Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

Đây là lý do Đức Thượng Phụ tặng chiếc áo đội Cubs cho Đức Thánh Cha Lêô, người hâm mộ đội Sox

Đây là lý do Đức Thượng Phụ tặng chiếc áo đội Cubs cho Đức Thánh Cha Lêô, người hâm mộ đội Sox

Đây là lý do Đức Thượng Phụ tặng chiếc áo đội Cubs cho Đức Thánh Cha Lêô, người hâm mộ đội Sox

AFP Photo / Vatican Media

Đức Thánh Cha Lêô XIV và Đức Thượng Phụ Mar Awa III chụp ảnh với chiếc áo đội Cubs được thiết kế riêng.


Christine Rousselle

29/10/25



Đức Thượng Phụ Catholicos Mar Awa III của Giáo hội Assyria phương Đông, sinh quán tại Chicago, đã tặng Đức Thánh Cha Lêô XIV một chiếc áo thi đấu của đội bóng chày Cubs được thiết kế riêng như một “món quà.”

Khi những hình ảnh được công bố ngày 27 tháng Mười cho thấy Đức Thánh Cha Lêô XIV cầm chiếc áo của đội Chicago Cubs cùng với Đức Thượng Phụ Mar Awa III, nhiều người tỏ ra bối rối.

Bởi lẽ, Đức Thánh Cha là một người hâm mộ nổi tiếng và trung thành của đội Chicago White Sox, đội bóng khác của Chicago thuộc Major League Baseball (MLB). Và trong bức ảnh kỷ niệm việc trao quà của hai vị, nụ cười của Đức Awa III rõ ràng là rạng rỡ hơn nụ cười của Đức Lêô.

Tờ The New York Times đã lưu ý đến sự “sơ suất” này bằng một bài báo về món quà có tiêu đề: “Một lần nữa: Đức Giáo hoàng thích đội bóng khác của Chicago, không phải đội Cubs.”

Nhưng hóa ra, Đức Thượng Phụ Catholicos Mar Awa III của Giáo hội Assyria phương Đông biết rõ mình đang làm gì. Đức Mar Awa III, tên khai sinh là David Royel, có một điểm chung với Đức Thánh Cha Lêô: cả hai đều xuất thân từ Chicago. Tuy nhiên, khác với Đức Lêô, Đức Awa III đến từ phía bắc Chicago – lãnh thổ của đội Chicago Cubs.

Trong một bài đăng trên Instagram, Đức Awa III xác nhận rằng ngài cố ý tặng chiếc áo của Cubs, “để vinh danh tất cả những người dân ở Bắc Chicago.”

Ngài viết trong bài đăng hôm thứ Hai: “Tôi đã rất vui khi được gặp Đức Giáo hoàng Lêô XIV tại Vatican sáng nay, cùng với phái đoàn gồm các giám mục và linh mục của Giáo hội chúng ta.”

“Rõ ràng, Đức Giáo hoàng rất thích món quà của ngài,” bài đăng viết, kèm theo một biểu tượng mặt cười.

Đây là lý do Đức Thượng Phụ tặng chiếc áo đội Cubs cho Đức Thánh Cha Lêô, người hâm mộ đội Sox

Trên mạng xã hội, nhiều người dùng cho rằng món quà của Đức Awa là một hành động dí dỏm hoàn hảo mà người miền bắc Chicago thường có.

“Là người đứng đầu một Giáo hội, có địa vị tương đương với Giáo hoàng, nhưng Giáo hội của ngài đã tách khỏi Giáo hội Công giáo trong cuộc Ly giáo Nestorius vào thế kỷ thứ 5, và gặp vị Giáo hoàng ‘Chicago’, mà ngài cũng sinh ở Chicago, và làm điều này, quả là một hành động khá thú vị,” một người dùng X (trước đây là Twitter) viết.

Đây là lý do Đức Thượng Phụ tặng chiếc áo đội Cubs cho Đức Thánh Cha Lêô, người hâm mộ đội Sox


“Dù thế nào đi nữa, những vị lãnh đạo Giáo hội này vẫn là những người đến từ miền Nam và miền Bắc,” một người dùng X khác nhận xét, và nói thêm: “Ngài biết rõ mình đang làm gì với món quà là chiếc áo của Cubs.”

Đây là lý do Đức Thượng Phụ tặng chiếc áo đội Cubs cho Đức Thánh Cha Lêô, người hâm mộ đội Sox


Luật sư giáo luật và nhà báo Công giáo Ed Condon, một người hâm mộ trung thành của đội Chicago Cubs, lại có quan điểm khác.

Ông nói: “Chúng tôi sẽ không dừng lại cho đến khi Đức Lêô đội chiếc mũ đó.”

Đây là lý do Đức Thượng Phụ tặng chiếc áo đội Cubs cho Đức Thánh Cha Lêô, người hâm mộ đội Sox


Không chỉ là những chuyện cười về Cubs

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Lêô và Đức Awa là sự tiếp nối của cuộc đối thoại giữa Giáo hội Assyria Phương Đông và Giáo hội Công giáo đã bắt đầu khoảng 30 năm trước. Giáo hội Assyria phương Đông hiện không hiệp thông với Giáo hội Công giáo, các Giáo hội Chính thống Đông Phương hay các Giáo hội Chính thống Cổ Đông phương.

Đức Lêô viết trong một bài đăng trên Instagram: “Tôi chào mừng Đức Thượng phụ Mar Awa III như một người anh em yêu quý trong Đức Kitô. Tôi cũng xin gửi lời chào thân ái đến các thành viên của Ủy Ban Hỗn hợp về Đối thoại Thần học giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Assyria phương Đông. Cuộc gặp gỡ huynh đệ và đối thoại thần học là những yếu tố cấu thành lẫn nhau trên con đường tiến đến sự hiệp nhất.”

Đức Thánh Cha Lêô hy vọng sẽ “cùng nhau phát triển một mô hình hiệp thông trọn vẹn, được truyền cảm hứng từ thiên niên kỷ thứ nhất, đồng thời đáp ứng cách thận trọng với những thách đố của thời đại chúng ta.”

Ngài nói mô hình này phải đặt trọng tâm vào tính hiệp hành và cùng nhau làm việc, thay vì Giáo hội này đồng hóa Giáo hội kia. Đức Leo nói rằng tính hiệp hành là “một con đường đầy triển vọng để tiến về phía trước.”

Vào hôm thứ Ba, Đức Thánh Cha đã chủ trì một sự kiện kỷ niệm 60 năm ban hành văn kiện Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn Nostra Aetate, dành riêng nói về mối tương quan của Giáo hội với các tôn giáo khác.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 30/10/2025]


Tiếp Kiến với các sinh viên tham dự Năm Thánh của Thế giới Giáo dục – 30.10.2025

Tiếp Kiến với các sinh viên tham dự Năm Thánh của Thế giới Giáo dục – 30.10.2025

Tiếp Kiến với các sinh viên tham dự Năm Thánh của Thế giới Giáo dục – 30.10.2025

*******

Sáng nay, tại Hội trường Phaolô VI, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã tiếp kiến các sinh viên tham dự Năm Thánh của Thế Giới Giáo Dục.

Sau đây là bài diễn văn của Đức Thánh Cha gửi đến những người hiện diện:

____________________________________

Diễn văn của Đức Thánh Cha


Các bạn trẻ thân mến,

Thật là một niềm vui lớn lao khi được gặp các con! Cha đã mong chờ khoảnh khắc này với sự háo hức rất lớn. Được ở bên các con gợi lại cho cha những năm tháng cha còn dạy môn toán cho các bạn trẻ đầy sức sống như các con. Cảm ơn các con đã nhận lời mời đến đây hôm nay và chia sẻ những suy tư và niềm hy vọng của mình, những điều cha sẽ chuyển đến các bạn bè của chúng ta trên khắp thế giới.

Cha muốn bắt đầu bằng việc nhắc đến Thánh Pier Giorgio Frassati, một sinh viên người Ý, vừa được tuyên phong thánh trong Năm Thánh này. Với tình yêu tha thiết dành cho Thiên Chúa và tha nhân, vị thánh trẻ này đã đặt ra hai câu nói mà ngài thường xuyên lặp lại, gần như là một châm ngôn: “Sống mà không có đức tin… không phải là sống mà chỉ là tồn tại qua ngày” và “Hướng đến những đỉnh cao”. Đây là những lời rất chân thực và đầy khích lệ. Vì vậy, cha cũng nói với các con: hãy can đảm sống cuộc sống trọn vẹn. Đừng bằng lòng với những gì thuộc bề ngoài hay những trào lưu nhất thời; một đời sống bị bóp nghẹt bởi các thú vui chóng qua sẽ chẳng bao giờ làm chúng ta thỏa mãn. Vì vậy, mỗi người trong các con hãy thưa trong lòng: “Lạy Chúa, con mơ ước điều lớn lao hơn; con khao khát điều gì đó cao cả hơn; xin Chúa linh hứng cho con!” Khát vọng này là sức mạnh của các con, và diễn tả rõ ràng cam kết của những người trẻ mơ ước một xã hội tốt đẹp hơn, và từ chối trở thành những khán giả đứng ngoài cuộc. Vì thế, cha khích lệ các con hãy tiếp tục phấn đấu “hướng tới những đỉnh cao”, thắp lên hải đăng hy vọng trong những giờ phút tăm tối của lịch sử. Sẽ thật tuyệt vời biết bao nếu một ngày nào đó thế hệ của các con được nhớ đến là “thế hệ cộng” (generation plus), được nhớ đến vì động lực mới mà các con mang đến cho Giáo hội và thế giới.

Nhưng, các bạn trẻ thân mến, điều ấy không thể chỉ là giấc mơ của riêng một người. Chúng ta hãy hiệp nhất để biến nó thành hiện thực, cùng nhau làm chứng cho niềm vui của niềm tin vào Chúa Giêsu. Làm sao chúng ta có thể đạt được điều đó? Câu trả lời rất đơn giản: qua giáo dục, một trong những công cụ đẹp và mạnh mẽ nhất để làm thay đổi thế giới.

Năm năm trước, Đức Thánh Cha Phanxicô kính yêu của chúng ta đã phát động dự án vĩ đại Hiệp ước Toàn cầu về Giáo dục (Global Compact on Education), một liên minh của tất cả những ai làm việc trong lĩnh vực giáo dục và văn hóa, bằng nhiều cách khác nhau, nhằm gắn kết các thế hệ trẻ trong tình huynh đệ phổ quát. Thật vậy, các con không chỉ là người thụ hưởng nền giáo dục, mà còn là nhân vật chính của giáo dục. Đó là lý do tại sao hôm nay cha mời gọi các con hãy chung sức để mở ra một mùa giáo dục mới, trong đó tất cả chúng ta — người trẻ và người trưởng thành — trở thành những chứng nhân đáng tin cậy của chân lý và hòa bình. Cha nói với các con: các con được kêu gọi trở thành những người nói sự thật và người kiến tạo hòa bình, những người luôn giữ lời, và là những người xây dựng hòa bình. Hãy mời gọi bạn bè đồng trang lứa cùng dấn bước tìm kiếm chân lý và vun đắp hòa bình, thể hiện hai khát vọng ấy bằng chính đời sống, lời nói và hành động thường nhật của các con.

Ở điểm này, cha muốn bổ sung vào tấm gương của Thánh Pier Giorgio Frassati một suy tư của Thánh John Henry Newman, một vị thánh uyên bác sắp được tôn phong là Tiến sĩ Hội thánh. Ngài nói rằng tri thức phát triển khi nó được chia sẻ, và chính qua sự đối thoại của các trí tuệ mà ngọn lửa chân lý được thắp lên. Cũng vậy, hòa bình đích thực được sinh ra khi nhiều cuộc đời, như những vì sao, cùng nhau kết hợp và tạo thành một mô hình. Cùng nhau, chúng ta có thể tạo thành những chòm sao giáo dục dẫn lối cho con đường phía trước.

Là một cựu giáo viên môn toán và vật lý, cho phép cha cùng các con làm một phép tính nhỏ. Các con có biết trong vũ trụ quan sát được có bao nhiêu ngôi sao không? Một con số khủng và kỳ diệu: một sextillion ngôi sao — nghĩa là, số 1 theo sau là 24 số 0! Nếu chúng ta chia chúng cho 8 tỷ người trên Trái đất, mỗi người sẽ có hàng trăm tỷ ngôi sao. Bằng mắt thường, vào những đêm trời quang, chúng ta có thể nhìn thấy khoảng năm ngàn ngôi sao. Mặc dù có hàng tỷ tỷ ngôi sao, chúng ta chỉ thấy những chòm sao gần nhất; tuy nhiên, chừng đó là đủ để chỉ cho chúng ta phương hướng, giống như khi đi trên biển. Những người lữ hành luôn tìm đường đi nhờ các vì sao. Các thủy thủ đi theo Sao Bắc Đẩu; người Polynesia vượt đại dương bằng cách ghi nhớ bản đồ sao. Theo người nông dân vùng Andes, những người mà cha từng biết khi còn là nhà truyền giáo ở Peru, bầu trời là một quyển sách mở đánh dấu các mùa gieo hạt, cắt lông cừu và các chu kỳ của sự sống. Ngay cả các nhà Đạo sĩ cũng đã đi theo một ngôi sao để đến Bêlem và thờ lạy Hài nhi Giêsu.

Cũng như họ, các con cũng có những vì sao dẫn đường: cha mẹ, các thầy cô, các linh mục và bạn bè, những người giống như những chiếc la bàn giúp các con không lạc lối giữa những thăng trầm của cuộc đời. Cũng như họ, các con được mời gọi trở thành các chứng nhân rọi sáng cho những người xung quanh. Nhưng, như cha đã nói, một ngôi sao đơn lẻ chỉ là một chấm sáng nhỏ. Tuy nhiên, khi liên kết với những ngôi sao khác, nó sẽ tạo thành một chòm sao, như chòm sao Nam Thập tự (Southern Cross). Các con cũng như vậy: mỗi người trong các con là một ngôi sao, và cùng nhau các con được mời gọi để dẫn dắt tương lai. Giáo dục quy tụ con người lại với nhau thành những cộng đồng sống động, và sắp xếp các ý tưởng thành những chòm sao ý nghĩa. Như ngôn sứ Đanien đã viết: “Những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12:3). Thật tuyệt vời! Chúng ta thực sự là những vì sao, bởi vì chúng ta là tia sáng của Thiên Chúa. Giáo dục có nghĩa là vun đắp ân ban này.

Thật vậy, giáo dục dạy chúng ta biết nhìn lên, luôn hướng lên cao hơn. Khi Galileo Galilei hướng kính viễn vọng của ông lên bầu trời, ông đã khám phá ra những thế giới mới: các vệ tinh của Sao Mộc, những ngọn núi trên Mặt trăng. Giáo dục giống như một kính viễn vọng cho phép các con nhìn xa hơn và khám phá những điều các con không thể tự mình thấy được. Vì thế, đừng dán mắt vào điện thoại thông minh, và loạt những hình ảnh lướt qua; nhưng, hãy ngước nhìn lên trời, hướng tới những đỉnh cao.

Các bạn trẻ thân mến, chính các con đã đề xuất thách đố đầu tiên kêu gọi cam kết của chúng ta trong Hiệp ước Toàn cầu về Giáo dục, bày tỏ một ước muốn mạnh mẽ và rõ ràng: “Xin giúp giáo dục đời sống nội tâm của chúng con”. Cha thật sự xúc động trước lời thỉnh cầu này. Có nhiều kiến thức là chưa đủ nếu chúng ta không biết mình là ai, hoặc không biết ý nghĩa của đời sống là gì. Nếu không có sự thinh lặng, không có lắng nghe, không có cầu nguyện, ngay cả ánh sáng của các vì sao cũng lịm tắt. Chúng ta có thể biết rất nhiều về thế giới nhưng lại không để ý đến chính tâm hồn mình. Các con cũng có thể đã trải qua cảm giác trống rỗng hay bồn chồn không để các con được bình an. Với những trường hợp nghiêm trọng nhất, chúng ta thấy những biểu hiện của sự đau khổ, bạo lực, bắt nạt và áp bức — thậm chí có những bạn trẻ tự cô lập mình và không muốn tiếp xúc với người khác. Cha nghĩ rằng đằng sau sự đau khổ này là một khoảng trống được tạo ra bởi một xã hội đã quên việc đào tạo chiều kích thiêng liêng của con người, chỉ chú trọng vào các khía cạnh kỹ thuật, xã hội hay đạo đức của cuộc sống.

Khi còn là một thanh niên, Thánh Augustinô rất tài giỏi nhưng lại không thấy mãn nguyện, như chúng ta đọc thấy trong quyển tự truyện của ngài, quyển Tự Thú. Ngài tìm kiếm khắp nơi — trong thành công và trong lạc thú — và tham gia vào mọi việc, nhưng ngài không thể tìm được chân lý hay bình an. Khi ngài khám phá ra Thiên Chúa trong chính tâm hồn mình, ngài đã viết nên một câu rất sâu sắc áp dụng cho tất cả chúng ta: “Lòng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Đây chính là ý nghĩa của việc giáo dục đời sống nội tâm: lắng nghe nỗi khắc khoải của chúng ta và không trốn tránh nó, cũng không lấp đầy nó bằng những điều không làm thỏa mãn. Khát vọng vô biên của chúng ta chính là la bàn cho chúng ta biết: “Đừng an phận — con được dựng nên cho điều cao cả hơn;” “đừng chỉ tồn tại, nhưng hãy sống.”

Thách đố thứ hai của giáo dục là điều ảnh hưởng đến chúng ta hằng ngày, và đó là điều mà chính các con là những người thầy: giáo dục kỹ thuật số. Các con sống trong đó, và nó không phải là xấu; có những cơ hội to lớn cho việc học tập và giao tiếp. Nhưng, đừng để thuật toán viết câu chuyện cuộc đời của các con! Hãy là tác giả của chính mình; sử dụng công nghệ cách khôn ngoan, nhưng đừng để công nghệ sử dụng các con.

Trí tuệ nhân tạo (AI) cũng là một sự mới lạ tuyệt vời — một rerum novarum, hay là “những điều mới lạ” của thời đại chúng ta. Tuy nhiên, thông minh trong thực tại ảo là chưa đủ; chúng ta cũng phải đối xử nhân văn với nhau, bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc, tâm linh, xã hội và sinh thái. Vì vậy, cha nói với các con: hãy học cách nhân tính hóa thế giới số, xây dựng nó như một không gian huynh đệ và sáng tạo — chứ không là một chiếc lồng nơi các con tự nhốt mình, không phải là một sự nghiện ngập hay một sự trốn chạy. Thay vì là những người du lịch trên mạng, hãy trở thành những ngôn sứ trong thế giới kỹ thuật số!

Ở đây, chúng ta có một gương sáng nên thánh rất kịp thời: Thánh Carlo Acutis. Ngài là một người trẻ không trở thành nô lệ cho internet, nhưng thay vào đó đã dùng nó cách khéo léo cho điều thiện. Thánh Carlo đã kết hợp đức tin rất đẹp của mình với sự đam mê máy tính, tạo ra một trang web về các phép lạ Thánh Thể và nhờ đó biến internet thành một công cụ loan báo Tin Mừng. Sáng kiến của ngài dạy chúng ta rằng thế giới kỹ thuật số sẽ mang tính giáo dục khi nó không khóa chặt chúng ta trong bản thân mà mở lòng ra với người khác — khi nó không đặt chúng ta vào trung tâm, nhưng hướng chúng ta về Thiên Chúa và tha nhân.

Các bạn thân mến, cuối cùng chúng ta đi đến thách đố lớn thứ ba mà cha trao phó cho các con hôm nay — thách đố này cũng là trọng tâm của Hiệp ước Toàn cầu về Giáo dục mới: giáo dục vì hòa bình. Các con có thể thấy tương lai của chúng ta đang bị đe dọa như thế nào bởi chiến tranh và hận thù, những điều chia rẽ con người. Tương lai này có thể thay đổi không? Chắc chắn là có! Bằng cách nào? Bằng một nền giáo dục vì hòa bình, giải trừ vũ khí và hiền hòa. Thật vậy, im tiếng vũ khí thôi là chưa đủ: chúng ta phải giải trừ vũ khí tâm hồn, từ bỏ mọi bạo lực và sự thô thiển. Bằng cách này, một nền giáo dục giải giới và hiền hòa tạo ra sự bình đẳng và phát triển cho tất cả mọi người, nhìn nhận phẩm giá bình đẳng của mọi người trẻ, không bao giờ phân chia những người trẻ thành nhóm thiểu số đặc quyền được tiếp cận các trường học đắt đỏ, và số đông không có quyền tiếp cận giáo dục. Với niềm tin lớn lao nơi các con, cha mời gọi các con trở thành những người kiến tạo hòa bình, trước hết ở tại nơi các con đang sống — trong gia đình, ở trường học, trong thể thao và giữa các bạn bè — vươn tới những người đến từ các nền văn hóa khác.

Sau cùng, các bạn thân mến, đừng nhìn vào những ngôi sao băng, nơi những ước muốn mong manh được phó thác vào. Hãy nhìn cao hơn nữa, hướng về Chúa Giêsu Kitô, “mặt trời của những người công chính” (Lc 1:78), Đấng sẽ luôn dẫn dắt các con trên những nẻo đường của cuộc đời.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 31/10/2025]


Thứ Năm, 30 tháng 10, 2025

Diễn Văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV trước những tham dự viên cuộc Gặp gỡ Cầu nguyện Quốc tế vì Hòa bình do Cộng đoàn Sant’Egidio Tổ chức

Diễn Văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV trước những tham dự viên cuộc Gặp gỡ Cầu nguyện Quốc tế vì Hòa bình do Cộng đoàn Sant’Egidio Tổ chức

Diễn Văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV trước những tham dự viên cuộc Gặp gỡ Cầu nguyện Quốc tế vì Hòa bình do Cộng đoàn Sant’Egidio Tổ chức (Roma, 26-28 tháng 10 năm 2025), 28.10.2025

Sau đây là diễn văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV, trước sự hiện diện của những vị lãnh đạo các tôn giáo, gửi đến những tham dự viên cuộc Gặp gỡ Cầu nguyện Quốc tế vì Hòa bình do Cộng đoàn Sant’Egidio tổ chức, diễn ra tại Roma từ ngày 26 đến 28 tháng 10 năm 2025:

Diễn Văn của Đức Thánh Cha

Kính thưa Đức Thượng phụ,
Thưa các Thượng phụ,
Thưa Quý vị Đại diện các Giáo hội Kitô giáo và các Tôn giáo lớn trên thế giới,

Chúng ta đã cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình theo các truyền thống tôn giáo khác nhau của mình, và giờ đây chúng ta cùng quy tụ để công bố một thông điệp hòa giải. Những xung đột hiện diện trong mọi khía cạnh của cuộc sống, nhưng chiến tranh không giúp giải quyết hay tìm ra các giải pháp cho chúng. Hòa bình là một hành trình bền bỉ của hòa giải. Tôi cảm ơn quý vị đã đến đây để cầu nguyện cho hòa bình và để cho thế giới thấy rõ tầm quan trọng của việc cầu nguyện. Trái tim con người phải rộng mở cho hòa bình. Chính nhờ sự chiêm niệm mà chúng ta mở lòng mình ra, và chính trong cầu nguyện mà chúng ta thoát ra ngoài bản thân mình. Chúng ta hồi tâm để vượt lên chính mình. Đây là chứng tá của chúng ta: trao tặng những kho tàng vô giá của các linh đạo cổ xưa cho nhân loại đương đại.

Thế giới đang khao khát hòa bình. Chúng ta cần một kỷ nguyên hòa giải đích thực và bền vững, chấm dứt tình trạng lạm dụng quyền lực, phô trương vũ lực và làm ngơ trước luật pháp. Chiến tranh đã đủ rồi, với tất cả những nỗi đau mà nó mang đến qua cái chết, sự tàn phá và cảnh lưu vong! Quy tụ tại đây hôm nay, chúng ta không chỉ bày tỏ ước muốn mãnh liệt cho hòa bình, mà còn là niềm xác tín rằng cầu nguyện là một sức mạnh phi thường cho hòa giải. Những ai thực hành tôn giáo mà không cầu nguyện có nguy cơ lạm dụng nó, thậm chí đến mức gây sát hại. Cầu nguyện là một chuyển động của tinh thần và là sự mở rộng con tim. Đó không phải là những lời hét lên, không phô trương hành vi hay các khẩu hiệu tôn giáo chống lại các thụ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng cầu nguyện làm thay đổi dòng chảy lịch sử. Xin cho các nơi cầu nguyện trở thành những căn lều gặp gỡ, những thánh địa hòa giải và những ốc đảo hòa bình.

Ngày 27 tháng Mười năm 1986, Đức Gioan Phaolô đã mời các vị lãnh đạo tôn giáo từ khắp nơi trên thế giới đến Assisi để cầu nguyện cho hòa bình, và khẩn thiết xin họ: Xin chúng ta đừng bao giờ chống lại nhau nữa, mà hãy đứng bên nhau. Sự kiện lịch sử đó đã đánh dấu một bước ngoặt trong mối tương quan liên tôn. Năm này qua năm khác, những cuộc gặp gỡ cầu nguyện và đối thoại ấy vẫn tiếp tục trong “tinh thần Assisi,” tạo ra một bầu không khí huynh đệ giữa các vị lãnh đạo tôn giáo và đón nhận nhiều lời kêu gọi hòa bình. Ngày nay, dường như thế giới đã đi theo hướng ngược lại, nhưng chúng ta vẫn đón nhận thách đố của Assisi và ý thức về sứ mạng và trách nhiệm chung của chúng ta đối với hòa bình. Tôi cảm ơn Cộng đoàn Sant’Egidio và tất cả các tổ chức Công giáo cũng như ngoài Công giáo, những người vẫn giữ cho tinh thần này sống động, ngay cả khi phải đi ngược dòng.

Đối với Giáo hội Công giáo, lời cầu nguyện trong “tinh thần Assisi” dựa trên nền tảng vững chắc được xác lập trong Tuyên ngôn Nostra Aetate của Công đồng Vatican II, cụ thể là sự đổi mới mối tương quan giữa Giáo hội Công giáo và các tôn giáo khác. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 60 năm công bố Tuyên ngôn ấy, diễn ra vào ngày 28 tháng Mười năm 1965.

Cùng nhau, chúng ta tái khẳng định cam kết đối thoại và tình huynh đệ, một cam kết mà các Nghị phụ Công đồng mong ước và đã mang đến nhiều hoa trái. Như lời của Công đồng: “Chúng ta không thể thực sự cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, nếu chúng ta đối xử với bất kỳ ai theo cách không phải là chị em hoặc anh em, vì tất cả đều được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa” (Tuyên ngôn về mối Tương quan của Giáo hội với các Tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate, số 5). Tất cả các tín hữu là anh chị em. Và các tôn giáo, như là những “người mẹ,” phải khuyến khích các dân tộc đối xử với nhau như gia đình, không phải như kẻ thù. Vì “nhân loại là một cộng đồng duy nhất. Điều ấy là vì tất cả đều xuất phát từ một nguồn gốc chung” (Sđd., số 1).

Năm ngoái, khi quý vị họp mặt tại Paris, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết thư cho quý vị, tuyên bố rằng: “Chúng ta phải ngăn chặn các tôn giáo không rơi vào cám dỗ trở thành công cụ nuôi dưỡng những hình thức của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa vị chủng và chủ nghĩa dân túy. Chiến tranh chỉ làm leo thang thêm. Khốn cho những ai cố gắng lôi kéo Thiên Chúa đứng về phe mình trong các cuộc chiến tranh!”[1] Tôi xin được lấy những lời này làm của riêng mình và mạnh mẽ lặp lại: chiến tranh không bao giờ là thánh thiện; chỉ có hòa bình là thánh thiện, bởi vì đó là điều Thiên Chúa muốn!

Bằng sức mạnh của lời cầu nguyện, với đôi tay giơ lên trời và giang rộng hướng về người khác, chúng ta phải đảm bảo rằng giai đoạn lịch sử này, bị đánh dấu bởi chiến tranh và sự ngạo nghễ của quyền lực, sớm chấm dứt, nhường chỗ cho một kỷ nguyên mới. Chúng ta không thể cho phép thời kỳ này kéo dài. Nó định hình tâm trí của những người quen dần với chiến tranh như một phần bình thường của lịch sử nhân loại. Đủ rồi! Đây là tiếng kêu của người nghèo và cũng là tiếng kêu của trái đất. Đủ rồi! Lạy Chúa, xin lắng nghe tiếng kêu than của chúng con!

Đấng Đáng Kính Giorgio La Pira, một chứng nhân của hòa bình, đã viết cho Thánh Phaolô VI khi còn phục vụ trong chính trường trong những thời điểm đầy thách thức rằng: “Chúng ta khao khát một kỷ nguyên khác của lịch sử thế giới: kỷ nguyên của đàm phán, kỷ nguyên của một thế giới mới không còn chiến tranh”[2]. Hôm nay, hơn bao giờ hết, những lời này trở thành kim chỉ nam cho nhân loại.

Văn hóa hòa giải sẽ vượt thắng sự toàn cầu hóa tình trạng bất lực hiện tại, một tình trạng dường như đang nói với chúng ta rằng một kỷ nguyên khác là điều không thể. Nhưng đối thoại, đàm phán và hợp tác có khả năng giải quyết và xử lý những căng thẳng nảy sinh trong các tình huống xung đột. Chúng phải thực hiện như vậy! Các diễn đàn và con người cần thiết đã hiện hữu. “Chấm dứt chiến tranh là một bổn phận trọng đại trước mặt Thiên Chúa, đặt trên tất cả những ai nắm giữ trách nhiệm chính trị. Hòa bình là ưu tiên hàng đầu của mọi nền chính trị. Thiên Chúa sẽ đòi những người đã không tìm kiếm hòa bình, hoặc đã kích động căng thẳng và xung đột phải chịu trách nhiệm. Người sẽ đòi họ phải trả lẽ về tất cả những ngày, tháng và năm của chiến tranh”[3].

Là các nhà lãnh đạo tôn giáo, đây là lời kêu gọi chân thành mà chúng ta gửi đến những người nắm quyền trong các chính phủ. Chúng ta cùng chia sẻ ước muốn hòa bình cho tất cả các dân tộc. Chúng ta là tiếng nói của những người không được lắng nghe, và những người không có tiếng nói. Chúng ta phải “dám sống vì hòa bình”!

Dù thế giới có ngoảnh mặt bịt tai trước lời kêu gọi này, chúng ta vẫn tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta, và tiếng kêu than của biết bao người đau khổ. Thiên Chúa muốn một thế giới không còn chiến tranh. Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi sự dữ này!


_____________________________________

[1] Francis, Message to Participants in the International Meeting for Peace Organized by the Community of Sant’Egidio, 17 September 2024.

[2] G. La Pira, Abbattere muri, costruire ponti, Cinisello Balsamo 2015, 802.

[3] Francis, Address for the International Meeting of Prayer for Peace “No One is Saved Alone. Peace and Fraternity,” Rome, Campidoglio, 20 October 2020.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 30/10/2025]


Tiếp Kiến Đức Thượng phụ Mar Awa III của Giáo hội Assyria phương Đông, 27.10.2025

Tiếp Kiến Đức Thượng phụ Mar Awa III của Giáo hội Assyria phương Đông, 27.10.2025

*******
Tiếp Kiến Đức Thượng phụ Mar Awa III của Giáo hội Assyria phương Đông, 27.10.2025

Sáng nay, tại Điện Tông Tòa Vatican, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã tiếp kiến Đức Thượng phụ Mar Awa III của Giáo Hội Assyria phương Đông, cùng với các thành viên của Ủy Ban Hỗn Hợp Quốc Tế về Đối Thoại Thần Học giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Assyria phương Đông.

Sau đây là bài diễn văn của Đức Thánh Cha gửi đến những người hiện diện trong buổi tiếp kiến:


Diễn Văn của Đức Thánh Cha

Thưa Đức Thượng phụ,
Anh em trong Đức Kitô thân mến,

“Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Êp 1:2). Với những lời này của Thánh Phaolô, tôi xin chào mừng Đức Thượng phụ như một người anh em yêu quý trong Đức Kitô, và một lần nữa bày tỏ lòng biết ơn về sự hiện diện của ngài trong lễ khai mạc triều đại giáo hoàng của tôi. Tôi cũng xin gửi lời chào thân ái đến các thành viên của Ủy Ban Hỗn hợp về Đối thoại Thần học giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Assyria phương Đông.

Các chuyến thăm kết hợp này của Đức Thượng phụ của Giáo Hội Assyria phương Đông cùng với các thành viên của Ủy Ban, tạo nên một truyền thống đẹp trong những năm gần đây. Chúng làm chứng cho sự thật rằng sự gặp gỡ huynh đệ và đối thoại thần học là những yếu tố cấu thành lẫn nhau trên con đường tiến đến sự hiệp nhất. “Đối thoại sự thật” là một cách biểu đạt của tình yêu đã liên kết các Giáo hội chúng ta, trong khi “đối thoại bác ái” cũng phải được hiểu theo khía cạnh thần học.

Chuyến thăm gần đây nhất của Đức Thượng phụ và các anh em, vào năm 2024, đã đánh dấu ba mươi năm đối thoại chính thức giữa các Giáo hội chúng ta. Tiến trình đã đạt được trong những năm qua thật đáng kể, vì đã trung thành đi theo định hướng và phương pháp được thiết lập bởi các vị tiền nhiệm của chúng ta. Như được khẳng định trong Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Đức Thượng phụ Mar Dinkha IV, “để đạt tới sự hiệp thông trọn vẹn và hoàn toàn, cần phải có sự đồng thuận về nội dung của đức tin, các bí tích, và cơ cấu của Giáo hội.”

Ba yếu tố này đã trở thành khuôn khổ cho các giai đoạn tiếp theo trong cuộc đối thoại thần học của chúng ta. Sau khi đạt được sự đồng thuận về đức tin Kitô học, qua đó giải quyết cuộc tranh cãi kéo dài 1.500 năm, cuộc đối thoại của chúng ta đã tiến triển với sự công nhận lẫn nhau về các bí tích, cho phép một mức độ “hiệp thông trong các việc thánh" (communicatio in sacris) giữa hai Giáo hội chúng ta. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến từng anh em, các nhà thần học của Ủy Ban Hỗn Hợp, vì những đóng góp vô giá và những nỗ lực chung của anh em, nếu không có những đóng góp ấy thì các thỏa thuận về giáo lý và mục vụ này đã không thể thực hiện được.

Liên quan đến cơ cấu của Giáo Hội – trọng tâm hiện tại của cuộc đối thoại – thách đố chính nằm ở việc cùng nhau phát triển một mô hình hiệp thông trọn vẹn, được truyền cảm hứng từ thiên niên kỷ thứ nhất, đồng thời đáp ứng cách thận trọng với những thách đố của thời đại chúng ta. Như các vị tiền nhiệm của tôi đã nhiều lần nhấn mạnh, một mô hình như vậy không được bao gồm sự đồng hóa hay sự thống trị; thay vào đó, cần phải thúc đẩy sự trao đổi các hồng ân giữa hai Giáo hội chúng ta, được nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần để xây dựng Thân Thể Chúa Kitô (x. Êp 4:12). Tôi mong đợi những hoa trái từ cuộc đối thoại thần học mà anh em đang tiến hành về vấn đề này, được thực hiện “cùng nhau, dĩ nhiên là thế,” như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thiết tha mong ước trong Thông Điệp Ut Unum Sint của ngài (số 95).

Trên hành trình tiến đến sự hiệp thông trọn vẹn này, tính hiệp hành thể hiện như một con đường đầy triển vọng để tiến bước. Trong chuyến thăm của Đức Thượng phụ năm 2022, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặt ra cách diễn đạt mà sau này được đưa vào Văn kiện Chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục gần đây về Tính Hiệp hành của Giáo hội Công giáo, tôi xin trích dẫn: “Hành trình hiệp hành mà Giáo hội Công giáo thực hiện mang tính đại kết và phải là đại kết, cũng như chính hành trình đại kết mang tính hiệp hành” (For a Synodal Church: Communion, Participation, Mission, 23). Trong tinh thần của Thượng Hội đồng ấy, tôi chân thành hy vọng rằng kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa sẽ dẫn đưa chúng ta “thực hành những hình thức hiệp hành giữa các Kitô hữu thuộc mọi truyền thống,” và truyền cảm hứng cho chúng ta với những “cách thực hành hiệp hành mang chiều kích đại kết mới” (sđd., số 138-139).

Xin cho chúng ta tiếp tục cuộc hành hương này, được củng cố nhờ lời cầu nguyện của tất cả các thánh của hai Giáo Hội chúng ta, đặc biệt là Thánh Isaac thành Nineve, mà năm ngoái tên của ngài đã được thêm vào Sách Tử đạo Roma (Roman Martyrology). Nhờ lời chuyển cầu của các ngài, xin cho các Kitô hữu ở Trung Đông luôn làm chứng trung thành cho Đức Kitô phục sinh, và xin cho cuộc đối thoại của chúng ta mau đến ngày được chúc phúc, khi chúng ta sẽ cùng nhau cử hành trên cùng một bàn thờ, chia sẻ cùng một Mình và Máu của Đấng Cứu Chuộc chúng ta, “để thế gian tin” (Ga 17:21).

Hiệp nhất trong lời cầu nguyện với Đấng Cứu Chuộc chúng ta, giờ đây tôi mời tất cả anh chị em cùng tôi đọc Kinh Lạy Cha. Lạy Cha chúng con…


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/10/2025]


Thứ Ba, 28 tháng 10, 2025

Chương trình Chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Lêô XIV tới Thổ Nhĩ Kỳ và Li-băng

“Một Thiên Chúa, một Niềm tin, một Phép rửa”

Chương trình chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Lêô XIV tới Thổ Nhĩ Kỳ và Li-băng (27 tháng 11 – 2 tháng 12 năm 2025)

Chương trình Chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Lêô XIV tới Thổ Nhĩ Kỳ và Li-băng
Đức Thánh Cha Lêô XIV sẽ thực hiện chuyến tông du quốc tế đầu tiên ra ngoài nước Ý, từ ngày 27 tháng Mười Một đến ngày 2 tháng Mười Hai năm 2025, tới Thổ Nhĩ Kỳ và Li-băng. Chuyến đi này, nhân dịp kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa, được thực hiện trong tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn. Chương trình bao gồm những cuộc gặp gỡ với các giới chức dân sự, các vị lãnh đạo Giáo hội và các cộng đoàn địa phương, cũng như những giờ cầu nguyện, tưởng niệm và phục vụ.


Lịch trình chi tiết và những sự kiện chính

Tại Thổ Nhĩ Kỳ (27 – 30 tháng 11)

Vào ngày 27 tháng Mười Một, Đức Thánh Cha sẽ từ Roma đến Ankara, nơi ngài được tiếp đón chính thức. Ngài sẽ viếng Lăng Atatürk và gặp Tổng thống Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, ông Recep Tayyip Erdoğan. Cùng ngày đó, ngài sẽ đến Istanbul.

Ngày 28 tháng Mười Một, ngài sẽ chủ trì buổi cầu nguyện tại Nhà thờ Chính tòa Chúa Thánh Thần ở Istanbul cùng với các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và các nhân viên mục vụ, và sẽ thăm Dòng Tiểu muội Người nghèo. Sau đó, ngài sẽ di chuyển bằng máy bay trực thăng đến İznik (tức Nixêa cổ đại) để cử hành buổi lễ đại kết gần di tích của Vương cung Thánh đường Thánh Neophytos cổ xưa, để kỷ niệm Công đồng Nixêa.

Ngày 29 tháng Mười Một, ngài sẽ đến thăm Đền thờ Hồi giáo Xanh (Blue Mosque) ở Istanbul và gặp gỡ các cộng đồng Kitô giáo địa phương tại Nhà thờ Chính thống giáo Syria Mor Ephrem. Sau đó, ngài sẽ tham dự một nghi thức tán tụng Thiên Chúa (doxology) tại Nhà thờ Thượng phụ Thánh George và gặp gỡ Đức Thượng phụ Đại kết Bartholomew I, và ngài sẽ đồng ký một Tuyên bố Chung.

Ngày 30 tháng Mười Một, Lễ Thánh Anrê Tông đồ, ngài sẽ viếng Nhà thờ Chánh tòa Tông truyền Armenia, nơi ngài sẽ tham dự phụng vụ và gặp gỡ Đức Thượng phụ.


Tại Li-băng (30 tháng 11 – 2 tháng 12)

Đức Thánh Cha sẽ đến Beirut vào tối ngày 30 tháng Mười Một, và gặp gỡ Tổng thống Li-băng, Chủ tịch Quốc hội, và Thủ tướng. Ngài sẽ có bài diễn văn trước các giới chức chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.

Ngày 1 tháng Mười Hai, ngài sẽ viếng mộ Thánh Charbel Makhlūf tại Tu viện Annaya và Đền thờ Đức Mẹ Li-băng ở Harissa, nơi ngài sẽ gặp gỡ các linh mục sở tại và nhân viên mục vụ. Sau đó, ngài sẽ có cuộc họp riêng với các Thượng phụ Công giáo của Li-băng.

Buổi chiều, ngài sẽ tham dự một cuộc gặp gỡ đại kết và liên tôn tại Quảng trường Các vị Tử đạo ở Beirut, tiếp đó là cuộc gặp gỡ với giới trẻ Li-băng trước Tòa Thượng phụ Maronite ở Bkerke.

Ngày 2 tháng Mười Hai, ngài sẽ thăm Bệnh viện De La Croix ở Jal Ed Dib và dâng lời cầu nguyện trong thinh lặng tại địa điểm xảy ra vụ nổ cảng Beirut năm 2020. Cuối cùng, ngài sẽ cử hành Thánh Lễ bế mạc tại bờ biển Beirut.


Ý nghĩa của chuyến Tông du

Chuyến đi này mang nhiều mục đích:

  • Kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa, biểu tượng của sự hiệp nhất Kitô giáo và đối thoại đại kết.
  • Thúc đẩy sự gặp gỡ giữa Giáo hội Công giáo và các Giáo hội Đông phương, cũng như với các tôn giáo khác.
  • Bày tỏ sự gần gũi đối với nỗi đau khổ của người dân, đặc biệt là tại Li-băng, một đất nước bị ghi đậm dấu bởi những cuộc khủng hoảng xã hội và kinh tế và thảm kịch tại cảng Beirut.

Chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Lêô XIV tới Thổ Nhĩ Kỳ và Li-băng thể hiện một cam kết quyết liệt với hòa bình, đối thoại và niềm hy vọng trong một vùng đất bị thương tổn, đồng thời nhấn mạnh chiều kích phổ quát của đức tin và tình huynh đệ Kitô giáo.


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 28/10/2025]

Bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV - Thánh Lễ với sinh viên các đại học Giáo hoàng

Bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV - Thánh Lễ với sinh viên các đại học Giáo hoàng

THÁNH LỄ VỚI SINH VIÊN CÁC ĐẠI HỌC GIÁO HOÀNG

BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô

Thứ Hai, ngày 27 tháng 10 năm 2025

____________________________________


Anh chị em thân mến,

Được quy tụ nơi đây trong Năm Thánh là một hồng ân mà chúng ta không được xem là điều đương nhiên. Trước hết, đó là một ân ban, bởi vì việc hành hương, đi qua Cửa Thánh, nhắc nhở chúng ta rằng đời sống chỉ có ý nghĩa khi được sống như một cuộc hành trình, khi biết tiến bước không ngừng, nghĩa là, khi biết làm cho thực tại Phục Sinh hiện hữu.

Vì thế, thật tốt lành khi suy niệm về việc Giáo hội hằng ghi nhớ rằng, qua việc cử hành Năm Thánh trong những tháng này, chính Giáo hội luôn cần được hoán cải và phải luôn tiến bước theo sau Chúa Giêsu, không do dự và không sa vào cám dỗ muốn đi trước Người. Thật vậy, Giáo hội luôn cần Phục sinh, nghĩa là sự “vượt qua” từ kiếp nô lệ đến tự do, từ sự chết đến sự sống. Tôi ước mong rằng tất cả anh chị em đều cảm nghiệm trong tâm hồn mình hồng ân của niềm hy vọng này, và Năm Thánh trở thành một cơ hội để cuộc đời anh chị em được bắt đầu lại.

Hôm nay, tôi muốn ngỏ lời với anh chị em là những người thuộc các cơ sở đại học, và tất cả những ai chuyên tâm trong việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu theo nhiều cách khác nhau. Ân sủng nào có thể chạm đến đời sống của một sinh viên, một nhà nghiên cứu, một học giả? Tôi xin thưa rằng: đó là ân sủng của một tầm nhìn bao quát, một nhãn quan có khả năng nắm bắt được chân trời, biết nhìn xa hơn những gì trước mắt.

Chúng ta có thể thấy sự thấu suốt này trong đoạn Tin Mừng vừa được công bố (Lc 13:10-17), kể lại hình ảnh một người phụ nữ bị còng lưng, và sau khi được Chúa Giêsu chữa lành, bà đã đón nhận được ân huệ của một tầm nhìn mới, một tầm nhìn rộng lớn hơn. Tình trạng của người phụ nữ này tương tự như tình trạng bất minh, vốn thường gắn liền với sự khép kín vào bản thân và thiếu thao thức thiêng liêng cũng như trí tuệ. Người đàn bà bị còng lưng, quay vào chính mình, do đó không thể nhìn xa hơn bản thân. Khi con người không có khả năng nhìn vượt ra khỏi chính mình, vượt ra khỏi những kinh nghiệm, ý tưởng và niềm tin của riêng mình, vượt ra ngoài những dự án của bản thân, thì họ sẽ vẫn mãi bị giam hãm, làm nô lệ và mất khả năng đưa ra những phán đoán trưởng thành.

Cũng như người phụ nữ bị còng lưng trong Tin Mừng, chúng ta luôn có nguy cơ bị giam hãm trong cái nhìn quy ngã của bản thân. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều điều thực sự quan trọng trong cuộc sống – chúng ta có thể nói đó là những điều căn bản nhất – không xuất phát từ chính chúng ta; chúng ta đón nhận chúng từ người khác. Những điều đó đến với chúng ta qua các thầy cô giáo, qua các cuộc gặp gỡ và những kinh nghiệm sống của chúng ta. Đây là một kinh nghiệm ân sủng, vì nó chữa lành chúng ta khỏi tính tự quy chiếu. Đây là một sự chữa lành đích thực, cũng như đối với người phụ nữ trong Tin Mừng, cho phép chúng ta một lần nữa đứng thẳng trước cuộc sống và thực tại của nó, và nhìn chúng bằng một cái nhìn rộng lớn hơn. Người phụ nữ được chữa lành đã nhận được niềm hy vọng, vì cuối cùng bà có thể ngước mắt lên và nhìn thấy điều khác biệt, có thể nhìn thấy theo một cách thức mới. Điều này đặc biệt xảy ra khi chúng ta gặp gỡ Đức Kitô trong đời mình, khi chúng ta mở lòng trước một chân lý có khả năng biến đổi cuộc sống, giúp chúng ta bước ra khỏi bản thân mình và giải thoát chúng ta khỏi sự tự quy chiếu.

Những ai học tập được “nâng lên”, mở rộng các chân trời và tầm nhìn của mình, để khôi phục khả năng không cúi nhìn xuống, nhưng có khả năng nhìn lên: hướng về Thiên Chúa, về tha nhân và mầu nhiệm của cuộc sống. Thật vậy, ân sủng của một sinh viên, một nhà nghiên cứu hay học giả có nghĩa là biết đón nhận một tầm nhìn rộng lớn có thể nhìn xa; không đơn giản hóa các vấn đề cũng không sợ hãi trước các câu hỏi; vượt qua sự lười biếng trí tuệ, và nhờ đó đánh bại sự sa sút thiêng liêng. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng đời sống thiêng liêng cần đến nhãn quan này, một nhãn quan mà việc nghiên cứu thần học, triết học và các ngành học khác góp phần một cách đặc biệt. Ngày nay, chúng ta đã trở thành chuyên gia về những chi tiết nhỏ nhất của thực tại, nhưng lại đánh mất khả năng có một tầm nhìn bao quát tích hợp mọi sự trong một ý nghĩa sâu sắc hơn và lớn lao hơn. Tuy nhiên, kinh nghiệm Kitô giáo muốn dạy chúng ta nhìn cuộc sống và thực tại bằng một cái nhìn hợp nhất, có khả năng bao quát mọi sự, đồng thời bác bỏ những cách suy nghĩ phiến diện.

Vì thế, tôi thúc giục anh chị em, các sinh viên, các nhà nghiên cứu và các thầy cô, đừng quên rằng Giáo hội cần cái nhìn hợp nhất này cho cả hiện tại và tương lai. Chúng ta có thể nhìn vào tấm gương của các vị như Thánh Augustinô, Thánh Tôma Aquinô, Thánh Têrêsa Avila, Thánh Edith Stein và nhiều vị khác, những người đã biết cách kết hợp nghiên cứu vào đời sống và hành trình thiêng liêng của mình. Tương tự như vậy, chúng ta được kêu gọi tiến bước trong các nỗ lực về trí tuệ và trong việc tìm kiếm chân lý mà không tách rời chúng khỏi đời sống. Điều quan trọng là nuôi dưỡng sự hợp nhất này để những gì xảy ra trong các giảng đường đại học và các môi trường giáo dục thuộc mọi cấp không chỉ là một bài tập lý thuyết trừu tượng. Nhưng nó có khả năng biến đổi cuộc sống, và giúp chúng ta đào sâu mối tương quan với Đức Kitô, hiểu biết hơn về mầu nhiệm Giáo hội, và làm cho chúng ta trở thành những chứng nhân can đảm của Tin Mừng trong xã hội.

Các bạn rất thân mến, việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy luôn mang một trách nhiệm giáo dục quan trọng, và tôi mong muốn khích lệ các đại học hãy đón nhận tiếng gọi này với niềm đam mê và cam kết. Giáo dục tương tự như phép lạ được kể trong bài Tin Mừng hôm nay, vì hoạt động của nhà giáo dục là nâng con người lên, giúp họ trở thành chính mình và có khả năng phát triển lương tâm được soi sáng cùng với khả năng tư duy phản biện. Các đại học Giáo hoàng phải có khả năng tiếp tục “hoạt động” này của Chúa Giêsu. Đó là một hành động yêu thương đích thực, vì nó là một hình thức bác ái được thể hiện qua việc học tập, tri thức và sự tìm kiếm chân thành những gì là thật và xứng đáng để sống vì nó. Làm no thỏa cơn đói khát chân lý và ý nghĩa là một nhiệm vụ trọng yếu, vì nếu không có chúng, chúng ta sẽ rơi vào sự trống rỗng và thậm chí buông xuôi trước tuyệt vọng.

Trên hành trình này, mỗi người trong chúng ta cũng có thể tái khám phá hồng ân cao cả nhất, đó là biết rằng chúng ta không đơn độc, nhưng chúng ta thuộc về ai đó, như Thánh Tông đồ Phaolô khẳng định: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: ‘Áp-ba! Cha ơi!’” (Rm 8:14-15). Thật vậy, những gì chúng ta nhận được trong khi tìm kiếm chân lý và dành trọn tâm trí cho việc học tập giúp chúng ta khám phá rằng chúng ta không phải là những thụ tạo bị quăng vào thế giới một cách ngẫu nhiên, nhưng chúng ta thuộc về một Đấng yêu thương chúng ta và có một chương trình yêu thương cho cuộc đời chúng ta.

Anh chị em thân mến, cùng với anh chị em, tôi cầu xin Chúa ban cho kinh nghiệm học tập và nghiên cứu trong những năm tháng đại học giúp anh chị em có thể đạt được tầm nhìn mới mẻ này. Xin cho hành trình học thuật của anh chị em giúp anh chị em biết cách nói, thuật lại, đào sâu và loan báo những lý do của niềm hy vọng trong lòng chúng ta (x. 1 Pr 3:15). Xin cho đại học rèn luyện anh chị em trở nên những con người không bao giờ khép kín trong bản thân, nhưng luôn đứng thẳng, có khả năng mang niềm vui và sự an ủi của Tin Mừng đến bất cứ nơi nào anh chị em tới.

Xin Đức Trinh nữ Maria, Tòa Đấng Khôn ngoan, đồng hành và chuyển cầu cho anh chị em.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 28/10/2025]


Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Hôn nhân và Gia đình: những thách thức và cơ hội được Đức Thánh Cha Lêô XIV trình bày trước Viện Thần học Gioan Phaolô II

Hôn nhân và Gia đình: những thách thức và cơ hội được Đức Thánh Cha Lêô XIV trình bày trước Viện Thần học Gioan Phaolô II

Đức Thánh Cha Lêô XIV trong buổi Tiếp kiến đặc biệt — tại Hội trường Clementine của Điện Tông Tòa — với các giáo sư và sinh viên của Viện Thần học Giáo hoàng Gioan Phaolô II về Khoa học Hôn nhân và Gia đình Photo: Vatican Media

Hôn nhân và Gia đình: những thách thức và cơ hội được Đức Thánh Cha Lêô XIV trình bày trước Học viện Thần học Gioan Phaolô II

Diễn văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV trước các tham dự viên của Đại hội Thế giới các Phong trào Bình dân

25 THÁNG MƯỜI, 2025 15:41

ZENIT STAFF


(ZENIT News / Vatican City, 25.10.2025) – Vào thứ Sáu, ngày 24 tháng Mười, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã có buổi tiếp kiến đặc biệt — tại Hội trường Clementine của Điện Tông Tòa — với các giáo sư và sinh viên của Viện Thần học Giáo hoàng Gioan Phaolô II về Khoa học Hôn nhân và Gia đình, đặc biệt là của trụ sở ở Roma, cùng với một số đại diện từ các phân viện khác ngoài Roma. Đây là diễn văn đầu tiên về gia đình và hôn nhân gửi đến “Đại học” của Giáo hội chuyên về hai lãnh vực này.

Sau đây là diễn văn của Đức Thánh Cha.

_____________________________________


Hôn nhân và Gia đình: những thách thức và cơ hội được Đức Thánh Cha Lêô XIV trình bày trước Viện Thần học Gioan Phaolô II


Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.

Bình an ở cùng anh chị em!

Chào anh chị em!
Anh chị em thân mến,

Với niềm vui mừng, tôi xin chào đón anh chị em, những người hình thành nên cộng đồng học thuật quốc tế của Học viện Thần học Gioan Phaolô II về Khoa học Hôn nhân và Gia đình. Tôi gửi lời chào đến Đức Hồng y Baldassare Reina, Đại Chưởng ấn, và Đức ông Philippe Bordeyne, Viện trưởng, và tất cả anh chị em, các sinh viên thân yêu, cùng với các cựu sinh viên từ nhiều quốc gia đang quy tụ để mừng Năm Thánh. Chào mừng tất cả anh chị em!

Trong những bối cảnh xã hội, kinh tế và văn hóa khác nhau, những thách đố chúng ta phải đối mặt cũng rất đa dạng; tuy nhiên, ở mọi nơi và mọi thời đại, chúng ta được kêu gọi nâng đỡ, bảo vệ và thăng tiến gia đình, trước hết và trên hết là qua một cách sống phù hợp với Tin Mừng. Tính mong manh và giá trị của gia đình, khi được xét dưới ánh sáng đức tin và lý trí chân chính, đã thu hút các công trình nghiên cứu của anh chị em, mà anh chị em vun trồng vì lợi ích của các đôi bạn trẻ đính hôn sẽ trở thành vợ chồng, của các đôi vợ chồng sẽ trở thành cha mẹ, và của con cái họ, những người là lời hứa về một nhân loại được đổi mới trong tình yêu. Do đó, ơn gọi của Học viện của anh chị em, được khai sinh từ tầm nhìn tiên tri của Thánh Gioan Phaolô II sau Thượng Hội đồng Giám mục về Gia đình năm 1980, càng trở nên sáng tỏ hơn: hình thành một cơ quan học thuật duy nhất trải rộng trên khắp các Châu lục, nhằm đáp ứng các nhu cầu đào tạo, đồng thời gần gũi hơn với các đôi vợ chồng và các gia đình. Nhờ đó, các động lực mục vụ có thể được phát triển phù hợp hơn với thực tế địa phương và được truyền cảm hứng từ truyền thống sống động của Giáo hội cùng Học thuyết Xã hội của Giáo hội.

Qua việc tham gia vào sứ mạng và hành trình của toàn thể Giáo hội, Học viện của anh chị em góp phần vào việc làm sáng tỏ Huấn quyền của Giáo hoàng và việc đổi mới không ngừng cuộc đối thoại giữa đời sống gia đình, thế giới việc làm và công bằng xã hội, giải quyết các vấn đề mang tính thời sự cấp thiết như hòa bình, bảo vệ sự sống và chăm sóc sức khỏe, phát triển con người toàn diện, việc làm cho người trẻ, kinh tế bền vững, và cơ hội bình đẳng giữa nam và nữ — tất cả đều là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kết hôn và sinh con. Trong mối liên hệ ấy, sứ mạng đặc trưng của anh chị em liên quan đến việc tìm kiếm và làm chứng cho chân lý. Khi thực hiện nhiệm vụ này, thần học được mời gọi đối thoại với các ngành học khác nhau nghiên cứu về hôn nhân và gia đình, không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc nói lên chân lý về chúng, mà còn sống chân lý ấy trong ân sủng của Chúa Thánh Thần và theo gương Đức Kitô, Đấng đã mặc khải Chúa Cha cho chúng ta qua chính hành động và lời nói của Người.

Việc loan báo Tin Mừng, vốn làm biến đổi đời sống và xã hội, khiến chúng ta phải thúc đẩy các hành động có hệ thống và phối hợp nhằm hỗ trợ gia đình. Thành công của đời sống xã hội và chính trị của một quốc gia được đo lường đặc biệt qua cách nó tạo điều kiện cho các gia đình sống tốt, có thời gian cho nhau, và nuôi dưỡng những mối ràng buộc giữ họ hiệp nhất với nhau. Trong một xã hội thường đề cao năng suất và tốc độ mà làm tổn hại đến các mối tương quan, thì điều cấp bách là trả lại thời gian và không gian cho tình yêu học được trong gia đình, nơi những kinh nghiệm đầu tiên về sự tin tưởng, cho đi, và tha thứ đan xen vào nhau, những điều ấy tạo thành kết cấu nền tảng của đời sống xã hội.

Hôn nhân và Gia đình: những thách thức và cơ hội được Đức Thánh Cha Lêô XIV trình bày trước Viện Thần học Gioan Phaolô II

Tôi xúc động nhớ lại những lời của vị Tiền nhiệm của tôi, Đức Thánh Cha Phanxicô, khi ngài trìu mến nói với những phụ nữ đang mang thai, mời gọi họ gìn giữ niềm vui đem sự sống mới vào thế giới (x. Tông huấn Amoris Laetitia, 171). Những lời của ngài tóm lược một chân lý đơn sơ nhưng sâu sắc: sự sống con người là một hồng ân và phải luôn được đón nhận với lòng tôn trọng, chăm sóc, và biết ơn. Vì thế, trước thực trạng biết bao người mẹ phải trải qua thời kỳ mang thai trong cô độc hoặc bị gạt ra bên lề, tôi cảm thấy buộc phải nhắc lại rằng các cộng đồng dân sự và giáo hội phải luôn cam kết khôi phục lại phẩm giá trọn vẹn cho thiên chức làm mẹ. Để đạt được điều đó, cần có những sáng kiến cụ thể: các chính sách bảo đảm điều kiện sống và làm việc xứng đáng; các sáng kiến trong giáo dục và văn hóa tôn vinh vẻ đẹp của việc cùng nhau kiến tạo; và một chương trình mục vụ đồng hành với phụ nữ và nam giới bằng sự gần gũi và lắng nghe. Thiên chức làm mẹ và làm cha, khi được gìn giữ như vậy, hoàn toàn không phải là gánh nặng cho xã hội, mà đúng hơn là một nguồn hy vọng làm vững mạnh và đổi mới xã hội.

Quý giáo sư và các sinh viên thân mến, sự đóng góp của anh chị em vào việc phát triển Học thuyết Xã hội về Gia đình phù hợp với sứ mạng được Đức Thánh Cha Phanxicô trao phó cho Học viện của anh chị em trong Tông thư Summa Familiae Cura, trong đó ngài viết: “Tính trung tâm của gia đình trong hành trình hoán cải mục vụ nơi các cộng đoàn của chúng ta và trong công cuộc canh tân truyền giáo của Giáo hội đòi hỏi rằng, ngay cả trong lãnh vực đào tạo học thuật, việc suy tư về hôn nhân và gia đình không bao giờ được thiếu viễn cảnh mục vụ và sự quan tâm đến những vết thương của nhân loại.”

Trong những năm gần đây, Học viện của anh chị em đã đón nhận những chỉ dẫn của Tông hiến Veritatis Gaudium cho một nền thần học vun đắp tư tưởng cởi mở và đối thoại, một nền văn hóa “gặp gỡ giữa tất cả các nền văn hóa đích thực và sống động, thông qua sự trao đổi qua lại các ơn của họ trong không gian ánh sáng được mở ra bởi tình yêu của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi thụ tạo của Người” (số 4b). Do đó, anh chị em tìm cách áp dụng, dưới ánh sáng Mạc khải, một phương pháp liên ngành và xuyên ngành (x. Ibid, 4c). Trong viễn cảnh ấy, nền tảng vững chắc của các nghiên cứu triết học và thần học đã được làm phong phú nhờ sự tương tác với các ngành học khác, giúp khám phá các hướng nghiên cứu quan trọng.

Hôn nhân và Gia đình: những thách thức và cơ hội được Đức Thánh Cha Lêô XIV trình bày trước Viện Thần học Gioan Phaolô II

Trong số đó, tôi muốn nhắc lại, như một cam kết bổ sung, là việc đào sâu mối liên kết giữa gia đình và Học thuyết Xã hội của Giáo hội. Con đường này có thể phát triển theo hai hướng bổ túc lẫn nhau: đưa việc nghiên cứu gia đình trở thành một chương thiết yếu trong gia sản khôn ngoan mà Giáo hội đề xuất liên quan đến đời sống xã hội, đồng thời làm phong phú gia sản này bằng những kinh nghiệm và động lực gia đình, để hiểu rõ hơn các nguyên tắc nền tảng của giáo huấn xã hội của Giáo hội. Sự quan tâm này sẽ giúp phát triển trực giác được khơi gợi bởi Công đồng Vatican II và được các vị Tiền nhiệm của tôi nhiều lần nhắc lại, về việc xem gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là trường học đầu tiên và nền tảng của nhân loại.

Hơn nữa, về phương diện mục vụ, chúng ta không thể bỏ qua khuynh hướng xem thường, hoặc thậm chí là chối bỏ hôn nhân ở nhiều nơi trên thế giới. Tôi muốn mời gọi anh chị em, khi suy tư về việc chuẩn bị cho Bí tích Hôn phối, hãy chú tâm đến tác động ân sủng của Thiên Chúa trong trái tim của mỗi người nam và nữ. Ngay cả khi những người trẻ đưa ra các quyết định không phù hợp với con đường được Giáo hội đề xuất, không theo giáo huấn của Chúa Giêsu, thì Chúa vẫn tiếp tục gõ cửa trái tim họ, chuẩn bị họ đón nhận một tiếng gọi mới trong nội tâm. Nếu việc nghiên cứu thần học và mục vụ của anh chị em tập trung vào cuộc đối thoại cầu nguyện với Chúa, anh chị em sẽ tìm thấy can đảm để sáng tạo những từ ngữ mới có thể chạm sâu vào lương tâm của những người trẻ. Trên thực tế, thời đại của chúng ta không chỉ bị đánh dấu bởi những căng thẳng và hệ tư tưởng làm xáo trộn tâm hồn, mà còn bởi một cuộc tìm kiếm về đời sống tâm linh, chân lý, và công bằng ngày càng lớn, đặc biệt là nơi những người trẻ. Đón nhận và nuôi dưỡng khao khát ấy là một trong những nhiệm vụ đẹp đẽ và cấp bách nhất của tất cả chúng ta.Hôn nhân và Gia đình: những thách thức và cơ hội được Đức Thánh Cha Lêô XIV trình bày trước Viện Thần học Gioan Phaolô II

Sau cùng, tôi khuyến khích anh chị em hãy tiếp tục hành trình hiệp hành như một phần không thể thiếu trong tiến trình đào tạo của anh chị em. Đặc biệt trong một đại học quốc tế, cần phải thực hiện việc lắng nghe lẫn nhau để phân định tốt hơn cách cùng nhau phát triển trong việc phục vụ hôn nhân và gia đình. Hãy luôn hướng về “ơn gọi bí tích rửa tội của mình, đặt mối tương quan với Đức Kitô và việc đón nhận anh chị em mình, bắt đầu từ những người nghèo nhất, ở trung tâm đời sống” (Diễn văn gửi Tổng giáo phận Roma, ngày 19 tháng Chín năm 2025). Như thế, anh chị em sẽ làm điều mà mọi gia đình tốt lành đều làm, học hỏi từ chính thực tại mà mình mong muốn phục vụ. Như Tài liệu Đúc kết của Thượng Hội đồng Giám mục vừa qua khẳng định, “Gia đình là một nơi được đặc quyền để học hỏi và cảm nghiệm những thực hành căn bản của một Giáo hội hiệp hành. Dù phải trải qua những rạn nứt và đau khổ, gia đình vẫn là nơi chúng ta học cách chia sẻ hồng ân tình yêu, sự tin tưởng, lòng trắc ẩn, sự hòa giải, và sự thấu hiểu” (số 35). Có rất nhiều điều để học hỏi về việc truyền đạt đức tin, việc thực hành lắng nghe và cầu nguyện hằng ngày, giáo dục về tình yêu và hòa bình, tình huynh đệ với những người di cư và người xa lạ, và việc chăm sóc hành tinh. Trong tất cả các khía cạnh ấy, đời sống gia đình luôn đi trước sự nghiên cứu của chúng ta và hướng dẫn nó, đặc biệt thông qua những chứng tá của sự dâng hiến và thánh thiện.

Các sinh viên thân mến, thưa các giáo sư, hãy bắt đầu năm học mới với niềm hy vọng, vững tin rằng Chúa Giêsu luôn nâng đỡ chúng ta bằng ân sủng của Thần Khí sự thật và sự sống của Người. Tôi ban Phép lành Tông Tòa cho tất cả anh chị em. Cảm ơn anh chị em.


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/10/2025]


Kinh Truyền Tin 26.10.2025: Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi chúng ta khiêm nhường và chân thành trong cầu nguyện


Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi chúng ta khiêm nhường và chân thành trong cầu nguyện

Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin Chúa Nhật tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã suy niệm về dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế, làm nổi bật giá trị của sự sám hối và lòng trung thực trước Thiên Chúa.

Kinh Truyền Tin 26.10.2025: Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi chúng ta khiêm nhường và chân thành trong cầu nguyện

*******

Trong sứ điệp Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha Lêô XIV khích lệ các tín hữu sống khiêm nhường và chân thành trong cầu nguyện, lấy dụ ngôn về người Pharisêu và người thu thuế trong Tin Mừng theo Thánh Luca (18:9-14) làm mẫu gương.

Đức Thánh Cha giải thích rằng người Pharisêu, tự hào về công trạng và việc lành của mình, trở nên kiêu căng và phán xét người khác với sự khinh miệt. Ngài khẳng định: “Việc tuân giữ Lề Luật của ông ta thì chính xác, nhưng ông ta lại thiếu tình yêu thương và lòng thương xót.”

Ngược lại, người thu thuế nhận ra những lỗi lầm của mình và đến trước Thiên Chúa với lòng khiêm tốn: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi!” ông nói cách đơn sơ khi đứng ở phía cuối đền thờ, một mình và đầu cúi xuống. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu “dạy chúng ta rằng ai trình diện cách chân thành trước mặt Thiên Chúa và xin ơn tha thứ thì người ấy trở về nhà được nên công chính và được đổi mới.”

Thánh Augustinô so sánh thái độ này với một người bệnh, vì xấu hổ mà giấu giếm vết thương với thầy thuốc, trong khi người thu thuế, với lòng khiêm nhường, lại phơi bày vết thương và xin giúp đỡ. Đức Thánh Cha trích dẫn: “Không có gì đáng ngạc nhiên khi người thu thuế được chữa lành, bởi vì ông đã không hề ngần ngại cho thấy nỗi đau của mình.”

Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi các tín hữu nhận biết lỗi lầm, chịu trách nhiệm và tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, ghi nhớ rằng Nước Thiên Chúa “không thuộc về những kẻ kiêu căng, mà là của những người khiêm nhường” và được vun đắp qua lời cầu nguyện, sự chân thật, sự tha thứ và lòng biết ơn.

Cuối cùng, Ngài khẩn cầu Đức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của sự thánh thiện, hướng dẫn các tín hữu trong việc phát triển những nhân đức này.


Toàn văn Kinh Truyền Tin:


ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

KINH TRUYỀN TIN

Quảng trường Thánh Phêrô
Chúa Nhật, ngày 26 tháng Mười năm 2025

_______________________________________


Anh chị em thân mến, chúc anh chị em Chúa Nhật hạnh phúc!

Tin Mừng hôm nay (x. Lc 18:9-14) trình bày hai nhân vật, một người Pharisêu và một người thu thuế, đang cầu nguyện trong Đền Thờ.

Người thứ nhất khoe khoang một danh sách dài những công trạng. Ông ta đã làm nhiều việc lành, và vì lý do đó, ông cảm thấy vượt trội hơn những người khác, những kẻ mà ông phán xét một cách khinh miệt. Ông đứng thẳng với đầu ngẩng cao. Thái độ của ông rõ ràng là tự mãn, thể hiện việc tuân giữ lề luật cách nghiêm ngặt, nhưng lại nghèo nàn về tình yêu thương, chỉ dựa trên “cho” và “nhận”, trên công và tội, mà thiếu lòng thương xót.

Người thu thuế cũng cầu nguyện, nhưng theo một cách hoàn toàn khác. Ông rất cần được tha thứ: ông là một người thu thuế được Đế quốc La Mã trả lương, và ông làm việc theo một hợp đồng cho phép ông hưởng lợi trên số tiền thu được, gây thiệt hại cho đồng bào của mình. Tuy nhiên, ở cuối dụ ngôn, Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng chính người thu thuế mới là người trở về nhà “được nên công chính”, nghĩa là được tha thứ và được đổi mới nhờ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Tại sao?

Thứ nhất, người thu thuế có đủ can đảm và khiêm nhường để trình diện trước mặt Thiên Chúa. Ông không khép mình trong thế giới riêng hoặc buông xuôi với tội ác mình đã làm. Ông đã rời bỏ khỏi nơi mà ông được người ta sợ hãi, an toàn và được bảo vệ bởi quyền lực mà ông thi hành đối với người khác. Ông đi đến Đền Thờ một mình, không có người hộ tống, thậm chí phải đối mặt với những cái nhìn khinh bỉ và những lời phán xét nặng nề, và ông đứng trước Chúa, ở phía cuối, cúi đầu, thốt lên ít lời: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (c. 13).

Chúa Giêsu gửi cho chúng ta một thông điệp mạnh mẽ: chúng ta không được cứu rỗi bằng cách khoe khoang công trạng của mình, cũng không phải bằng cách che giấu những lỗi lầm của mình, nhưng bằng cách trình diện cách trung thực với chính con người thật của chúng ta trước mặt Chúa, trước bản thân và trước người khác, xin ơn tha thứ và phó thác vào ân sủng của Chúa.

Khi chú giải đoạn Tin mừng này, Thánh Augustinô so sánh người Pharisêu với một người bệnh vì xấu hổ và kiêu ngạo mà giấu giếm vết thương với thầy thuốc. Người thu thuế được ví như một người có lòng khiêm nhường và sự khôn ngoan, phơi bày vết thương của mình trước thầy thuốc, dù chúng có khó nhìn đến đâu, và xin được giúp đỡ. Thánh nhân kết luận: “Không có gì đáng ngạc nhiên khi người thu thuế ra về được chữa lành, bởi vì ông đã không xấu hổ khi chỉ ra chỗ ông bị đau” (Sermo 351,1).

Anh chị em thân mến, chúng ta cũng hãy làm như vậy. Đừng sợ nhìn nhận những lỗi lầm của chúng ta, phơi bày chúng, chịu trách nhiệm về chúng và phó thác chúng cho lòng thương xót của Thiên Chúa. Như thế, Nước Chúai — không thuộc về những kẻ kiêu ngạo mà là của những người khiêm nhường, và được xây dựng bằng cầu nguyện và hành động, bằng cách sống chân thật, tha thứ và biết ơn — sẽ lớn lên trong chúng ta và quanh chúng ta.

Chúng ta hãy cầu xin Đức Maria, mẫu gương của sự thánh thiện, giúp chúng ta lớn lên trong các nhân đức này.

__________________________________


Sau Kinh Truyền Tin

Anh chị em thân mến!

Tôi bày tỏ sự gần gũi sâu sắc với người dân miền đông Mexico, nơi bị ảnh hưởng bởi lũ lụt trong những ngày gần đây. Tôi cầu nguyện cho các gia đình và cho tất cả những ai đang đau khổ vì thảm họa này, và tôi phó thác cho Chúa linh hồn của những người đã qua đời, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Diễm Phúc.

Lời cầu nguyện cho hòa bình của chúng ta vẫn không ngừng dâng lên, đặc biệt qua việc cộng đoàn đọc Kinh Mân Côi. Khi ta cùng với Đức Trinh Nữ Maria chiêm ngắm các mầu nhiệm của Đức Kitô, chúng ta đón nhận nỗi đau khổ và niềm hy vọng của những trẻ em, những người mẹ, những người cha, và những người già là nạn nhân của chiến tranh. Và từ sự chuyển cầu chân thành này nảy sinh nhiều cử chỉ bác ái Tin Mừng, sự gần gũi cụ thể, và tinh thần liên đới. Với tất cả những ai đang thực hiện cam kết này với sự trung kiên tín thác mỗi ngày, tôi một lần nữa nói: “Phúc thay những ai xây dựng hòa bình!”

Tôi thân ái chào tất cả anh chị em, người Roma và anh chị em hành hương từ Ý và từ nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là những anh chị em đến từ Logroño ở Tây Ban Nha, San Pedro ở Paraguay, Recreio ở Brazil, và cộng đồng người Cuba đang sinh sống tại Châu Âu.

Tôi cũng gửi lời chào các tín hữu đến từ Ginosa, Genoa, Corato, Fornovo San Giovanni, Milan, San Giovanni Ilarione và Porto Legnago; các bạn trẻ đến từ Scicli; các thiếu niên lớp Thêm Sức từ Giáo phận Saluzzo; các Nữ tu Đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhân dịp mừng 150 năm thành lập; nhóm Hiệp Thông và Giải Phóng từ Pavia; và Ban Hợp xướng của Milazzo.

Cảm ơn tất cả anh chị em! Chúc anh chị em Chúa Nhật an vui!


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/10/2025]