sâu rộng của ngài tại Peru, ngài bày tỏ hy vọng rằng tiến trình hiệp hành đã bắt đầu “rất lâu trước Thượng Hội Đồng gần đây, ít nhất là ở Châu Mỹ Latinh – như tôi đã chia sẻ về kinh nghiệm của tôi ở đó. Một phần Giáo hội Châu Mỹ Latinh đã thực sự đóng góp cho Giáo hội hoàn vũ – tôi cho rằng có hy vọng lớn lao nếu chúng ta có thể tiếp tục xây dựng trên kinh nghiệm của những năm vừa qua và tìm ra những cách thức để trở thành Giáo hội cùng nhau.”

Sau đây là những trích đoạn đầu tiên trong bài phỏng vấn của Đức Giáo hoàng Lêô XIV với chị Elise Ann Allen, và toàn bộ nội dung sẽ được công bố khi cuốn tiểu sử được phát hành vào ngày 18 tháng 9:
___________________________

Allen: Đức Thánh Cha mang trong mình hai điểm đặc biệt. Người là vị Giáo hoàng đầu tiên đến từ Hoa Kỳ, đồng thời cũng là vị Giáo hoàng thứ hai có quan điểm, nếu có thể nói như vậy, của Châu Mỹ Latinh. Đức Thánh Cha cảm thấy đồng nhất với đặc điểm nào hơn?

ĐTC Lêô: Tôi nghĩ câu trả lời là cả hai. Đương nhiên tôi là một người Mỹ và tôi cảm thấy mình thật sự là một người Mỹ, nhưng tôi cũng vô cùng yêu mến Peru, yêu quý con người Peru, đó là một phần con người tôi. Nửa cuộc đời mục vụ của tôi đã trải qua ở Peru, vì vậy quan điểm Châu Mỹ Latinh rất có giá trị đối với tôi. Tôi nghĩ điều đó cũng thể hiện qua sự trân trọng mà tôi dành cho đời sống của Giáo hội Châu Mỹ Latinh, mà tôi tin rằng có ý nghĩa quan trọng trong cả mối liên hệ của tôi với Đức Thánh Cha Phanxicô, trong sự hiểu biết của tôi về một số tầm nhìn mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã có cho Giáo hội, và làm thế nào chúng ta có thể tiếp tục thực hiện điều đó theo tầm nhìn ngôn sứ thật sự cho Giáo hội hôm nay và ngày mai.

Tình huống giả định: Hoa Kỳ gặp Peru trong World Cup. Đức Thánh Cha sẽ cổ vũ cho đội nào?

Câu hỏi rất hay. Có lẽ là Peru, chỉ vì những mối dây tình cảm. Tôi cũng là một người rất hâm mộ đội Ý… Mọi người đều biết tôi là người hâm mộ của đội White Sox, nhưng với tư cách là Giáo hoàng, tôi là người hâm mộ của tất cả các đội. Ngay cả khi còn ở nhà, tôi lớn lên là người hâm mộ đội White Sox, nhưng mẹ tôi lại là người hâm mộ đội Cubs, vì vậy bạn không thể là một người hâm mộ chọn phe này và loại trừ phe kia.

Chúng tôi học được rằng, ngay cả trong thể thao, phải có một thái độ cởi mở, đối thoại, thân thiện chứ không phải thái độ ganh đua giận dữ về những chuyện như thế, bởi lẽ nếu như vậy, có lẽ chúng tôi đã chẳng có bữa tối mà dùng!

Đức Thánh Cha đang trong những tháng đầu tiên trên cương vị giáo hoàng. Người hiểu vai trò của sứ vụ giáo hoàng như thế nào?

Vẫn còn một chặng đường học hỏi rất lớn phía trước. Có một phần lớn tôi cảm thấy tôi đã có thể đảm nhận mà không gặp nhiều khó khăn, đó là khía cạnh mục vụ. Mặc dù tôi ngạc nhiên trước sự hưởng ứng, sự đón nhận của mọi người ở mọi độ tuổi vẫn tiếp tục lớn … Tôi trân trọng tất cả mọi người, bất kể họ là ai, họ mang theo điều gì, và tôi lắng nghe họ.

Khía cạnh hoàn toàn mới của công việc này là được đẩy lên cấp độ nhà lãnh đạo thế giới. Đó là một vai trò rất công khai, mọi người đều biết về các cuộc điện đàm hoặc các cuộc gặp gỡ của tôi với những vị nguyên thủ của các chính phủ, các quốc gia trên thế giới, trong thời điểm khi tiếng nói của Giáo hội giữ một vai trò quan trọng. Tôi đang học được rất nhiều về cách Tòa Thánh đã có vai trò trong thế giới ngoại giao suốt nhiều năm qua… Tất cả những điều này đều hoàn toàn mới mẻ với tôi ở mức độ thực hành. Tôi đã theo dõi các vấn đề thời sự trong nhiều, nhiều năm. Tôi vẫn luôn cố gắng cập nhật tin tức, nhưng vai trò của Giáo hoàng chắc chắn là mới đối với tôi. Tôi đang học hỏi rất nhiều và cảm thấy đầy thử thách, nhưng không bị choáng ngợp. Về điểm này, tôi đã phải bắt tay ngay vào công việc hoàn toàn mới mà không có sự chuẩn bị.

Trở thành Giáo hoàng, người kế vị Thánh Phêrô, là điều chỉ có thể xảy ra nhờ ơn Chúa, không có lời giải thích nào khác, với trách vụ được yêu cầu là củng cố anh chị em trong đức tin, đó là phần quan trọng nhất,.

Chúa Thánh Thần là cách duy nhất để giải thích, làm sao tôi lại được bầu chọn vào chức vụ này, vào thừa tác vụ này? Với đức tin của tôi, với những gì tôi đã sống, với sự hiểu biết của tôi về Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng, tôi đã nói lời xin vâng, tôi đang ở đây. Tôi hy vọng có thể củng cố anh chị em trong đức tin, bởi vì đó là vai trò căn bản nhất mà người Kế vị Thánh Phêrô mang lấy.

Một điều mà Đức Thánh Cha luôn kêu gọi rất nhiều là hòa bình; hòa bình cho nhiều cuộc xung đột khác nhau, nhưng đặc biệt là ở Ukraine. Việc Vatican làm trung gian trong cuộc xung đột cụ thể đó vào lúc này có thực tế hay không?

Tôi muốn phân biệt giữa tiếng nói của Tòa Thánh trong việc kêu gọi hòa bình và vai trò trung gian, điều mà tôi nghĩ là rất khác và không thực tế bằng điều thứ nhất. Tôi nghĩ mọi người đã nghe những lời kêu gọi mà tôi đã đưa ra để cất lên tiếng nói của tôi, tiếng nói của các Kitô hữu, và của những người thiện chí, nói rằng hòa bình là câu trả lời duy nhất. Việc giết chóc cách vô tội vạ người dân ở cả hai phía sau ngần ấy năm – trong cuộc xung đột cụ thể đó cũng như trong các cuộc xung đột khác – tôi nghĩ con người phải bằng cách nào đó được thức tỉnh để nhận ra rằng có một cách khác để giải quyết.

Nghĩ đến việc Vatican trở thành trung gian, thậm chí có vài lần chúng tôi đã đề nghị tổ chức các cuộc họp đàm phán giữa Ukraine và Nga, hoặc tại Vatican hoặc tại một địa điểm nào đó thuộc Giáo hội, tôi ý thức rất rõ về những hệ lụy của việc đó.

Từ khi chiến tranh bắt đầu, Tòa Thánh đã rất nỗ lực để duy trì một vị thế, dù khó khăn đến mấy, [không phải] ngả về bên này hay bên kia, mà thực sự là trung lập. Một số điều tôi nói đã được diễn giải theo cách này hay cách khác, và điều đó cũng không sao, nhưng tôi nghĩ phần thực tế của nó không phải là ưu tiên hàng đầu lúc này. Tôi nghĩ cần có một số tác nhân khác nhau đủ mạnh để thúc đẩy các bên tham chiến nói rằng, đủ rồi, và chúng ta tìm một cách khác để giải quyết những bất đồng.

Chúng ta vẫn tiếp tục hy vọng. Tôi vững tin rằng chúng ta không bao giờ từ bỏ hy vọng. Tôi có niềm hy vọng lớn nơi bản chất con người. Dĩ nhiên có mặt tiêu cực; có những kẻ hành động xấu, có những cám dỗ. Ở bất kỳ phía nào thuộc bất kỳ lập trường nào, chị đều có thể tìm thấy những động lực tốt và những động lực chưa tốt. Tuy nhiên, việc không ngừng khuyến khích con người hướng đến những giá trị cao hơn, những giá trị thực, đó là điều tạo nên sự khác biệt. Chị có hy vọng, và chị không ngừng cố gắng thúc đẩy và nói với mọi người, chúng ta hãy làm điều này theo một cách khác.

Đức Thánh Cha đã nói về hòa bình và xây dựng những cầu nối trong bài diễn văn đầu tiên của người trên ban công Đền thờ Thánh Phêrô. Vậy đâu là những nhịp cầu mà Đức Thánh Cha muốn xây dựng? Về mặt chính trị, xã hội, văn hóa, giáo hội, những nhịp cầu nối đó là gì?

Trước hết, con đường xây dựng những nhịp cầu nối chính yếu là qua đối thoại. Một trong những điều tôi đã có thể thực hiện trong vài tháng đầu tiên này là khởi sự ít nhất một số đối thoại, các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo thế giới từ những tổ chức đa quốc gia. Về lý thuyết, Liên Hợp Quốc phải là nơi giải quyết nhiều vấn đề này. Nhưng đáng tiếc, dường như đã có sự nhìn nhận chung rằng Liên Hợp quốc, ít nhất là tại thời điểm này, đã mất khả năng tập hợp mọi người lại với nhau về các vấn đề đa phương. Rất nhiều người đang nói, ‘Anh phải xúc tiến đối thoại song phương’ để cố gắng kết nối mọi thứ lại với nhau, bởi vì có những rào cản ở các cấp độ khác nhau khiến những vấn đề đa phương khó tiến hành.

Chúng ta phải liên tục nhắc nhở bản thân về tiềm năng mà nhân loại có được để vượt qua bạo lực và hận thù đang ngày càng chia rẽ chúng ta. Chúng ta đang sống trong thời đại mà sự phân cực dường như là một trong những từ khóa của ngày nay, nhưng điều đó chẳng giúp ích cho ai cả. Hoặc nếu nó giúp ích cho ai đó, thì cũng là số rất ít trong khi mọi người khác phải chịu đau khổ. Vì thế, tiếp tục đặt ra những câu hỏi ấy là điều tôi nghĩ rất quan trọng.

Đó cũng chính là câu hỏi tiếp theo của con, sự phân cực, một từ đang rất thông dụng ngày nay, cả trong Giáo hội lẫn ngoài xã hội. Theo Đức Thánh Cha, làm sao giải quyết được tình trạng ấy?

Chắc chắn việc nêu vấn đề và bàn về nó là một chuyện. Tôi nghĩ điều rất quan trọng là phải bắt đầu một suy tư sâu sắc hơn, cố gắng tìm hiểu: tại sao thế giới lại bị phân cực như vậy? Điều gì đang xảy ra? Tôi nghĩ có rất nhiều yếu tố đã dẫn đến tình trạng này. Tôi không dám khẳng định rằng mình có tất cả câu trả lời, nhưng tôi chắc chắn nhìn thấy được thực tế nơi một số hậu quả. Cuộc khủng hoảng năm 2020 và đại dịch chắc chắn đã có tác động đến tất cả những điều này, nhưng tôi nghĩ nó đã bắt đầu từ xa hơn nữa… Có lẽ ở một số nơi, việc mất đi ý thức cao cả hơn về ý nghĩa cuộc sống con người có thể liên quan đến tình trạng đó, nó đã ảnh hưởng đến con người ở nhiều cấp độ. Giá trị của sự sống con người, của gia đình, và giá trị của xã hội. Nếu chúng ta đánh mất ý thức về những giá trị đó, thì còn điều gì là quan trọng nữa?

Thêm vào đó là những yếu tố khác, một yếu tố mà tôi nghĩ rất quan trọng là khoảng cách ngày càng lớn hơn giữa mức thu nhập của tầng lớp lao động và số tiền mà giới người giàu có nhất nhận được. Chẳng hạn, cách đây 60 năm, các giám đốc điều hành có thể nhận mức lương gấp bốn đến sáu lần so với những gì người lao động nhận được, nhưng con số gần đây nhất mà tôi thấy là gấp 600 lần. Hôm qua báo chí đưa tin Elon Musk sẽ trở thành tỷ phú nghìn tỷ đầu tiên trên thế giới. Điều đó có ý nghĩa gì, và nói lên điều gì? Nếu đó là điều duy nhất có giá trị, thì chúng ta đang gặp rắc rối lớn…

[Về chủ đề tính hiệp hành], con nghĩ khái niệm hiệp hành vẫn là điều mà nhiều người đang phải chật vật để hiểu. Đức Thánh Cha định nghĩa nó như thế nào?

Hiệp hành là một thái độ, một sự cởi mở, một sự sẵn lòng để thấu hiểu. Nói về Giáo Hội hiện nay, điều này có nghĩa là mỗi thành viên của Giáo hội đều có tiếng nói và một vai trò để thực hiện qua việc cầu nguyện, suy tư… qua một tiến trình. Có nhiều cách để việc này có thể diễn ra, nhưng cốt yếu là qua đối thoại và tôn trọng lẫn nhau. Việc đưa mọi người đến với nhau và hiểu rằng mối tương quan đó, sự tương tác đó, việc tạo ra những cơ hội gặp gỡ, là một chiều kích quan trọng để chúng ta sống đời sống Giáo hội.

Một số người đã cảm thấy bị đe dọa bởi tiến trình đó. Đôi khi các giám mục hoặc linh mục có thể cảm thấy, ‘hiệp hành sẽ lấy đi quyền bính của tôi’. Hiệp hành không phải là như thế, và có lẽ ý tưởng của anh về quyền bính của mình có phần nào bị lệch lạc, sai hướng. Tôi nghĩ rằng hiệp hành là một cách để diễn tả làm thế nào chúng ta có thể đến với nhau và trở thành một cộng đoàn, tìm kiếm sự hiệp thông trong một Giáo hội, để đó là một Giáo hội mà trọng tâm chính không phải là cơ cấu phẩm trật định chế, nhưng là một ý thức về ‘chúng ta cùng nhau’, ‘Giáo hội của chúng ta’. Mỗi người với ơn gọi riêng của mình, linh mục, giáo dân, hoặc giám mục, nhà truyền giáo, gia đình. Mọi người với ơn gọi cụ thể mà họ đã được ban cho đều có một vai trò để thực hiện và điều gì đó để đóng góp, và cùng nhau chúng ta tìm kiếm con đường để phát triển và cùng nhau tiến bước như một Giáo hội.

Đó là một thái độ mà tôi nghĩ có thể dạy cho thế giới ngày nay rất nhiều điều. Vừa rồi chúng ta đã nói về sự phân cực. Tôi nghĩ đây là một phương thuốc giải. Tôi nghĩ đây là một cách để giải quyết một số thách thức lớn nhất mà chúng ta đang gặp phải trên thế giới ngày nay. Nếu chúng ta lắng nghe Tin Mừng, và nếu chúng ta cùng nhau suy tư, và nếu chúng ta cố gắng cùng nhau bước tới, lắng nghe nhau, cố gắng khám phá xem Thiên Chúa đang nói gì với chúng ta hôm nay, thì chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều từ đó.

Tôi rất hy vọng rằng tiến trình đã được khởi sự từ lâu trước Thượng Hội đồng vừa qua, ít nhất là ở Châu Mỹ Latinh – như tôi đã nói về kinh nghiệm của tôi ở đó. Một phần Giáo hội Châu Mỹ Latinh thực sự đã đóng góp cho Giáo hội hoàn vũ – tôi nghĩ có một niềm hy vọng lớn lao nếu chúng ta tiếp tục xây dựng trên kinh nghiệm của những năm vừa qua và tìm ra những cách thế để trở thành Giáo hội cùng nhau. Không phải để cố gắng biến Giáo hội thành một dạng chính phủ dân chủ, điều mà nếu chúng ta nhìn vào nhiều quốc gia trên thế giới ngày nay, dân chủ không hẳn là một giải pháp hoàn hảo cho mọi sự. Nhưng tôn trọng, hiểu rõ đời sống của Giáo hội đúng như bản chất của nó và nói rằng, ‘chúng ta phải cùng nhau thực hiện điều này’. Tôi nghĩ điều đó mang lại một cơ hội lớn cho Giáo hội, và mang đến cho Giáo hội cơ hội tham gia với thế giới. Kể từ Công Đồng Vaticanô II, tôi nghĩ điều đó có ý nghĩa quan trọng, và còn rất nhiều việc phải làm.


[Nguồn: cruxnow.com]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/9/2025]