Thứ Năm, 30 tháng 10, 2025

Diễn Văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV trước những tham dự viên cuộc Gặp gỡ Cầu nguyện Quốc tế vì Hòa bình do Cộng đoàn Sant’Egidio Tổ chức

Diễn Văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV trước những tham dự viên cuộc Gặp gỡ Cầu nguyện Quốc tế vì Hòa bình do Cộng đoàn Sant’Egidio Tổ chức

Diễn Văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV trước những tham dự viên cuộc Gặp gỡ Cầu nguyện Quốc tế vì Hòa bình do Cộng đoàn Sant’Egidio Tổ chức (Roma, 26-28 tháng 10 năm 2025), 28.10.2025

Sau đây là diễn văn của Đức Thánh Cha Lêô XIV, trước sự hiện diện của những vị lãnh đạo các tôn giáo, gửi đến những tham dự viên cuộc Gặp gỡ Cầu nguyện Quốc tế vì Hòa bình do Cộng đoàn Sant’Egidio tổ chức, diễn ra tại Roma từ ngày 26 đến 28 tháng 10 năm 2025:

Diễn Văn của Đức Thánh Cha

Kính thưa Đức Thượng phụ,
Thưa các Thượng phụ,
Thưa Quý vị Đại diện các Giáo hội Kitô giáo và các Tôn giáo lớn trên thế giới,

Chúng ta đã cùng nhau cầu nguyện cho hòa bình theo các truyền thống tôn giáo khác nhau của mình, và giờ đây chúng ta cùng quy tụ để công bố một thông điệp hòa giải. Những xung đột hiện diện trong mọi khía cạnh của cuộc sống, nhưng chiến tranh không giúp giải quyết hay tìm ra các giải pháp cho chúng. Hòa bình là một hành trình bền bỉ của hòa giải. Tôi cảm ơn quý vị đã đến đây để cầu nguyện cho hòa bình và để cho thế giới thấy rõ tầm quan trọng của việc cầu nguyện. Trái tim con người phải rộng mở cho hòa bình. Chính nhờ sự chiêm niệm mà chúng ta mở lòng mình ra, và chính trong cầu nguyện mà chúng ta thoát ra ngoài bản thân mình. Chúng ta hồi tâm để vượt lên chính mình. Đây là chứng tá của chúng ta: trao tặng những kho tàng vô giá của các linh đạo cổ xưa cho nhân loại đương đại.

Thế giới đang khao khát hòa bình. Chúng ta cần một kỷ nguyên hòa giải đích thực và bền vững, chấm dứt tình trạng lạm dụng quyền lực, phô trương vũ lực và làm ngơ trước luật pháp. Chiến tranh đã đủ rồi, với tất cả những nỗi đau mà nó mang đến qua cái chết, sự tàn phá và cảnh lưu vong! Quy tụ tại đây hôm nay, chúng ta không chỉ bày tỏ ước muốn mãnh liệt cho hòa bình, mà còn là niềm xác tín rằng cầu nguyện là một sức mạnh phi thường cho hòa giải. Những ai thực hành tôn giáo mà không cầu nguyện có nguy cơ lạm dụng nó, thậm chí đến mức gây sát hại. Cầu nguyện là một chuyển động của tinh thần và là sự mở rộng con tim. Đó không phải là những lời hét lên, không phô trương hành vi hay các khẩu hiệu tôn giáo chống lại các thụ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng cầu nguyện làm thay đổi dòng chảy lịch sử. Xin cho các nơi cầu nguyện trở thành những căn lều gặp gỡ, những thánh địa hòa giải và những ốc đảo hòa bình.

Ngày 27 tháng Mười năm 1986, Đức Gioan Phaolô đã mời các vị lãnh đạo tôn giáo từ khắp nơi trên thế giới đến Assisi để cầu nguyện cho hòa bình, và khẩn thiết xin họ: Xin chúng ta đừng bao giờ chống lại nhau nữa, mà hãy đứng bên nhau. Sự kiện lịch sử đó đã đánh dấu một bước ngoặt trong mối tương quan liên tôn. Năm này qua năm khác, những cuộc gặp gỡ cầu nguyện và đối thoại ấy vẫn tiếp tục trong “tinh thần Assisi,” tạo ra một bầu không khí huynh đệ giữa các vị lãnh đạo tôn giáo và đón nhận nhiều lời kêu gọi hòa bình. Ngày nay, dường như thế giới đã đi theo hướng ngược lại, nhưng chúng ta vẫn đón nhận thách đố của Assisi và ý thức về sứ mạng và trách nhiệm chung của chúng ta đối với hòa bình. Tôi cảm ơn Cộng đoàn Sant’Egidio và tất cả các tổ chức Công giáo cũng như ngoài Công giáo, những người vẫn giữ cho tinh thần này sống động, ngay cả khi phải đi ngược dòng.

Đối với Giáo hội Công giáo, lời cầu nguyện trong “tinh thần Assisi” dựa trên nền tảng vững chắc được xác lập trong Tuyên ngôn Nostra Aetate của Công đồng Vatican II, cụ thể là sự đổi mới mối tương quan giữa Giáo hội Công giáo và các tôn giáo khác. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 60 năm công bố Tuyên ngôn ấy, diễn ra vào ngày 28 tháng Mười năm 1965.

Cùng nhau, chúng ta tái khẳng định cam kết đối thoại và tình huynh đệ, một cam kết mà các Nghị phụ Công đồng mong ước và đã mang đến nhiều hoa trái. Như lời của Công đồng: “Chúng ta không thể thực sự cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, nếu chúng ta đối xử với bất kỳ ai theo cách không phải là chị em hoặc anh em, vì tất cả đều được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa” (Tuyên ngôn về mối Tương quan của Giáo hội với các Tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra Aetate, số 5). Tất cả các tín hữu là anh chị em. Và các tôn giáo, như là những “người mẹ,” phải khuyến khích các dân tộc đối xử với nhau như gia đình, không phải như kẻ thù. Vì “nhân loại là một cộng đồng duy nhất. Điều ấy là vì tất cả đều xuất phát từ một nguồn gốc chung” (Sđd., số 1).

Năm ngoái, khi quý vị họp mặt tại Paris, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết thư cho quý vị, tuyên bố rằng: “Chúng ta phải ngăn chặn các tôn giáo không rơi vào cám dỗ trở thành công cụ nuôi dưỡng những hình thức của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa vị chủng và chủ nghĩa dân túy. Chiến tranh chỉ làm leo thang thêm. Khốn cho những ai cố gắng lôi kéo Thiên Chúa đứng về phe mình trong các cuộc chiến tranh!”[1] Tôi xin được lấy những lời này làm của riêng mình và mạnh mẽ lặp lại: chiến tranh không bao giờ là thánh thiện; chỉ có hòa bình là thánh thiện, bởi vì đó là điều Thiên Chúa muốn!

Bằng sức mạnh của lời cầu nguyện, với đôi tay giơ lên trời và giang rộng hướng về người khác, chúng ta phải đảm bảo rằng giai đoạn lịch sử này, bị đánh dấu bởi chiến tranh và sự ngạo nghễ của quyền lực, sớm chấm dứt, nhường chỗ cho một kỷ nguyên mới. Chúng ta không thể cho phép thời kỳ này kéo dài. Nó định hình tâm trí của những người quen dần với chiến tranh như một phần bình thường của lịch sử nhân loại. Đủ rồi! Đây là tiếng kêu của người nghèo và cũng là tiếng kêu của trái đất. Đủ rồi! Lạy Chúa, xin lắng nghe tiếng kêu than của chúng con!

Đấng Đáng Kính Giorgio La Pira, một chứng nhân của hòa bình, đã viết cho Thánh Phaolô VI khi còn phục vụ trong chính trường trong những thời điểm đầy thách thức rằng: “Chúng ta khao khát một kỷ nguyên khác của lịch sử thế giới: kỷ nguyên của đàm phán, kỷ nguyên của một thế giới mới không còn chiến tranh”[2]. Hôm nay, hơn bao giờ hết, những lời này trở thành kim chỉ nam cho nhân loại.

Văn hóa hòa giải sẽ vượt thắng sự toàn cầu hóa tình trạng bất lực hiện tại, một tình trạng dường như đang nói với chúng ta rằng một kỷ nguyên khác là điều không thể. Nhưng đối thoại, đàm phán và hợp tác có khả năng giải quyết và xử lý những căng thẳng nảy sinh trong các tình huống xung đột. Chúng phải thực hiện như vậy! Các diễn đàn và con người cần thiết đã hiện hữu. “Chấm dứt chiến tranh là một bổn phận trọng đại trước mặt Thiên Chúa, đặt trên tất cả những ai nắm giữ trách nhiệm chính trị. Hòa bình là ưu tiên hàng đầu của mọi nền chính trị. Thiên Chúa sẽ đòi những người đã không tìm kiếm hòa bình, hoặc đã kích động căng thẳng và xung đột phải chịu trách nhiệm. Người sẽ đòi họ phải trả lẽ về tất cả những ngày, tháng và năm của chiến tranh”[3].

Là các nhà lãnh đạo tôn giáo, đây là lời kêu gọi chân thành mà chúng ta gửi đến những người nắm quyền trong các chính phủ. Chúng ta cùng chia sẻ ước muốn hòa bình cho tất cả các dân tộc. Chúng ta là tiếng nói của những người không được lắng nghe, và những người không có tiếng nói. Chúng ta phải “dám sống vì hòa bình”!

Dù thế giới có ngoảnh mặt bịt tai trước lời kêu gọi này, chúng ta vẫn tin chắc rằng Thiên Chúa sẽ lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta, và tiếng kêu than của biết bao người đau khổ. Thiên Chúa muốn một thế giới không còn chiến tranh. Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi sự dữ này!


_____________________________________

[1] Francis, Message to Participants in the International Meeting for Peace Organized by the Community of Sant’Egidio, 17 September 2024.

[2] G. La Pira, Abbattere muri, costruire ponti, Cinisello Balsamo 2015, 802.

[3] Francis, Address for the International Meeting of Prayer for Peace “No One is Saved Alone. Peace and Fraternity,” Rome, Campidoglio, 20 October 2020.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 30/10/2025]


Tiếp Kiến Đức Thượng phụ Mar Awa III của Giáo hội Assyria phương Đông, 27.10.2025

Tiếp Kiến Đức Thượng phụ Mar Awa III của Giáo hội Assyria phương Đông, 27.10.2025

*******
Tiếp Kiến Đức Thượng phụ Mar Awa III của Giáo hội Assyria phương Đông, 27.10.2025

Sáng nay, tại Điện Tông Tòa Vatican, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã tiếp kiến Đức Thượng phụ Mar Awa III của Giáo Hội Assyria phương Đông, cùng với các thành viên của Ủy Ban Hỗn Hợp Quốc Tế về Đối Thoại Thần Học giữa Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội Assyria phương Đông.

Sau đây là bài diễn văn của Đức Thánh Cha gửi đến những người hiện diện trong buổi tiếp kiến:


Diễn Văn của Đức Thánh Cha

Thưa Đức Thượng phụ,
Anh em trong Đức Kitô thân mến,

“Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Êp 1:2). Với những lời này của Thánh Phaolô, tôi xin chào mừng Đức Thượng phụ như một người anh em yêu quý trong Đức Kitô, và một lần nữa bày tỏ lòng biết ơn về sự hiện diện của ngài trong lễ khai mạc triều đại giáo hoàng của tôi. Tôi cũng xin gửi lời chào thân ái đến các thành viên của Ủy Ban Hỗn hợp về Đối thoại Thần học giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Assyria phương Đông.

Các chuyến thăm kết hợp này của Đức Thượng phụ của Giáo Hội Assyria phương Đông cùng với các thành viên của Ủy Ban, tạo nên một truyền thống đẹp trong những năm gần đây. Chúng làm chứng cho sự thật rằng sự gặp gỡ huynh đệ và đối thoại thần học là những yếu tố cấu thành lẫn nhau trên con đường tiến đến sự hiệp nhất. “Đối thoại sự thật” là một cách biểu đạt của tình yêu đã liên kết các Giáo hội chúng ta, trong khi “đối thoại bác ái” cũng phải được hiểu theo khía cạnh thần học.

Chuyến thăm gần đây nhất của Đức Thượng phụ và các anh em, vào năm 2024, đã đánh dấu ba mươi năm đối thoại chính thức giữa các Giáo hội chúng ta. Tiến trình đã đạt được trong những năm qua thật đáng kể, vì đã trung thành đi theo định hướng và phương pháp được thiết lập bởi các vị tiền nhiệm của chúng ta. Như được khẳng định trong Tuyên ngôn chung của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Đức Thượng phụ Mar Dinkha IV, “để đạt tới sự hiệp thông trọn vẹn và hoàn toàn, cần phải có sự đồng thuận về nội dung của đức tin, các bí tích, và cơ cấu của Giáo hội.”

Ba yếu tố này đã trở thành khuôn khổ cho các giai đoạn tiếp theo trong cuộc đối thoại thần học của chúng ta. Sau khi đạt được sự đồng thuận về đức tin Kitô học, qua đó giải quyết cuộc tranh cãi kéo dài 1.500 năm, cuộc đối thoại của chúng ta đã tiến triển với sự công nhận lẫn nhau về các bí tích, cho phép một mức độ “hiệp thông trong các việc thánh" (communicatio in sacris) giữa hai Giáo hội chúng ta. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến từng anh em, các nhà thần học của Ủy Ban Hỗn Hợp, vì những đóng góp vô giá và những nỗ lực chung của anh em, nếu không có những đóng góp ấy thì các thỏa thuận về giáo lý và mục vụ này đã không thể thực hiện được.

Liên quan đến cơ cấu của Giáo Hội – trọng tâm hiện tại của cuộc đối thoại – thách đố chính nằm ở việc cùng nhau phát triển một mô hình hiệp thông trọn vẹn, được truyền cảm hứng từ thiên niên kỷ thứ nhất, đồng thời đáp ứng cách thận trọng với những thách đố của thời đại chúng ta. Như các vị tiền nhiệm của tôi đã nhiều lần nhấn mạnh, một mô hình như vậy không được bao gồm sự đồng hóa hay sự thống trị; thay vào đó, cần phải thúc đẩy sự trao đổi các hồng ân giữa hai Giáo hội chúng ta, được nhận lãnh từ Chúa Thánh Thần để xây dựng Thân Thể Chúa Kitô (x. Êp 4:12). Tôi mong đợi những hoa trái từ cuộc đối thoại thần học mà anh em đang tiến hành về vấn đề này, được thực hiện “cùng nhau, dĩ nhiên là thế,” như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã thiết tha mong ước trong Thông Điệp Ut Unum Sint của ngài (số 95).

Trên hành trình tiến đến sự hiệp thông trọn vẹn này, tính hiệp hành thể hiện như một con đường đầy triển vọng để tiến bước. Trong chuyến thăm của Đức Thượng phụ năm 2022, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đặt ra cách diễn đạt mà sau này được đưa vào Văn kiện Chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục gần đây về Tính Hiệp hành của Giáo hội Công giáo, tôi xin trích dẫn: “Hành trình hiệp hành mà Giáo hội Công giáo thực hiện mang tính đại kết và phải là đại kết, cũng như chính hành trình đại kết mang tính hiệp hành” (For a Synodal Church: Communion, Participation, Mission, 23). Trong tinh thần của Thượng Hội đồng ấy, tôi chân thành hy vọng rằng kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa sẽ dẫn đưa chúng ta “thực hành những hình thức hiệp hành giữa các Kitô hữu thuộc mọi truyền thống,” và truyền cảm hứng cho chúng ta với những “cách thực hành hiệp hành mang chiều kích đại kết mới” (sđd., số 138-139).

Xin cho chúng ta tiếp tục cuộc hành hương này, được củng cố nhờ lời cầu nguyện của tất cả các thánh của hai Giáo Hội chúng ta, đặc biệt là Thánh Isaac thành Nineve, mà năm ngoái tên của ngài đã được thêm vào Sách Tử đạo Roma (Roman Martyrology). Nhờ lời chuyển cầu của các ngài, xin cho các Kitô hữu ở Trung Đông luôn làm chứng trung thành cho Đức Kitô phục sinh, và xin cho cuộc đối thoại của chúng ta mau đến ngày được chúc phúc, khi chúng ta sẽ cùng nhau cử hành trên cùng một bàn thờ, chia sẻ cùng một Mình và Máu của Đấng Cứu Chuộc chúng ta, “để thế gian tin” (Ga 17:21).

Hiệp nhất trong lời cầu nguyện với Đấng Cứu Chuộc chúng ta, giờ đây tôi mời tất cả anh chị em cùng tôi đọc Kinh Lạy Cha. Lạy Cha chúng con…


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/10/2025]