Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2025

Đức Thánh Cha Lêô XIV tiếp kiến các tham dự viên Hội nghị chuyên đề do Hàn lâm viện Giáo hoàng về Thần học tổ chức, ngày 13.09.2025

Đức Thánh Cha Lêô XIV tiếp kiến các tham dự viên Hội nghị chuyên đề do Hàn lâm viện Giáo hoàng về Thần học tổ chức, ngày 13.09.2025

Đức Thánh Cha Lêô XIV tiếp kiến các tham dự viên Hội nghị chuyên đề do Hàn lâm viện Giáo hoàng về Thần học tổ chức, ngày 13.09.2025

*******

Sáng nay, tại Hội trường Clementine trong Điện Tông tòa Vatican, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã tiếp kiến các tham dự viên của Hội nghị chuyên đề do Hàn lâm viện Giáo hoàng về Thần học tổ chức.

Sau đây là diễn văn của Đức Thánh Cha gửi đến những người hiện diện:

_________________________________


Diễn văn của Đức Thánh Cha


Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.

Bình an ở cùng anh chị em!

Kính thưa Đức Hồng y,

Thưa quý Đức Cha,

Quý Học giả đáng kính,

Tôi vui mừng được chào đón Hàn lâm viện Giáo hoàng về Thần học nhân dịp kết thúc cuộc hội thảo quốc tế của quý vị tập trung vào chủ đề “Tạo dựng, Thiên nhiên, Môi trường cho một Thế giới Hòa bình.”

Quý vị đã suy tư về những vấn đề cấp bách, rất gần gũi với tôi, cũng như với các đấng tiền nhiệm đáng kính của tôi là Thánh Gioan Phaolô II, Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô. Việc bảo vệ môi trường và chăm sóc công trình tạo dựng là những cam kết trọng yếu để bảo đảm sự sống còn của nhân loại; chúng có tác động trực tiếp đến cơ cấu các xã hội của chúng ta cũng như khả năng con người cùng chung sống trong hòa bình và hợp tác.

Đồng thời, mọi nỗ lực nhằm cải thiện các điều kiện môi trường và xã hội trên thế giới đều đòi hỏi cam kết của mọi người, mỗi người làm tròn bổn phận của mình, với tinh thần liên đới và hợp tác, vượt qua những rào cản và giới hạn về vùng miền, quốc gia, văn hóa và thậm chí là tôn giáo. Chiều kích liên văn hóa và liên tôn trong cuộc hội thảo của quý vị là một dấu chỉ đầy hứa hẹn cho những cuộc thảo luận sâu rộng hơn và mạnh mẽ hơn trong tương lai, cũng như những sáng kiến sâu sắc và hiệu quả. Điều này phù hợp với định hướng mới của Hàn lâm viện Thần học theo mong muốn của Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã mang lại một diện mạo mới cho cơ chế lâu đời này của Tòa Thánh.

Được hướng dẫn bởi Tông thư Ad Theologiam Promovendam, kèm theo việc công bố các quy định và chính sách chương trình mới cách đây chưa đầy hai năm, tôi đặc biệt muốn tập trung vào động lực truyền giáo và đối thoại cho các nỗ lực thần học trong tương lai.

Thần học, tất nhiên, là một chiều kích cấu thành hoạt động truyền giáo và loan báo Tin Mừng của Giáo hội. Nó bắt nguồn từ Tin Mừng với mục đích tối hậu là dẫn đưa con người đến sự hiệp thông với Thiên Chúa, vốn là mục tiêu của việc rao giảng Kitô giáo. Chính vì hướng tới mọi người trong mọi thời đại, công cuộc loan báo Tin Mừng luôn phải đối mặt với những thách thức từ bối cảnh văn hóa và đòi hỏi một nền thần học “lên đường”, kết hợp tính chặt chẽ của khoa học với niềm say mê lịch sử – một nền thần học nhập thể, thấm đẫm những nỗi đau, niềm vui, những ước vọng và hy vọng của con người trong thời đại chúng ta.

Sự tổng hợp giữa những chiều kích khác nhau này có thể được thể hiện qua một nền thần học khôn ngoan, theo mô hình được phát triển bởi các Giáo phụ và các bậc Thầy vĩ đại thời xưa. Nhờ sự vâng nghe Thần Khí, các ngài đã biết cách kết hợp đức tin và lý trí, chiêm niệm, cầu nguyện và thực hành. Tấm gương của Thánh Augustinô luôn thích hợp và rất có ý nghĩa trong điểm này. Thần học của ngài không bao giờ là sự theo đuổi thuần túy trừu tượng, mà luôn là hoa trái của kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và mối tương quan trao ban sự sống bắt nguồn từ đó. Kinh nghiệm đó bắt đầu ngay cả trước khi ngài lãnh nhận phép Rửa, khi ngài cảm nhận được hướng dẫn bởi một ánh sáng không thể diễn tả trong sâu thẳm tâm hồn (xem Tự Thuật, VII, 10). Kinh nghiệm này tiếp tục trong suốt cuộc đời ngài, định hình những suy tư thần học của ngài, một thần học nhập thể và có khả năng đáp ứng những nhu cầu thiêng liêng, giáo lý, mục vụ và xã hội của thời đại ngài.

Nếu Thánh Augustinô bắt đầu cuộc hành trình này với bước tiếp cận mang tính hiện sinh và cảm xúc, xuất phát từ sự suy tư nội tâm và nhận ra “chân lý ngự trong chúng ta,” thì Thánh Tôma Aquinô đã hệ thống hóa nó bằng các công cụ của lý trí Aristotle. Thánh Tôma xây dựng một cây cầu vững chắc giữa đức tin Kitô giáo và khoa học phổ quát, coi thần học như một sapida scientia hay sapientia. Điều này đưa chúng ta đến với một nhà tư tưởng vĩ đại khác gần đây hơn, Chân phước Antonio Rosmini, người “coi thần học là một biểu hiện siêu việt của bác ái trí tuệ, đồng thời nhấn mạnh rằng lý luận phê phán tri thức phải hướng tới Ý niệm về Sự khôn ngoan” (Tông thư Ad Theologiam Promovendam, ngày 1 tháng 11 năm 2023, 7).

Như thế, thần học chính là sự khôn ngoan mở ra những chân trời hiện sinh rộng lớn hơn, đối thoại với khoa học, triết học, nghệ thuật và mọi kinh nghiệm của con người. Nhà thần học là người sống lòng nhiệt thành truyền giáo, trong công trình thần học của mình, bằng cách thông truyền cho mọi người “sự hiểu biết” và “hương vị” của đức tin, để nó có thể soi sáng đời sống của chúng ta, cứu chuộc những người yếu đuối và bị gạt ra ngoài lề, chạm đến và chữa lành thân phận đau khổ của người nghèo, giúp chúng ta xây dựng một thế giới huynh đệ và liên đới, và dẫn chúng ta đến cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa.

Một chứng từ quan trọng cho tri thức đức tin phục vụ nhân loại trong mọi chiều kích – cá nhân, xã hội và chính trị – chính là Học thuyết Xã hội của Giáo hội, ngày nay cũng được mời gọi để đưa ra những câu trả lời khôn ngoan trước những thách đố của kỹ thuật số. Thần học phải trực tiếp tham gia, vì cách tiếp cận chỉ mang tính đạo đức đối với thế giới phức tạp của trí tuệ nhân tạo là không đủ. Thay vào đó, chúng ta cần phải quy chiếu về một cái nhìn nhân học làm nền tảng cho hành động đạo đức và, như thế, trở lại với câu hỏi từ ngàn xưa: Con người là gì? Phẩm giá vốn có của họ là gì, tức là điều không thể đồng hóa với một người máy kỹ thuật số?

Vì vậy, tôi mời gọi quý vị vun đắp một nền thần học dựa trên cuộc gặp gỡ mật thiết và biến đổi với Đức Kitô, nhằm nhập thể trong những vấn đề cụ thể của nhân loại ngày nay. Tôi khích lệ quý vị tham gia đối thoại không chỉ với triết học, mà còn với vật lý, sinh học, kinh tế, luật pháp, văn học và âm nhạc, để làm giàu cho chính mình và cho người khác, và đưa men tốt lành của Tin Mừng vào các nền văn hóa khác nhau, trong những cuộc gặp gỡ của quý vị với tín đồ thuộc các tôn giáo khác và với những người không tin. Như quý vị biết, để cuộc đối thoại ad extra (đối ngoại) này diễn ra, trước hết phải có cuộc đối thoại ad intra (đối nội), nghĩa là đối thoại giữa các nhà thần học dựa trên ý thức rằng dung nhan của Thiên Chúa chỉ có thể được tìm thấy bằng cách cùng nhau tiến bước. Tôi hy vọng rằng Hàn lâm viện sẽ trở thành nơi gặp gỡ và tình bằng hữu giữa các nhà thần học, một nơi hiệp thông và chia sẻ, nơi tất cả có thể cùng nhau tiến đến Đức Kitô.

Với hy vọng này, tôi khích lệ và chúc lành cho cả ba “diện mạo” của Hàn lâm viện được nêu trong các Quy chế mới: diện mạo học thuật – khoa học, nơi sự chặt chẽ về trí tuệ, khảo cứu và nghiên cứu phê bình đức tin được thực thi; diện mạo khôn ngoan, thể hiện thời gian chiêm niệm và phân định, thu hút nhiều người bình thường thông qua “các hội nhóm thần học,” nơi thần học gắn liền với cầu nguyện, lắng nghe và chia sẻ, giúp nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và vượt qua những hình ảnh sai lệch về Thiên Chúa; và cuối cùng, diện mạo liên đới, truyền cảm hứng và thúc đẩy những hành động bác ái cụ thể. Sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa được hiện thực hóa trong một đời sống được biến đổi bởi tình yêu.

Các bạn thân mến, tôi cảm ơn các bạn vì cam kết của các bạn. Tôi ước mong rằng các bạn sẽ phát triển và nhập thể nền thần học khôn ngoan này, để phục vụ Giáo hội và thế giới. Xin cho phép lành của tôi luôn đồng hành và nâng đỡ các bạn. Cảm ơn các bạn!


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 14/9/2025]


Đức Thánh Cha tiếp kiến các tham dự viên của “Hội nghị Thế giới về Tình Huynh đệ Nhân loại”, 12.09.2025

Đức Thánh Cha tiếp kiến các tham dự viên của “Hội nghị Thế giới về Tình Huynh đệ Nhân loại”, 12.09.2025

Đức Thánh Cha tiếp kiến các tham dự viên của “Hội nghị Thế giới về Tình Huynh đệ Nhân loại”, 12.09.2025

*******

Sáng nay, tại Hội trường Clementine trong Điện Tông tòa Vatican, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã tiếp kiến các tham dự viên của “Hội nghị Thế giới về Tình Huynh đệ Nhân loại”, và sau đây là diễn văn của ngài:

Diễn văn của Đức Thánh Cha

_____________________________________


Chào mừng tất cả anh chị em!

Anh chị em thân mến, bình an ở cùng anh chị em!

Xin chào mừng và cảm ơn anh chị em đã hiện diện nơi đây. Anh chị em đến từ nhiều nơi trên thế giới để tham dự Hội nghị Thế giới lần thứ ba về Tình Huynh đệ Nhân loại do Đền Thánh Phêrô, Quỹ Fratelli Tutti, Hiệp hội Be Human và Quỹ Saint Peter for Humanity đồng tổ chức.

Thế giới hiện nay đang bị chia rẽ và xung đột, vì vậy, việc anh chị em cùng nhau cất lên một tiếng “không” mạnh mẽ và can đảm với chiến tranh, và một tiếng “có” với hòa bình và tình huynh đệ là điều vô cùng quan trọng. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã dạy chúng ta, chiến tranh không bao giờ là con đường đúng đắn để giải quyết xung đột. “Sẵn sàng đối diện trực tiếp với xung đột, giải quyết nó và biến nó thành một mắt xích trong chuỗi mắt xích của một tiến trình mới” (Evangelii Gaudium, 227) là con đường khôn ngoan nhất, con đường của những người mạnh mẽ. Sự hiện diện của anh chị em làm chứng cho sự khôn ngoan này, nó liên kết các nền văn hóa và tôn giáo, và là sức mạnh âm thầm giúp chúng ta nhận ra nhau là anh chị em, bất kể những khác biệt.

Theo Kinh Thánh, mối tương quan huynh đệ đầu tiên giữa Cain và Aben đã ngay lập tức biến thành một xung đột bi thảm. Tuy nhiên, tội sát nhân đầu tiên ấy không được phép khiến ta đi đến kết luận rằng “mọi sự vốn đã luôn như thế.” Dẫu cho bạo lực của Cain đã có từ xa xưa hay lan rộng đến đâu, nó cũng không được chấp nhận như là điều “bình thường.” Trái lại, chuẩn mực được mặc khải trong câu hỏi của Thiên Chúa dành cho kẻ có tội: “Em ngươi đâu rồi?” (St 4:9). Chính trong câu hỏi này, chúng ta tìm thấy ơn gọi của mình, nguyên tắc và thước đo của công lý. Thiên Chúa không trả thù Cain thay cho Aben, nhưng đặt cho anh ta một câu hỏi, và câu hỏi đó vang vọng suốt dòng lịch sử.

Ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta phải biến câu hỏi này thành của riêng mình như một nguyên tắc hòa giải. Khi nó được ghi vào lòng, nó sẽ vang lên theo cách này: “Người anh em, người chị em, anh chị đang ở đâu?” Anh chị đang ở đâu trong “ngành kinh doanh” chiến tranh làm tan nát cuộc đời của những người trẻ tuổi bị buộc phải cầm vũ khí; nhắm vào những thường dân không có khả năng tự vệ, những trẻ em, phụ nữ và người già; tàn phá các thành phố, vùng quê và toàn bộ hệ sinh thái, chỉ để lại đống đổ nát và đau thương? Anh, chị, anh chị đang ở đâu giữa những người di cư bị khinh miệt, bị giam cầm và bị từ chối, giữa những người tìm kiếm sự cứu rỗi và hy vọng nhưng lại chỉ tìm thấy những bức tường và sự thờ ơ? Anh, chị, anh chị đang ở đâu khi những người nghèo bị đổ lỗi cho chính cảnh nghèo khó của họ, bị lãng quên và bị loại trừ, trong một thế giới coi trọng lợi nhuận hơn con người? Anh, chị, anh chị đang ở đâu trong một cuộc sống siêu kết nối, nơi sự cô đơn gặm nhấm các mối liên kết xã hội và khiến chúng ta trở nên xa lạ ngay cả với chính bản thân? Câu trả lời không thể là sự im lặng. Chính anh chị em là câu trả lời, bằng sự hiện diện, bằng sự dấn thân và lòng can đảm của anh chị em. Câu trả lời chính là chọn một hướng đi khác cho cuộc sống, cho sự tăng trưởng và phát triển.

Nhận ra người khác là anh chị em có nghĩa là giải phóng chúng ta khỏi ảo tưởng rằng chúng ta là những cá nhân đơn độc, thoát khỏi luận lý rằng chỉ tạo các mối tương quan vì lợi ích cá nhân. Không chỉ có lợi ích cá nhân mới khiến chúng ta bước vào các mối quan hệ. Các truyền thống tâm linh lớn và sự trưởng thành của tư duy phản biện giúp chúng ta vượt qua các mối tương quan huyết thống hoặc sắc tộc, vượt qua những mối quan hệ chỉ công nhận những người giống mình và từ chối những người khác biệt. Điều thú vị là trong Kinh thánh, như khoa chú giải Kinh Thánh hiện đại đã tiết lộ, chính những bản văn gần đây nhất và kỹ càng nhất đã tường thuật về một tình huynh đệ vượt qua ranh giới sắc tộc của dân Thiên Chúa và được thiết lập trên điểm chung của nhân loại. Các trình thuật sáng tạo và gia phả minh chứng rằng tất cả các dân tộc, ngay cả kẻ thù, đều có cùng một nguồn gốc, và trái đất cùng mọi sản vật của nó là dành cho tất cả mọi người, chứ không phải cho một số ít.

Ở trung tâm của Thông điệp Fratelli Tutti, chúng ta đọc thấy: “Tình bạn xã hội và tình huynh đệ phổ quát tất yếu đòi hỏi phải nhìn nhận giá trị của mỗi con người, luôn luôn và ở khắp mọi nơi” (số 106).

Tình huynh đệ là tên gọi thật nhất của sự gần gũi. Nó có nghĩa là tái khám phá khuôn mặt của người khác. Đối với những người có niềm tin, họ nhận ra Mầu nhiệm: chính hình ảnh của Thiên Chúa nơi khuôn mặt của người nghèo, người tị nạn và thậm chí cả đối thủ.

Các bạn thân mến, tôi động viên các bạn hãy tìm ra những cách thức ở cấp địa phương và quốc tế để phát triển các hình thức mới của bác ái xã hội, những liên minh giữa các lãnh vực tri thức khác nhau, và sự liên đới giữa các thế hệ. Đây phải là những cách tiếp cận dựa vào cộng đồng, gồm cả người nghèo, họ không chỉ là những người nhận trợ giúp, mà là chủ thể của việc phân định và đối thoại. Tôi khuyến khích các bạn tiếp tục công việc gieo hạt âm thầm này. Từ đây có thể làm phát sinh một tiến trình tham gia tập trung vào con người và tình huynh đệ, không chỉ dừng lại ở việc liệt kê những quyền, mà còn bao gồm các hành động và động cơ cụ thể khiến chúng ta có lối sống khác trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta cần một “giao ước nhân loại” rộng lớn, được thiết lập không phải trên quyền lực mà trên sự quan tâm; không phải trên lợi nhuận mà trên sự cho đi; không phải trên sự nghi ngờ mà trên sự tin tưởng. Quan tâm, cho đi và tin tưởng không phải là những đức tính chỉ để thực hành trong thời gian nhàn rỗi: chúng là những trụ cột của một nền kinh tế không giết chết, nhưng đào sâu và mở rộng sự tham gia vào đời sống.

Tôi xin cảm ơn các nghệ sĩ, những người sẽ gửi thông điệp này cho thế giới bằng óc sáng tạo của mình từ vòng tay tuyệt mỹ của hàng cột Bernini. Xin đặc biệt cảm ơn các vị đoạt giải Nobel hiện diện tại đây, vì đã soạn thảo Tuyên ngôn về Tình Huynh đệ Nhân loại ngày 10 tháng 6 năm 2023, và vì chứng tá họ đang làm tại các diễn đàn quốc tế.

Các bạn hãy tiếp tục nuôi dưỡng linh đạo của tình huynh đệ thông qua văn hóa, qua các mối tương quan công việc và hành động ngoại giao. Luôn mang trong tâm khảm lời của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (13:34). Xin cho Phép lành của tôi luôn đồng hành và nâng đỡ các bạn.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 14/9/2025]


Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2025

Đức Thánh Cha Lêô cho thấy tại sao 70 là tuổi hoàn hảo để bắt đầu lại

Đức Thánh Cha Lêô cho thấy tại sao 70 là tuổi hoàn hảo để bắt đầu lại

Đức Thánh Cha Lêô cho thấy tại sao 70 là tuổi hoàn hảo để bắt đầu lại

Antoine Mekary | ALETEIA


Cerith Gardiner

11/09/25


Về hưu ư? Đối với Đức Thánh Cha Lêô XIV là không phải. Khi ngài bước sang tuổi 70, ngài nhắc nhở chúng ta rằng với Thiên Chúa, mỗi giai đoạn cuộc đời đều có thể là khởi đầu của một điều gì đó mới mẻ.

Ngày 14 tháng 9 tới đây, Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ bước sang tuổi 70. Đối với nhiều người, đây là sinh nhật báo hiệu thời gian sống chậm lại, vui hưởng với cháu chắt, và an nhàn nghỉ hưu. Thế nhưng đối với Đức Thánh Cha Lêô, đây lại là một thời điểm trong cuộc đời báo hiệu sứ mạng vĩ đại nhất của ngài – và đòi hỏi nhiều nhất – từ trước tới nay!

Điều này không bất thường như chúng ta vẫn nghĩ. Thực ra, Kinh Thánh đầy dẫy những người thánh thiện đã bắt đầu sứ mạng cuộc đời ở cái tuổi mà nhiều người mong đợi được nghỉ ngơi. Và từ tất cả các câu chuyện của họ, chúng ta học được một bài học tuyệt vời:


Ông Abraham

Vị ngôn sứ đáng kính đã 75 tuổi khi Thiên Chúa yêu cầu ông rời bỏ quê hương để tiến về “miền đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12:4). Bỏ lại sau lưng sự an toàn của mọi thứ quen thuộc, ông Abraham chỉ cậy trông vào lời hứa của Thiên Chúa – và từ bước nhảy vọt của lòng tin ấy, con cháu ông đông đúc như sao trên trời. Câu chuyện của ông nhắc nhở chúng ta rằng lời mời gọi của Thiên Chúa không có giới hạn về tuổi tác, và cuộc đời chúng ta có thể mở ra những phúc lành bất ngờ ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng con đường của mình đã được định sẵn.


Ông Môsê

Sau nhiều thập kỷ sống lưu đày lặng lẽ trong sa mạc để chăn chiên, Thiên Chúa đã gọi vị ngôn sứ Hipri này đối mặt với Pharaô và dẫn đưa dân Israel đến tự do (Xh 7:7). Đó là một sứ mạng to lớn đòi hỏi lòng can đảm, sự kiên trì và một tâm hồn vững vàng. Ở tuổi 80, thay vì là tuổi “quá già”, thì những năm tháng gian khổ và chờ đợi đã chuẩn bị cho Môsê trong vai trò lãnh đạo này. Câu chuyện của ông cho thấy đôi khi Thiên Chúa chờ đợi cho đến khi chúng ta đã đủ dày dạn bởi kinh nghiệm sống trước khi Ngài trao phó cho chúng ta công trình vĩ đại nhất của Ngài.


Ông Simeon

Cũng cần phải nhắc đến câu chuyện của ông Simeon. Ông là một người công chính trong Đền thờ, đã dành cả cuộc đời để chờ đợi Đấng Mêsia (Lc 2:25). Khi tuổi đã già, được Thánh Thần hướng dẫn, ông Simeon ẵm lấy Hài Nhi Giêsu trên tay và biết rằng lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện. Sau nhiều thập kỷ kiên nhẫn tin tưởng, niềm hy vọng sâu sắc nhất của ông đã được thực hiện trong những năm cuối đời. Lời chứng của ông Simeon nói với chúng ta rằng không có năm tháng chờ đợi nào là hoài phí khi chúng ta chờ đợi cùng với Thiên Chúa.

Những nhân vật Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta rằng thời điểm của Thiên Chúa không phải là thời điểm của chúng ta. Đôi khi những lời kêu gọi lớn lao nhất đến vào lúc chúng ta sẵn sàng đáp lại bằng sự khôn ngoan, cái nhìn sâu sắc và một trái tim đã được định hình bởi kinh nghiệm sống.

Đó là lý do tại sao triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Lêô XIV là một dấu chỉ truyền cảm hứng cho thời đại chúng ta. Ở tuổi 70, ngài không bắt đầu chương mới này riêng bằng sức trẻ, nhưng bằng kết quả của cả một đời sống đức tin. Ngài mang trong mình sự kiên nhẫn của Abraham, sự kiên trì của Môsê và niềm hy vọng của Simeon – những phẩm chất mà thế giới hôm nay của chúng ta đang rất cần.

Và có lẽ sinh nhật của ngài có thể là một lời mời gọi cho tất cả chúng ta. Dù chúng ta ở tuổi 30, 50 hay 70, không bao giờ là quá muộn để đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ rằng công việc tốt nhất của mình đã ở phía sau, nhưng Thiên Chúa thấy những khả năng ở phía trước. Với Ngài, mọi độ tuổi đều có thể là tuổi hoàn hảo để bắt đầu lại.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 12/9/2024]


Khảo sát: Những người không nhận mình thuộc tôn giáo nào vẫn tin điều gì đó

Khảo sát: Những người không nhận mình thuộc tôn giáo nào vẫn tin điều gì đó

Khảo sát: Những người không nhận mình thuộc tôn giáo nào vẫn tin điều gì đó

Hasan Hulki Muradi | Shutterstock


Daniel Esparza

10/09/25


Nhiều người thuộc nhóm “không tôn giáo” không hẳn là những người theo chủ nghĩa duy vật kiên định; nhiều người tín hữu cũng có những câu hỏi. Giữa họ là một cánh đồng rộng lớn cho sự kiếm tìm chân thành.

Một báo cáo mới từ Trung tâm Nghiên cứu Pew cho thấy nhiều người trưởng thành tuy khẳng định không theo tôn giáo, nhưng vẫn giữ những niềm tin về tâm linh — dù tỉ lệ này thường ở mức thấp hơn so với những người xác tín vào một đức tin.

Bản nghiên cứu, được công bố vào ngày 4 tháng Chín năm 2025, khảo sát những người trưởng thành không xác định theo tôn giáo nào (“nones”) tại 22 quốc gia và vẽ nên một bức tranh rất đa dạng về niềm tin và việc thực hành. Báo cáo do Jonathan Evans, Kirsten Lesage và Manolo Corichi thực hiện.

Tại tất cả các quốc gia được khảo sát, ít nhất một phần năm số người thuộc nhóm “không tôn giáo” cho biết có sự sống sau khi chết. Tỉ lệ này dao động từ 19% ở Hungary đến 65% ở Peru, với đa số ở bảy quốc gia. Nhiều người cũng nói rằng có “một điều gì đó thuộc tâm linh vượt trên thế giới tự nhiên,” điều này nhấn mạnh rằng không tôn giáo không luôn đồng nghĩa với việc không có niềm tin.

Niềm tin vào Thiên Chúa trong nhóm người không thuộc tôn giáo nào cũng rất khác nhau tùy theo khu vực. Pew ghi nhận tỷ lệ cao hơn ở một số vùng của Châu Mỹ Latinh và Nam Phi, trong khi các số liệu thấp hơn nhiều ở phần lớn Châu Âu và Úc. Tóm lại: ý nghĩa “không tôn giáo” ở São Paulo không đồng nghĩa với “không tôn giáo” ở Stockholm.


Thực hành trong đời sống

Khi nói đến việc thực hành, những người trưởng thành không thuộc tôn giáo nào ít tham gia vào các hoạt động như cầu kinh, thắp nến hoặc đốt hương vì lý do tâm linh hơn so với những người thuộc một tôn giáo, và những người có thực hiện thì chỉ là thỉnh thoảng.

Quan điểm về ảnh hưởng xã hội của tôn giáo cũng có sự khác biệt. Ở nhiều quốc gia, những người “không tôn giáo” có khuynh hướng cho rằng tôn giáo khuyến khích sự cố chấp hoặc mê tín, và họ cũng ít coi trọng việc các nhà lãnh đạo quốc gia cần có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ.

Nghiên cứu này dựa trên các cuộc khảo sát được thực hiện trong giai đoạn 2023–2024 tại 36 quốc gia, nhưng phần phân tích tập trung vào 22 quốc gia nơi mẫu khảo sát nhóm không thuộc tôn giáo nào đủ lớn để có thể báo cáo riêng biệt. Thiết kế này giúp giải thích tại sao kết quả không thể đưa đến một kết luận chung cho tất cả.


Ý nghĩa đối với việc loan báo Tin Mừng

Điều này quan trọng đối với những độc giả có đức tin — và cả với những ai thao thức tìm kiếm ý nghĩa của con người: bức tranh đa chiều hơn nhiều so với cách phân loại đơn giản “có tôn giáo” và “không tôn giáo”.

Truyền thống Công giáo từ lâu đã dạy rằng khát vọng về Thiên Chúa là một phần bản chất con người, được khắc ghi vào bản tính của chúng ta.

Sách Giáo lý viết, “Lòng khao khát Thiên Chúa được ghi khắc trong trái tim con người.” Khát vọng đó có thể tồn tại ngay cả khi sự thuộc về cộng đồng và/hoặc cơ chế bị phai nhạt.

Đối với các cộng đồng đức tin, dữ liệu này gợi mở cơ hội để lắng nghe một cách kiên nhẫn, đối thoại chân thành và làm chứng một cách khiêm nhường, thay vì giữ thái độ đối kháng văn hóa. Đối với độc giả thế tục, đây là lời nhắc nhở rằng những vấn đề tâm linh là điểm chung, không phải là một chiếc bẫy mang tính bè phái.

Nghiên cứu của Pew sẽ không giải quyết được các cuộc tranh luận về niềm tin, nhưng nó làm sáng tỏ các phạm trù. Nhiều người thuộc nhóm “không tôn giáo” không hẳn là những người theo chủ nghĩa duy vật kiên định; nhiều người tín hữu cũng có những câu hỏi. Giữa họ là một cánh đồng rộng lớn cho sự kiếm tìm chân thành. Đó là không gian để xây dựng tình bạn, để sự ham hiểu biết được chào đón và để lương tâm trở thành điều quan trọng.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 11/9/2025]


Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

Tiếp kiến Chung ngày 10.09.2025: Đức Thánh Cha Lêô XIV: “Chúng ta đừng quên những trẻ em đang chịu đau khổ trong các cuộc xung đột”

Đức Thánh Cha Lêô XIV: “Chúng ta đừng quên những trẻ em đang chịu đau khổ trong các cuộc xung đột”

Tiếp kiến Chung ngày 10 tháng Chín năm 2025

Tiếp kiến Chung ngày 10.09.2025: Đức Thánh Cha Lêô XIV: “Chúng ta đừng quên những trẻ em đang chịu đau khổ trong các cuộc xung đột”

*******

Đức Thánh Cha Lêô XIV đã quy tụ hơn 35.000 tín hữu tại Quảng trường Thánh Phêrô vào thứ Tư, ngày 10 tháng Chín, dưới cơn mưa, để tham dự Buổi Tiếp kiến chung ghi dấu bằng sứ điệp hy vọng và tình liên đới.

Trong bài giáo lý, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng mỗi tiếng kêu đau đớn, nếu được phó thác cho Thiên Chúa, thì không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối, mà là một sự can đảm có thể biến đau khổ thành niềm hy vọng. Ngài khẳng định: “Trong những khoảnh khắc im lặng và tăm tối, Thiên Chúa vẫn hiện diện. Mọi nỗi đau đều có thể được biến đổi thành sức mạnh để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn."

Tiếp kiến Chung ngày 10.09.2025: Đức Thánh Cha Lêô XIV: “Chúng ta đừng quên những trẻ em đang chịu đau khổ trong các cuộc xung đột”

Cuối buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha lên tiếng kêu gọi đặc biệt về việc bảo vệ những trẻ em bị ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột vũ trang. Ngài nhắc lại Ngày Quốc gia Thiếu nhi Ba Lan là Nạn nhân Chiến tranh, gợi lại nỗi đau khổ của trẻ em Ba Lan trong Thế chiến II và vai trò của các em trong công cuộc tái thiết đất nước. Ngài cũng thúc giục chúng ta không quên các trẻ em của Ukraine, Gaza và các vùng bị chiến tranh tàn phá khác, đồng thời mời gọi mọi người nhớ các em trong lời cầu nguyện và có những hành động nhân đạo cụ thể.

Thông điệp của Đức Thánh Cha Lêô XIV củng cố sự quan tâm liên tục của ngài đối với bạo lực và xung đột trên thế giới, nhấn mạnh sự cần thiết của tình liên đới, cầu nguyện và cam kết quốc tế để bảo đảm hòa bình và an sinh cho những người dễ bị tổn thương nhất.

_________________________________


ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

TIẾP KIẾN CHUNG

Quảng trường Thánh Phêrô
Thứ Tư, ngày 10 tháng 9, năm 2025

___________________________________

Loạt Bài Giáo lý – Năm Thánh 2025. Đức Giêsu Kitô, Niềm Hy vọng của chúng ta. III. Cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu. 6. Sự Chết. “Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15:37).

Anh chị em thân mến,

Chào anh chị em, cảm ơn anh chị em vì sự hiện diện này: một chứng tá thật đẹp!

Hôm nay, chúng ta cùng chiêm ngắm đỉnh điểm cuộc đời của Đức Giêsu trên dương thế này: cái chết của Người trên thập giá. Các Tin Mừng chứng thực một chi tiết rất quý giá, đáng để chúng ta chiêm niệm với ánh sáng của đức tin. Trên thập giá, Đức Giêsu không chết trong thinh lặng. Người không dần dần tắt lịm, như một ngọn đèn cạn dầu, nhưng Người ra đi bằng một tiếng kêu: “Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15:37). Tiếng kêu ấy bao hàm tất cả: nỗi đau đớn, bị bỏ rơi, lòng tin, sự hiến dâng. Đó không chỉ là tiếng của một thân xác đang ngã gục, mà là dấu hiệu cuối cùng của một cuộc đời được trao phó hoàn toàn.

Tiếng kêu của Chúa Giêsu được báo trước bằng một câu hỏi, một trong những lời đau xót nhất có thể được thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Đây là câu mở đầu Thánh vịnh 22, nhưng trên môi miệng Đức Giêsu, nó mang một sức nặng đặc biệt. Chúa Con, Đấng luôn sống trong sự hiệp thông mật thiết với Chúa Cha, giờ đây trải qua sự im lặng, sự vắng bóng, và vực thẳm. Đây không phải là một cuộc khủng hoảng đức tin, mà là giai đoạn cuối cùng của một tình yêu được trao hiến đến cùng. Tiếng kêu của Chúa Giêsu không phải là sự tuyệt vọng, nhưng là sự chân thật, sự thật được đưa đến giới hạn, một lòng tín thác vẫn tồn tại ngay cả khi tất cả đều chìm trong im lặng.

Lúc ấy, bầu trời tối sầm và tấm màn trong đền thờ bị xé ra (x. Mc 15:33,38). Như thể chính thụ tạo cũng đang dự phần trong nỗi đau đó, đồng thời hé lộ một điều mới mẻ. Thiên Chúa không còn ngự sau bức màn nữa – dung mạo của Người giờ đây được tỏ lộ trọn vẹn nơi Đấng chịu Đóng đinh. Chính ở đó, nơi thân xác tan nát ấy, tình yêu cao vời nhất được biểu lộ. Chính ở đó, chúng ta có thể nhận ra một Thiên Chúa không xa cách, nhưng đã đi vào tận cùng nỗi đau đớn của chúng ta.

Viên đại đội trưởng, một người ngoại giáo, đã hiểu điều đó. Không phải vì anh ta được nghe một bài giảng, nhưng vì anh đã thấy Đức Giêsu chết theo cách ấy: “Quả thật, người này thật là Con Thiên Chúa!” (Mc 15:39). Đây là lời tuyên xưng đức tin đầu tiên sau cái chết của Chúa Giêsu. Đó là hoa trái của một tiếng kêu không tan biến vào hư không, nhưng đã chạm đến một trái tim. Có nhiều lúc, những gì chúng ta không thể nói bằng lời, chúng ta diễn đạt bằng tiếng kêu. Khi trái tim trĩu nặng, nó sẽ bật khóc. Và điều này không luôn luôn là dấu hiệu của sự yếu đuối; nó có thể là một hành động sâu xa của nhân tính.

Chúng ta thường quen với ý nghĩ rằng tiếng kêu la thể hiện sự hỗn loạn, cần phải kìm nén. Tin Mừng lại trao một giá trị vô cùng lớn lao cho tiếng kêu của chúng ta, nhắc nhở chúng ta rằng nó có thể là một lời cầu khẩn, một sự phản kháng, một mong ước, một sự phó thác. Nó thậm chí có thể là hình thức tột đỉnh của lời cầu nguyện, khi không còn lời nào để thốt lên. Trong tiếng kêu ấy, Chúa Giêsu đã dâng tất cả những gì Người còn lại: tất cả tình yêu, tất cả hy vọng của Người.

Đúng vậy, bởi vì trong tiếng kêu này còn có một điều nữa: một niềm hy vọng không cam chịu. Người ta kêu lên khi tin rằng vẫn còn ai đó có thể nghe thấy. Người ta kêu lên không phải vì tuyệt vọng, mà vì khao khát. Đức Giêsu đã không kêu lên chống lại Chúa Cha, nhưng là kêu lên tới Ngài. Ngay cả trong im lặng, Người vẫn tin chắc rằng Chúa Cha đang ở đó. Và như thế, Người đã cho chúng ta thấy rằng niềm hy vọng của chúng ta có thể bật thành tiếng kêu, ngay cả khi tất cả tưởng chừng đã mất.

Do đó, tiếng kêu trở thành một cử chỉ thiêng liêng. Nó không chỉ là hành động đầu tiên khi chúng ta chào đời, khi chúng ta bước vào thế giới bằng tiếng khóc: nó còn là một cách để sống. Người ta kêu lên khi đau khổ, nhưng cũng là khi yêu thương, khi kêu gọi, khi khẩn nài. Tiếng kêu là nói lên con người thật của chúng ta, rằng chúng ta không muốn lịm tắt trong thinh lặng, rằng chúng ta vẫn còn điều gì đó để hiến dâng.

Trên hành trình cuộc sống, có những thời điểm mà việc giữ kín trong lòng điều gì đó có thể dần dần hủy hoại chúng ta. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng sợ kêu lên, miễn là nó chân thành, khiêm hạ, và hướng về Chúa Cha. Một tiếng kêu không bao giờ vô ích, nếu nó phát xuất từ tình yêu. Và nó không bao giờ bị bỏ qua, nếu nó được dâng lên Thiên Chúa. Đó là một cách để không buông xuôi trước sự hoài nghi, để tiếp tục tin rằng một thế giới khác là điều có thể.

Anh chị em thân mến, chúng ta cũng hãy học điều này từ Chúa Giêsu: chúng ta hãy học tiếng kêu của niềm hy vọng khi giờ thử thách tột cùng đến. Không phải để làm tổn thương, nhưng để phó thác bản thân. Không phải để gào thét vào ai đó, nhưng là để mở lòng. Nếu tiếng kêu của chúng ta là chân thật, nó có thể trở thành ngưỡng cửa của một ánh sáng mới, của một sự tái sinh mới. Cũng như với Chúa Giêsu: khi mọi sự dường như đã kết thúc, thì thật ra ơn cứu độ lại bắt đầu. Nếu được biểu lộ với sự tin tưởng và tự do của con cái Thiên Chúa, thì tiếng kêu đau khổ của nhân loại chúng ta, kết hợp với tiếng kêu của Đức Kitô, có thể trở thành nguồn mạch hy vọng cho chúng ta và cho những người xung quanh.

__________________________________

Lời chào:

Tôi vui mừng gửi lời chào những anh chị em hành hương và du khách nói tiếng Anh hiện diện sáng nay, đặc biệt là những người đến từ Anh quốc, Ireland, Scotland, Đan Mạch, Malta, Na Uy, Uganda, Ấn Độ, Indonesia, Israel, Malaysia, Singapore, Canada, Dominica và Hoa Kỳ. Với những lời nguyện chúc tốt lành, mong rằng Năm Thánh của niềm Hy vọng hiện tại sẽ là thời gian ân sủng và canh tân thiêng liêng cho anh chị em và gia đình. Tôi khẩn xin niềm vui và sự bình an của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tuôn đổ xuống trên anh chị em.


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 11/9/2025]


Có bao nhiêu người hành hương đã đi qua Cửa Thánh tại Vatican? Con số sẽ khiến bạn bất ngờ

Có bao nhiêu người hành hương đã đi qua Cửa Thánh tại Vatican? Con số sẽ khiến bạn bất ngờ
Những dòng người hành hương vô cùng đa dạng Photo: Iubilaeum2025

Có bao nhiêu người hành hương đã đi qua Cửa Thánh tại Vatican? Con số sẽ khiến bạn bất ngờ

Ngoài ý nghĩa thiêng liêng, Năm Thánh cũng làm thay đổi đời sống của Rome. Trên các tuyến đường hành hương, những bài thánh ca và lời kinh vang lên sống động; các giáo xứ và cộng đoàn dòng tu trong thành phố đang rộng mở đón khách; và các thiện nguyện viên làm việc không mệt mỏi để đồng hành với khách hành hương.

06 THÁNG CHÍN, 2025 19:39

ZENIT STAFF


(ZENIT News / Roma, 06.09.2025). - Sau tám tháng Năm Thánh của niềm Hy vọng, Rome đã đón 24 triệu tín hữu hành hương, biến Thành đô Vĩnh cửu thành trái tim sống động của lòng sùng mộ và sự canh tân của người Công giáo. Những con số này, được Bộ Loan báo Tin mừng công bố, xác nhận những gì các vị hữu trách của Giáo hội đã dự đoán từ đầu năm: thành phố sẽ trở thành một điểm gặp gỡ của đức tin, thu hút hơn 32 triệu khách hành hương trước khi các cử hành kết thúc.

Năm Thánh được khai mạc vào đêm Giáng Sinh năm 2024, khi Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một cử chỉ trọng đại của phụng vụ sau cùng trước khi ngài qua đời, đã mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô. Hành động mang tính biểu tượng này, bắt nguồn từ truyền thống hàng thế kỷ, khởi động một cuộc hành hương kéo dài suốt năm, được ghi dấu bằng cầu nguyện, thống hối và những buổi quy tụ phi thường. Chỉ trong hai tuần đầu tiên, nửa triệu tín hữu hành hương đã đổ về Rome – một dấu hiệu ban đầu cho thấy sức phát triển lan tỏa suốt mùa hè.

Điều làm cho Năm Thánh này trở nên nổi bật không chỉ ở quy mô tham dự mà còn là sự đa dạng. Những dòng người hành hương hết sức đa dạng: các ký giả và chuyên gia truyền thông, lực lượng cảnh sát, vận động viên, các phó tế, bệnh nhân, thiện nguyện viên, người khuyết tật, những người Công giáo có ảnh hưởng trên mạng, và hơn một triệu bạn trẻ đã hành hương về mộ của các Thánh Tông đồ. Năm Thánh trở thành một khung cảnh, nơi mọi ơn gọi và hoàn cảnh sống đều tìm thấy vị trí của mình.

Các buổi cử hành sắp tới cho thấy sự sáng tạo mục vụ trong việc tổ chức Năm Thánh. Vào ngày 15 tháng Chín, Vatican sẽ tổ chức Năm Thánh An ủi, dành cho những người đau khổ – do bệnh tật, tang chế, bạo lực hoặc lạm dụng – cùng với gia đình và bạn hữu của họ. Ít ngày sau, vào ngày 20 tháng Chín, các thẩm phán và giới luật gia sẽ quy tụ trong Năm Thánh của các Nhà Quản trị Công lý, tiếp theo là Năm Thánh Giáo lý viên vào cuối tháng. Mỗi buổi quy tụ đều phản ánh nỗ lực kết nối đức tin với thực tế cuộc sống con người, dệt nên nhịp điệu phụng vụ của Giáo hội vào trong kết cấu xã hội của thế giới.

Ngoài ý nghĩa thiêng liêng, Năm Thánh cũng làm thay đổi đời sống của Rome. Trên các tuyến đường hành hương, những bài thánh ca và lời kinh vang lên sống động; các giáo xứ và cộng đoàn dòng tu trong thành phố đang rộng mở đón khách; và các thiện nguyện viên làm việc không mệt mỏi để đồng hành với khách hành hương. Làn sóng người đổ về không chỉ mang lại nguồn năng lượng thiêng liêng mà còn cả những thách đố về hậu cần, khi các mạng lưới giao thông, lực lượng an ninh và cộng đồng địa phương nỗ lực đáp ứng dòng người không ngừng đổ về.

Năm Thánh dự kiến sẽ bế mạc ngày 6 tháng Một năm 2026, khi Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ long trọng đóng Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô, khép lại hành trình ân sủng đã bắt đầu dưới thời vị tiền nhiệm của ngài. Cho đến lúc đó, nhiều Năm Thánh quan trọng vẫn còn trên lịch trình, bao gồm các cuộc quy tụ cho di dân, các nhà truyền giáo, nam nữ tu sĩ, người nghèo, và tù nhân – mỗi sự kiện đều làm nổi bật một khía cạnh khác nhau trong sứ mạng của Giáo hội.

Đối với Rome, Năm Thánh này không chỉ là một sự kiện; nhưng là một cuộc hành hương sống động, tiếp tục thu hút mọi người từ khắp nơi trên thế giới đến để gặp gỡ không chỉ một thành phố, mà còn là một truyền thống kéo dài qua nhiều thế kỷ. Hai mươi bốn triệu hành trình đã minh chứng cho sức hút bền bỉ ấy. Và khi người hành hương cuối cùng bước qua Cửa Thánh, Năm Thánh Hy vọng có thể sẽ nằm trong số những chương đáng nhớ nhất của lịch sử Giáo hội hiện đại.


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 11/9/2025]


Tiếp Kiến Chung, ngày 3.09.2025: “Tôi khát”: Tiếng kêu thầm lặng của Tình yêu Chúa Giêsu trên Thánh giá

“Tôi khát”: Tiếng kêu thầm lặng của Tình yêu Chúa Giêsu trên Thánh giá

Tiếp Kiến Chung, ngày 3 tháng Chín năm 2025

Tiếp Kiến Chung, ngày 3.09.2025: “Tôi khát”: Tiếng kêu thầm lặng của Tình yêu Chúa Giêsu trên Thánh giá

*******

Trong bài giáo lý tại Buổi tiếp kiến chung thứ Tư (ND: 3/9/2025), Đức Thánh Cha Lêô XIV đã đào sâu những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên Thánh giá: “Tôi khát” và “Thế là đã hoàn tất” theo Tin Mừng Thánh Gioan. Những lời này, được thốt ra vào khoảnh khắc vừa huy hoàng nhất vừa tăm tối nhất của nhân loại, đã gói trọn cả cuộc đời và mạc khải chính bản chất của Con Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng, trên Thập Giá, Chúa Giêsu không xuất hiện như một vị anh hùng khải hoàn, nhưng là một “người cầu xin tình yêu.” Với lòng khiêm nhường, Người xin điều mà chính Người không thể tự mình trao tặng: “Người để cho mình bị chế ngự bởi cơn khát này, không chỉ là cơn khát thể lý mà còn là cơn khát tinh thần: khát tình yêu, khát sự hiệp thông, khát tương quan.” Đức Thánh Cha giải thích rằng cơn khát ấy chính là “tiếng khóc thầm lặng của một Thiên Chúa, khi đã hoàn toàn chia sẻ thân phận con người của chúng ta, cũng để cho cơn khát ấy chế ngự mình.”


Một Thiên Chúa cũng cầu xin chứ không chỉ cho đi

Cơn khát của Chúa Giêsu trên Thánh giá không chỉ là hệ quả của sự đau khổ về thể xác, mà còn biểu lộ sâu xa lòng khao khát của Người muốn kết nối với nhân loại. Đức Thánh Cha khẳng định: “Thiên Chúa của chúng ta không xấu hổ khi xin một ngụm nước, vì qua cử chỉ ấy, Người dạy chúng ta rằng tình yêu đích thực cũng biết học cách cầu xin, chứ không chỉ cho đi.” Khi đón nhận miếng bọt biển tẩm giấm, Chúa Giêsu thốt lên: “Thế là đã hoàn tất,” cho thấy rằng “tình yêu đã tự làm cho mình cần đến người khác, và chính vì thế mà tình yêu đã hoàn tất công trình của mình.”


Nghịch lý Kitô giáo: Sức mạnh trong sự yếu đuối

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng ơn cứu độ không đến nhờ sự tự chủ hay sức mạnh, nhưng nhờ khiêm nhường nhìn nhận sự thiếu thốn của mình: “Thiên Chúa cứu độ không bằng cách hành động, nhưng bằng cách để cho chính bản thân hành động. Không phải bằng cách đánh bại sự dữ với sức mạnh, nhưng bằng cách chấp nhận sự yếu đuối của tình yêu cho đến tận cùng.” Ngài nói thêm, tự do đích thực được tìm thấy trong việc “biết cách cầu xin mà không sợ hãi, bởi đó là con đường thoát khỏi việc che giấu của tội lỗi và trở về không gian hiệp thông.”

Tiếp Kiến Chung, ngày 3.09.2025: “Tôi khát”: Tiếng kêu thầm lặng của Tình yêu Chúa Giêsu trên Thánh giá

Cơn khát của Chúa Giêsu, sự phản chiếu của nhân loại bị tổn thương

Trong bài suy niệm, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy nhận ra trong cơn khát của Chúa Giêsu chính là tiếng khóc của toàn thể nhân loại bị thương tích, khao khát “nước hằng sống” và tìm thấy câu trả lời nơi Người. Ngài nói, “Chúa Giêsu cứu chúng ta bằng cách cho thấy rằng việc cầu xin không phải là hèn kém, nhưng là giải thoát. Đó là con đường vượt qua sự xấu hổ của tội lỗi và mở lòng chúng ta đón nhận ơn tha thứ, vốn được khai mở khi chúng ta đối diện với sự thiếu thốn của mình mà không sợ bị từ chối.”


Lời kêu gọi sống tình huynh đệ và đơn sơ

Cuối cùng, Đức Thánh Cha động viên các Kitô hữu tìm thấy niềm vui trong tình huynh đệ, trong đời sống đơn sơ, và trong “nghệ thuật biết xin mà không xấu hổ và cho đi không toan tính”. Ngài kết luận: “Chúng ta đừng sợ cầu xin, ngay cả khi nghĩ rằng mình bất xứng. Chúng ta đừng xấu hổ khi giơ tay ra. Chính ở đó, trong cử chỉ khiêm tốn ấy, ẩn chứa ơn cứu độ.”

Dưới đây là toàn văn bài Giáo lý của Đức Thánh Cha:

_____________________________


Loạt bài Giáo lý – Năm Thánh 2025. Chúa Giêsu Kitô, Niềm Hy vọng của chúng ta. III. Vượt qua của Chúa Giêsu. 5. Sự đóng đinh. “Tôi khát” (Ga 19:28)

Anh chị em thân mến,

Trung tâm của trình thuật về cuộc Thương Khó, trong giây phút vừa huy hoàng vừa tăm tối nhất của cuộc đời Chúa Giêsu, Tin Mừng Gioan ghi lại hai tiếng chất chứa một mầu nhiệm bao la: “Tôi khát” (Ga 19:28), và liền sau đó là: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19:30). Đó là những lời cuối cùng của Chúa, nhưng lại chứa đựng cả một đời sống, mạc khải toàn bộ ý nghĩa sự hiện hữu của Con Thiên Chúa. Trên Thập Giá, Chúa Giêsu không xuất hiện như một vị anh hùng khải hoàn, nhưng như một người cầu xin tình yêu. Người không tuyên bố, không kết án, cũng không tự vệ. Người khiêm nhường xin điều mà chính Người, tự bản thân, không thể trao tặng cho Người dưới bất kỳ hình thức nào.

Cơn khát của Đấng chịu Đóng đinh không chỉ là nhu cầu thể lý của một thân xác bị tra tấn. Trên hết, đó còn là sự biểu lộ của một khát khao sâu thẳm: khao khát tình yêu, khao khát mối tương quan, khao khát hiệp thông. Đó là tiếng kêu thầm lặng của một Thiên Chúa, khi đã hoàn toàn chia sẻ thân phận con người của chúng ta, cũng để cho cơn khát ấy chế ngự mình. Một Thiên Chúa không xấu hổ khi xin một ngụm nước, vì qua cử chỉ ấy, Người dạy chúng ta rằng tình yêu đích thực cũng biết học cách cầu xin, chứ không chỉ cho đi.

Chúa Giêsu nói, “Tôi khát”, và bằng cách ấy, Người bày tỏ nhân tính của Người cũng như của chúng ta. Không ai trong chúng ta tự mình có tất cả mà không cần đến ai. Không ai có thể tự cứu mình. Cuộc sống “được hoàn tất” không phải khi chúng ta mạnh mẽ, nhưng là khi chúng ta học cách đón nhận. Chính vào lúc ấy, sau khi nhận được từ bàn tay xa lạ một miếng bọt biển tẩm giấm, Chúa Giêsu tuyên bố: “Thế là đã hoàn tất.” Tình yêu đã tự làm cho mình cần đến người khác, và chính vì thế mà tình yêu đã hoàn tất công trình của mình.

Đó là nghịch lý Kitô giáo: Thiên Chúa cứu độ không bằng cách hành động, nhưng bằng cách để cho chính bản thân hành động. Không phải bằng cách đánh bại sự dữ bằng sức mạnh, nhưng bằng cách chấp nhận sự yếu đuối của tình yêu cho đến cùng. Trên Thập giá, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng con người không đạt tới sự viên mãn bằng quyền lực, nhưng bằng sự mở lòng tin tưởng tha nhân, ngay cả khi họ là kẻ thù địch. Ơn cứu độ không nằm trong sự tự lập, nhưng trong việc khiêm nhường nhìn nhận sự thiếu thốn của mình và khả năng diễn tả nó cách tự do.

Sự trọn vẹn của nhân tính chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa không phải là một hành động của sức mạnh, mà là một cử chỉ của lòng tín thác. Chúa Giêsu không cứu độ bằng một bước ngoặt kịch tính, nhưng bằng cách xin một điều mà Người không thể tự trao cho mình. Và chính tại đây cánh cửa của niềm hy vọng đích thực được mở ra: nếu ngay cả Con Thiên Chúa cũng không chọn cách tự mình có tất cả, thì cơn khát của chúng ta – khát tình yêu, khát ý nghĩa, khát công lý – không phải là dấu hiệu của sự thất bại, nhưng là dấu chỉ của sự thật. Sự thật này, tuy đơn giản, lại khó được chấp nhận. Chúng ta sống trong một thời đại tôn vinh sự tự lực một mình, hiệu quả, thành tích. Thế nhưng Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng thước đo nhân tính không được xác định bởi những gì chúng ta đạt được, nhưng bởi khả năng để cho mình được yêu thương, và khi cần, được giúp đỡ.

Chúa Giêsu cứu chúng ta bằng cách cho thấy rằng việc cầu xin không phải là hèn kém, nhưng là giải thoát. Đó là con đường vượt qua sự xấu hổ của tội lỗi để tái nhập vào không gian của sự hiệp thông. Ngay từ khởi đầu, tội lỗi đã sinh ra sự xấu hổ. Nhưng ơn tha thứ – ơn tha thứ đích thực – được khai mở khi chúng ta đối diện với sự thiếu thốn của mình mà không sợ bị từ chối.

Cơn khát của Chúa Giêsu trên Thánh Giá cũng là cơn khát của chúng ta. Đó là tiếng kêu của một nhân loại bị tổn thương đang tìm kiếm nước hằng sống. Và cơn khát này không làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, nhưng trái lại, kết hợp chúng ta với Người. Nếu chúng ta có can đảm nhìn nhận, chúng ta có thể khám phá ra rằng ngay cả sự mỏng giòn của mình cũng là chiếc cầu dẫn về thiên đàng. Chính trong việc cầu xin – chứ không phải trong việc chiếm hữu – mà một con đường tự do được khai mở, bởi vì chúng ta không còn tỏ vẻ tự lực một mình trong mọi sự.

Trong tình huynh đệ, trong đời sống đơn sơ, trong nghệ thuật cầu xin không xấu hổ và biết cho đi không toan tính, một niềm vui được khai sinh mà thế gian không biết đến. Một niềm vui phục hồi cho chúng ta về sự thật nguyên thủy của bản thể: chúng ta là thụ tạo được tạo dựng để yêu thương và đón nhận tình yêu.

Anh chị em thân mến, trong cơn khát của Đức Kitô, chúng ta có thể nhận ra tất cả những cơn khát của bản thân. Và chúng ta học được rằng không có gì nhân bản hơn, cũng không có gì thiêng liêng hơn, bằng việc có thể nói: Tôi cần. Chúng ta đừng sợ cầu xin, nhất là khi nghĩ rằng mình bất xứng. Chúng ta đừng xấu hổ khi giơ tay ra. Chính ở đó, trong cử chỉ khiêm tốn ấy, ẩn chứa ơn cứu độ.

________________________________


LỜI KÊU GỌI

Những tin tức bi thảm đang đến từ Sudan, đặc biệt là tại Darfur. Tại El Fasher, nhiều thường dân bị mắc kẹt trong thành phố, trở thành nạn nhân của nạn đói và bạo lực. Ở Tarasin, một trận lở đất kinh hoàng đã cướp đi nhiều sinh mạng, để lại sự đau thương và tuyệt vọng. Và vẫn chưa hết, bệnh tả đang lan rộng, đe dọa hàng trăm ngàn người vốn đã bị khốn khổ. Tôi gần gũi hơn bao giờ hết với người dân Sudan, đặc biệt là với các gia đình, trẻ em và những người phải di tản. Tôi cầu nguyện cho tất cả các nạn nhân. Tôi tha thiết kêu gọi các nhà lãnh đạo và cộng đồng quốc tế bảo đảm các hành lang nhân đạo và phối hợp phản ứng để ngăn chặn thảm họa nhân đạo này. Đã đến lúc phải khởi sự một cuộc đối thoại nghiêm túc, chân thành và bao gồm mọi phía để chấm dứt xung đột, khôi phục niềm hy vọng, phẩm giá và hòa bình cho dân tộc Sudan.

____________________________________________________


Lời chào đặc biệt:

Tôi xin chào tất cả anh chị em hành hương và khách tham quan nói tiếng Anh tham dự Buổi Tiếp kiến hôm nay, đặc biệt là các đoàn đến từ Anh quốc, Scotland, Ireland, Bắc Ireland, Áo, Đan Mạch, Malta, Hà Lan, Thụy Sĩ, Cameroon, Úc, Hồng Kông, Indonesia, Nhật Bản, Philippines, Việt Nam và Hoa Kỳ.

Tôi xin tất cả anh chị em cùng hiệp ý cầu nguyện cho những người bị ảnh hưởng bởi các trận lở đất gần đây tại dãy núi Marra ở Sudan. Chúng ta cùng khẩn cầu Thiên Chúa Toàn năng ban bình an vĩnh cửu cho những người đã qua đời, và ban sự an ủi cùng sức mạnh cho những người thân yêu của họ. Ngay cả giữa những bi kịch như vậy, ước mong chúng ta không bao giờ đánh mất niềm hy vọng nơi tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Tôi khẩn xin muôn phúc lành của Thiên Chúa Toàn năng xuống trên tất cả anh chị em và gia đình.



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 4/9/2025]


Thứ Hai, 8 tháng 9, 2025

Toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV trong Thánh lễ tuyên phong hiển thánh Acutis–Frassati

Toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV trong Thánh lễ tuyên phong hiển thánh Acutis–Frassati

Toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV trong Thánh lễ tuyên phong hiển thánh Acutis–Frassati

Antoine Mekary | ALETEIA


Daniel Esparza

07/09/25


Đức Thánh Cha đã có một bài giảng đặc biệt hướng đến giới trẻ, giới thiệu hai vị tân hiển thánh như những mẫu gương dẫn lối cho việc nên thánh trong đời thường.

Ngày 7 tháng Chín năm 2025, Quảng trường Thánh Phêrô chật kín với hàng chục ngàn tín hữu tham dự Thánh lễ tuyên phong thánh đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Lêô XIV: Chân phước Pier Giorgio Frassati (1901–1925) và Chân phước Carlo Acutis (1991–2006). Trong Lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã giảng một bài giảng đặc biệt dành cho giới trẻ, trình bày hai vị tân hiển thánh như những người hướng dẫn chúng ta sống nên thánh trong đời thường — được bén rễ trong Bí tích Thánh Thể, trong tình bằng hữu với người nghèo, và trong những lựa chọn hằng ngày luôn hướng đến “những điều cao thượng hơn.”

Dưới đây là toàn văn bài giảng được Đức Thánh Cha công bố trong Thánh lễ phong thánh.
__________________________

Toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV

Anh chị em thân mến,

Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe thấy một câu hỏi: “Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh?” (Kn 9:17). Câu hỏi này vang lên sau khi hai Chân Phước trẻ tuổi là Pier Giorgio Frassati và Carlo Acutis vừa được tuyên phong hiển thánh, và đây thật là sự quan phòng bởi vì trong Sách Khôn Ngoan, câu hỏi này là của một người trẻ tuổi như các ngài: Vua Salômôn. Sau khi vua Đavít, thân phụ của ông qua đời, ông nhận thấy rằng mình có rất nhiều thứ: quyền lực, sự giàu có, sức khỏe, tuổi trẻ, sắc đẹp và cả một vương quốc. Chính sự dư dật tài nguyên này đã khơi dậy trong lòng ông một câu hỏi: “Tôi phải làm gì để không đánh mất bất cứ điều gì?” Salômôn hiểu rằng cách duy nhất để tìm được câu trả lời là xin Thiên Chúa ban một ơn lớn lao hơn nữa, đó là ơn khôn ngoan, để ông có thể nhận biết chương trình của Thiên Chúa và trung tín tuân giữ. Thật vậy, ông nhận ra rằng chỉ bằng cách này thì mọi sự mới tìm được chỗ đứng của nó trong chương trình vĩ đại của Thiên Chúa. Vâng, bởi vì rủi ro lớn nhất trong đời là hoài phí cuộc đời ngoài chương trình của Thiên Chúa.

Trong Tin Mừng, chính Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta về một chương trình mà chúng ta phải hết lòng dấn thân. Người nói: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14:27); và một lần nữa: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (c. 33).

Người kêu gọi chúng ta không chần chừ, nhưng dấn thân vào cuộc phiêu lưu mà Người ban tặng, với trí tuệ và sức mạnh đến từ Thần Khí của Người, sức mạnh mà chúng ta có thể đón nhận đến mức chúng ta biết tự loại bỏ những điều và những ý nghĩ mà chúng ta đã quá gắn bó, để lắng nghe lời của Người.

Toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV trong Thánh lễ tuyên phong hiển thánh Acutis–Frassati


Qua nhiều thế kỷ, đã có biết bao người trẻ phải đối diện với ngã rẽ này trong đời. Hãy nghĩ đến thánh Phanxicô Assisi: giống như Salômôn, ngài cũng còn trẻ và giàu có, khao khát vinh quang và danh vọng. Đó là lý do tại sao ngài ra chiến trận, hy vọng được phong tước hiệp sĩ và nhận được vinh dự. Nhưng Chúa Giêsu đã hiện ra với ngài trên đường và mời gọi ngài suy nghĩ về những gì đang làm. Khi hồi tâm, ngài đã hỏi Thiên Chúa một câu hỏi đơn sơ: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” (Truyền thuyết Ba Người Bạn, chương II: Fonti Francescane, 1401).

Từ đó, ngài đã đổi hướng cuộc đời và bắt đầu viết nên một câu chuyện khác: câu chuyện tuyệt vời về sự nên thánh mà tất cả chúng ta đều biết, ngài từ bỏ tất cả để theo Chúa (x. Lc 14:33), sống khó nghèo và yêu thương anh chị em của mình, đặc biệt là những người yếu đuối và bé mọn nhất, hơn cả vàng bạc và những tấm lụa quý giá của phụ thân ngài

Chúng ta có thể kể ra biết bao vị thánh khác cũng tương tự như thế! Đôi khi chúng ta phác họa các ngài như những vĩ nhân, mà quên rằng đối với họ, mọi sự bắt đầu khi còn trẻ, họ đã thưa “xin vâng” với Thiên Chúa và hiến dâng trọn vẹn cho Người, không giữ lại bất cứ điều gì cho riêng mình.

Thánh Augustinô kể lại rằng, trong “nút thắt quanh co và rối ren” của cuộc đời, một tiếng nói từ sâu thẳm bên trong cất lên: “Ta muốn con” (Confessions, II, 10,18). Thiên Chúa đã trao cho ngài một hướng đi mới, một con đường mới, một lý do mới, trong đó không có gì của cuộc đời ngài bị lãng phí. Trong bối cảnh này, hôm nay chúng ta nhìn đến Thánh Pier Giorgio Frassati và Thánh Carlo Acutis: một người thanh niên từ đầu thế kỷ 20 và một thiếu niên trong thời đại chúng ta, cả hai đều yêu mến Chúa Giêsu và sẵn sàng dâng hiến mọi sự cho Người.

Pier Giorgio đã gặp gỡ Chúa qua các nhóm ở trường học và giáo xứ – Công giáo Tiến hành, Hội Thánh Vinh Sơn, FUCI (Liên đoàn Sinh viên Công giáo Ý), Dòng Ba Đaminh – và ngài đã làm chứng cho Thiên Chúa bằng niềm vui sống và là một Kitô hữu trong việc cầu nguyện, tình bạn và bác ái. Điều này rõ ràng đến mức khi thấy ngài đi trên các con phố ở Turin với những chiếc xe hàng chất đầy đồ dùng cho người nghèo, bạn bè của ngài đã đổi tên ngài thành “Frassati Impresa Trasporti” (Công ty Vận tải Frassati)! Cho đến hôm nay, cuộc đời của Thánh Pier Giorgio vẫn là một ngọn hải đăng cho linh đạo giáo dân. Đối với ngài, đức tin không phải là một sự sùng kính riêng tư, nhưng được thúc đẩy bởi sức mạnh của Tin Mừng và vai trò thành viên trong các hội đoàn giáo hội. Ngài cũng dấn thân cách quảng đại cho xã hội, đóng góp vào đời sống chính trị và hết lòng phục vụ người nghèo một cách nhiệt thành.

Về phần Carlo, ngài gặp gỡ Chúa Giêsu trong gia đình, nhờ cha mẹ là ông Andrea và bà Antonia – hôm nay ông bà cũng hiện diện ở đây cùng với hai anh chị em của ngài là Francesca và Michele – rồi ở trường học, và nhất là trong các bí tích được cử hành tại cộng đoàn giáo xứ. Ngài lớn lên trong sự kết hợp hài hòa tự nhiên giữa cầu nguyện, thể thao, học tập và bác ái trong những ngày khi còn là một cậu bé và một thiếu niên.

Cả Pier Giorgio và Carlo đều vun trồng tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho anh chị em của mình qua những hành động đơn giản, mà ai cũng có thể thực hiện được: Thánh Lễ hằng ngày, cầu nguyện, và đặc biệt là Chầu Thánh Thể.

Carlo thường nói: “Đứng trước mặt trời, bạn sẽ bị rám nắng. Đứng trước Thánh Thể, bạn sẽ được nên thánh!” Và một lần khác: “Buồn sầu là khi bạn nhìn vào chính mình; hạnh phúc là khi bạn nhìn vào Thiên Chúa. Hoán cải không gì khác hơn là chuyển ánh mắt từ dưới lên trên; chỉ cần một chuyển động đơn giản của mắt là đủ.” Một thực hành thiết yếu khác đối với các ngài là xưng tội thường xuyên. Carlo đã viết: “Điều duy nhất chúng ta thực sự phải sợ là tội lỗi;” và ngài ngạc nhiên vì – theo lời của ngài – “người ta quá bận tâm đến vẻ đẹp của thân xác mà chẳng quan tâm đến vẻ đẹp của linh hồn.” Cuối cùng, cả hai đều có lòng sùng kính lớn đối với các thánh và Đức Trinh Nữ Maria, và các ngài đã thực hành đức ái cách quảng đại. Pier Giorgio nói: “Chung quanh người nghèo và người bệnh, tôi thấy một thứ ánh sáng mà chúng ta không có” (Nicola Gori, Al prezzo della vita: L’Osservatore romano, ngày 11 tháng 2 năm 2021). Ngài gọi bác ái là “nền tảng của tôn giáo chúng ta” và, giống như Carlo, ngài đã thực hành nó qua những cử chỉ nhỏ bé, cụ thể, thường là âm thầm, sống điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là “sự thánh thiện được tìm thấy ở ngay những người hàng xóm của chúng ta” (Tông huấn Gaudete et Exsultate, 7).

Ngay cả khi bệnh tật ập đến và cắt ngắn cuộc đời trẻ tuổi của các ngài, thì điều ấy cũng không cản các ngài yêu mến, dâng hiến bản thân cho Thiên Chúa, chúc tụng Chúa và cầu nguyện với Ngài cho mình và cho mọi người. Một ngày kia Pier Giorgio nói: “Ngày tôi qua đời sẽ là ngày đẹp nhất trong đời tôi” (Irene Funghi, I giovani assieme a Frassati: un compagno nei nostri cammini tortuosi: Avvenire, ngày 2 tháng 8 năm 2025). Trong tấm ảnh cuối cùng, chụp cảnh ngài đang leo núi tại Val di Lanzo, với gương mặt đang hướng về đích, ngài viết: “Hướng lên cao” (Ibid). Còn Carlo, người thậm chí còn trẻ hơn Pier Giorgio, thường nói rằng thiên đàng luôn chờ đợi chúng ta, và rằng yêu thương ngày mai là dâng hiến những hoa trái tốt đẹp nhất của chúng ta ngay hôm nay.

Các bạn thân mến, Thánh Pier Giorgio Frassati và Thánh Carlo Acutis là một lời mời gọi cho tất cả chúng ta, đặc biệt là các bạn trẻ, đừng lãng phí cuộc đời mình, nhưng hãy hướng nó lên cao và làm cho nó trở thành một kiệt tác.

Các ngài khuyến khích chúng ta bằng những lời của mình: “Không phải tôi, mà là Thiên Chúa,” như Carlo thường nói. Và Pier Giorgio: “Nếu bạn đặt Thiên Chúa ở trung tâm của mọi hành động, thì bạn sẽ đạt đến đích.” Đây là công thức đơn giản nhưng giúp đạt được sự nên thánh của các ngài. Đó cũng là chứng tá mà chúng ta được mời gọi bước theo, để tận hưởng cuộc sống một cách trọn vẹn và gặp gỡ Chúa trong bàn tiệc Nước Trời.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 7/9/2025]


Thứ Ba, 2 tháng 9, 2025

Tạp chí Time vinh danh Đức Thánh Cha Lêô là tiếng nói về đạo đức trí tuệ nhân tạo

Tạp chí Time vinh danh Đức Thánh Cha Lêô là tiếng nói về đạo đức trí tuệ nhân tạo

Tạp chí Time vinh danh Đức Thánh Cha Lêô là tiếng nói về đạo đức trí tuệ nhân tạo

Tada Images | Shutterstock


Daniel Esparza

01/09/25


Khi Tạp chí Time ghi nhận và đưa ngài vào danh sách AI của họ, tiếng nói của Đức Giáo hoàng đã đem lại một đối trọng bất ngờ cho cuộc đối thoại toàn cầu về công nghệ.

Khi tạp chí Time công bố danh sách những người có ảnh hưởng nhất thế giới về trí tuệ nhân tạo (AI) năm 2025, một cái tên đã gây bất ngờ cho nhiều người ngoài Công giáo: Đức Thánh Cha Lêô XIV.

Danh sách này của Time bao gồm bốn nhóm: “nhà lãnh đạo”, “nhà đổi mới”, “người định hình” và “nhà tư tưởng”. Đức Thánh Cha Lêô được xếp vào nhóm “nhà tư tưởng”, cùng với các nhà khoa học hàng đầu của Google và OpenAI.

Đức Tân Giáo hoàng, tên khai sinh là Robert Francis Prevost, đã được bầu vào tháng Năm và chọn tước hiệu Giáo hoàng như một sự gợi nhắc có chủ ý đến Đức Giáo hoàng Lêô XIII, người đã dẫn dắt Giáo hội trong thời kỳ Cách mạng Công nghiệp. Cũng như vị tiền nhiệm đã đề cập đến các biến động xã hội của thời đại ngài trong thông điệp Rerum Novarum năm 1891, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã cho thấy ý định hướng dẫn Giáo hội vượt qua những thách đố về đạo đức và kinh tế trong kỷ nguyên kỹ thuật số.

Trong bài diễn văn quan trọng đầu tiên sau khi được bầu chọn, Đức Lêô XIV đã cảnh báo rằng trí tuệ nhân tạo chính là một cuộc “cách mạng công nghiệp mới”. Ngài nhấn mạnh rằng sự phát triển của nó không bao giờ được phép làm tổn hại đến “phẩm giá con người, công lý và lao động.”

Tạp chí Time nhận định, cách diễn đạt này của ngài vang vọng lại sự bảo vệ những người lao động thế kỷ 19 trước các hệ thống đã biến họ thành món hàng hóa. Vị Tân Giáo hoàng dường như quyết tâm bảo đảm rằng lịch sử sẽ không lặp lại với những loại máy móc khác.

Đức Lêô XIII và Lêô XIV

Sự so sánh này là xác đáng. Khi thông điệp Rerum Novarum được công bố vào năm 1891, các nhà máy và ngành đường sắt đã định hình lại nền kinh tế với cái giá phải trả rất lớn về con người. Đức Thánh Cha Lêô XIII khẳng định rằng lao động không phải là một chức năng có thể vứt bỏ, mà là một phần cốt lõi của sự phát triển con người. Lời kêu gọi của ngài về mức lương công bằng, điều kiện an toàn và tình liên đới đã giúp hình thành học thuyết xã hội Công giáo cho thời hiện đại.

Ngày nay, Đức Thánh Cha Lêô XIV dường như đã sẵn sàng để lập luận rằng AI, dù hứa hẹn nhiều lợi ích lớn, vẫn có nguy cơ gây ra sự phi nhân hóa (dehumanization) tương tự nếu không được kiểm soát.

Vào tháng Sáu, Tòa Thánh đã tổ chức một hội nghị toàn cầu về trí tuệ nhân tạo, đạo đức và quản trị, trong đó Đức Thánh Cha ca ngợi tiềm năng của công nghệ trong lãnh vực y tế và khoa học, nhưng cũng bày tỏ mối quan ngại sâu sắc về khả năng bị lạm dụng. Ngài cảnh báo chống lại việc để cho các thuật toán bóp méo hành trình tìm kiếm chân lý của nhân loại, hoặc châm ngòi cho xung đột và gây hấn.

Tiếp nối công cuộc của Đức Thánh Cha Phanxicô

Những nhận định này được xây dựng trên các sáng kiến được khởi sự dưới thời Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã ủng hộ một hiệp ước quốc tế về việc quản lý trí tuệ nhân tạo. Với Đức Lêô XIV, tầm nhìn đó đã có thêm một tính cấp bách mới.

Sự nhất quán của Giáo hội về phẩm giá của lao động vẫn giữ vị trí trung tâm. Khi tự động hóa đang tái định hình các ngành nghề, các câu hỏi về việc tái đào tạo, mức lương công bằng, và sự chia sẻ lợi ích cách công bằng không chỉ là những tranh luận về chính sách, nhưng là những mệnh lệnh đạo đức.

Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “Lao động cho con người, chứ không phải con người cho lao động” (GLGHCG 2428). Theo đó, không một cỗ máy nào – dù tiên tiến đến đâu – được phép làm suy giảm nhân vị, vốn là trung tâm của lao động.

Đức Lêô XIV đem đến một chiều kích cá nhân vào cuộc đấu tranh này. Ngài đã từng nhiều năm phục vụ tại Peru, đặc biệt trong các cộng đồng nông dân và những người lao động với mức lương thấp, nên ngài thấu hiểu sự mong manh của những người thường phải hứng chịu khó khăn nặng nề nhất của những biến động kinh tế. Lăng kính mục vụ này cho thấy sự lãnh đạo của ngài về AI sẽ không phải là một lý thuyết trừu tượng, mà được dựa trên kinh nghiệm nhân sinh cụ thể.

Khi Tạp chí Time ghi nhận và đưa ngài vào danh sách AI của họ, tiếng nói của Đức Giáo hoàng đã đem lại một đối trọng bất ngờ cho cuộc đối thoại toàn cầu về công nghệ: một truyền thống thiêng liêng đánh giá sự tiến bộ không phải bằng lợi nhuận hay quyền lực, mà bằng việc nó có bảo vệ phẩm giá của mỗi con người hay không.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 2/9/2025]