Thứ Năm, 28 tháng 9, 2023

Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người tại buổi Tiếp Kiến chung ngày 27.09.2023: “Giấc mơ chung: phục hồi Địa Trung hải như phòng thí nghiệm hòa bình”

“Giấc mơ chung: phục hồi Địa Trung hải như phòng thí nghiệm hòa bình”

Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người tại buổi Tiếp Kiến chung

Đức Thánh Cha kêu gọi mọi người tại buổi Tiếp Kiến chung ngày 27.09.2023: “Giấc mơ chung: phục hồi Địa Trung hải như phòng thí nghiệm hòa bình”

Vatican Media


*******

Buổi tiếp kiến chung sáng nay được tổ chức lúc 9 giờ sáng tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Trong huấn từ bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha tập trung nói về chuyến Tông du gần đây của ngài đến Marseilles nhân dịp hội nghị “Rencontres Méditerranéennes”.

Sau phần tóm lược bài giáo lý bằng các ngôn ngữ khác nhau, Đức Thánh Cha gửi lời chào đặc biệt đến các tín hữu hiện diện.

Buổi tiếp kiến chung kết thúc bằng Kinh Lạy Cha và Phép lành Tòa Thánh.

_______________________________________

Chuyến tông du đến Marseille tham dự hội nghị “Rencontres Méditerranéennes”

Anh chị em thân mến!

Cuối tuần trước tôi đã đến Marseille để tham dự phiên họp bế mạc hội nghị Rencontres Méditerranéennes (Cuộc gặp gỡ Địa Trung hải), có sự tham dự của các Giám mục và các thị trưởng của vùng Địa Trung Hải, cùng với nhiều bạn trẻ, để tầm nhìn của họ rộng mở cho tương lai. Thật vậy, sự kiện diễn ra ở Marseille được gọi là “Bức tranh khảm của hy vọng”. Đây là giấc mơ, đây là thách thức: Địa Trung Hải có thể khôi phục lại ơn gọi của nó, đó là trở thành một phòng thí nghiệm của nền văn minh và hòa bình.

Như chúng ta biết, Địa Trung hải là cái nôi của nền văn minh và là cái nôi của sự sống! Quả thật không thể chấp nhận được nếu nó trở thành mồ chôn và cũng không thể là nơi xung đột. Biển Địa Trung hải hoàn toàn trái ngược với sự đụng độ giữa các nền văn minh, chiến tranh, nạn buôn người. Hoàn toàn ngược lại vì Địa Trung hải là phương tiện liên lạc giữa Châu Phi, Châu Á và Châu Âu; giữa miền bắc và miền nam, miền đông và miền tây, giữa con người và văn hóa, giữa các dân tộc và ngôn ngữ, giữa các triết học và tôn giáo. Tất nhiên, về mặt nào đó biển cả luôn là vực thẳm cần phải vượt qua, thậm chí nó có thể trở nên nguy hiểm. Nhưng nguồn nước của nó bảo vệ kho báu sự sống; sóng và gió của nó mang theo đủ loại tàu thuyền.

Hai ngàn năm trước, Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô đã khởi đi từ bờ biển phía đông của nó. Tất nhiên, việc này [loan báo Tin Mừng] không xảy ra theo cách như phép thuật, cũng không phải được thực hiện một lần và cho tất cả. Đó là thành quả của một hành trình trong đó mỗi thế hệ được mời gọi thực hiện một đoạn đường, đọc những dấu chỉ của thời đại mình đang sống.

Cuộc họp ở Marseille diễn ra sau các cuộc họp tương tự đã được tổ chức ở Bari năm 2020 và ở Florence năm ngoái. Đó không phải là một sự kiện biệt lập mà là một bước tiến trong hành trình bắt đầu từ “Hội thảo Địa Trung Hải” do ngài Giorgio La Pira, Thị trưởng Florence tổ chức vào cuối những năm 1950. Hôm nay nó là một bước tiến để đáp lại lời kêu gọi của Thánh Phaolô VI đưa ra trong Thông điệp Populorum progressio của ngài, nhằm thúc đẩy “một cộng đồng thế giới nhân văn hơn, nơi tất cả mọi người đều có thể cho và nhận, và ở đó sự tiến bộ của một số người không được đánh đổi bằng cái giá phải trả của người khác.” (số 44).

Từ sự kiện ở Marseille đưa ra những gì? Đó là một tầm nhìn về Địa Trung Hải mà tôi gọi đơn giản là con người, không phải là hệ tư tưởng, không phải là chiến lược, không phải đúng về mặt chính trị cũng không mang tính công cụ; hoàn toàn không, chỉ là con người, nghĩa là có khả năng quy mọi sự về giá trị đầu tiên của nhân vị và phẩm giá bất khả xâm phạm của con người. Đồng thời, một cái nhìn đầy hy vọng xuất hiện. Ngày nay, điều này thật đáng ngạc nhiên – khi anh chị em nghe lời chứng của những người đã sống qua các hoàn cảnh phi nhân, hoặc những người cùng chịu chung những hoàn cảnh đó, và chính họ mang đến cho anh chị em một “lời tuyên bố hy vọng”. Và cũng là một cái nhìn huynh đệ.

Thưa anh chị em, niềm hy vọng này, tình huynh đệ này không được phép “bốc hơi”; không, đúng hơn nó cần được tổ chức, cụ thể hóa bằng những hành động mang tính dài hạn, trung hạn và ngắn hạn để người dân, với phẩm giá trọn vẹn, có thể lựa chọn di cư hoặc không di cư. Địa Trung Hải phải là một thông điệp hy vọng.

Nhưng còn có một khía cạnh bổ sung khác: niềm hy vọng cần được khôi phục trong các xã hội Châu Âu của chúng ta, đặc biệt nơi các thế hệ trẻ. Thật vậy, làm sao chúng ta có thể chào đón người khác nếu bản thân chúng ta trước hết không có một chân trời rộng mở hướng tới tương lai? Làm thế nào để những người trẻ nghèo hy vọng, khép kín trong đời sống riêng tư của họ, lo lắng về việc quản lý tình trạng bấp bênh của mình, có thể mở lòng để gặp gỡ người khác và chia sẻ? Xã hội của chúng ta, nhiều lần bị nhiễm bởi căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu dùng và chủ nghĩa thoát ly thực tế trống rỗng, cần phải rộng mở, tâm hồn và tinh thần của họ cần được cung cấp dưỡng khí, thì khi đó họ mới có thể đọc cuộc khủng hoảng như một cơ hội và giải quyết nó cách tích cực.

Châu Âu cần khôi phục nhiệt huyết và lòng hăng say. Và tôi có thể nói rằng tôi đã tìm thấy nhiệt huyết và lòng hăng say ở Marseille: nơi người Mục tử của thành phố là Đức Hồng Y Aveline; nơi các linh mục và những người thánh hiến; nơi các giáo dân tận tâm cho công việc bác ái, giáo dục; nơi Dân Chúa đã thể hiện lòng nhiệt thành trong Thánh lễ tại sân vận động Vélodrome. Tôi xin cảm ơn tất cả họ và ngài Tổng thống nước Cộng hòa mà sự hiện diện của ông đã làm chứng rằng toàn thể nước Pháp đang chú ý đến sự kiện ở Marseille. Xin Đức Mẹ, Đấng mà người dân Marseille tôn kính với tước hiệu Notre Dame de la Garde, đồng hành cùng cuộc hành trình của các dân tộc Địa Trung Hải để khu vực này có thể trở thành đúng như tên mà nó được gọi – một bức tranh khảm của nền văn minh và hy vọng.

__________________________________________


Lời chào đặc biệt

Cha gửi lời chào thân ái đến những anh chị em hành hương và du khách nói tiếng Anh tham gia buổi tiếp kiến hôm nay, đặc biệt là các nhóm đến từ Na Uy, Hà Lan, Nam Phi, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Canada và Hoa Kỳ. Cha gửi lời chào đặc biệt đến lớp phó tế của Học viện Giáo hoàng Bắc Mỹ, cùng với gia đình và bạn bè của họ. Cha khẩn xin niềm vui và sự bình an của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tuôn đổ xuống trên tất cả anh chị em. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em!


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 28/9/2023]


Tại Marseilles Đức Thánh Cha nói về Địa Trung hải như cái nôi của nền văn minh và nghĩa trang của phẩm giá

Tại Marseilles Đức Thánh Cha nói về Địa Trung hải như cái nôi của nền văn minh và nghĩa trang của phẩm giá

Final Session Of The Mediterranean Meetings Photo: Vatican Media

Tại Marseilles Đức Thánh Cha nói về Địa Trung hải như cái nôi của nền văn minh và nghĩa trang của phẩm giá

*******

(ZENIT News / Marseilles-Rome, 23.09.2023). - Lý do chuyến đi của Đức Thánh Cha đến Marseilles là để bế mạc “Những cuộc họp về Địa Trung Hải”, một loạt các sự kiện liên quan đến vấn đề di cư ở khu vực này của hành tinh, nơi nối liền ba Châu lục: Châu Âu, Châu Phi và Châu Á.

23 tháng Chín, 2023 22:59



(ZENIT News / Marseilles-Rome, 23.09.2023). - Lý do chuyến đi của Đức Thánh Cha đến Marseilles là để bế mạc “Những cuộc họp về Địa Trung Hải”, một loạt các sự kiện liên quan đến vấn đề di cư ở khu vực này của hành tinh, nơi nối liền ba Châu lục: Châu Âu, Châu Phi và Châu Á. Tổng thống Emmanuel Macron đã có mặt trong Phiên họp cuối.

Dưới đây là toàn văn diễn từ của Đức Thánh Cha.

________________________________________

Thưa ngài Tổng thống,

Thưa các huynh đệ Giám mục,

Thưa các vị Thị trưởng và Chính quyền đại diện cho các thành phố và vùng lãnh thổ giáp biển Địa Trung Hải,

Các bạn thân mến!

Tôi xin gửi lời chào thân ái đến các bạn và tôi xin cảm ơn từng người đã nhận lời mời của Đức Hồng Y Aveline tham dự các cuộc họp này. Cảm ơn các bạn vì công việc và những phản ánh có giá trị mà các bạn đã chia sẻ. Sau Bari và Florence, hành trình phục vụ các dân tộc vùng Địa Trung Hải đang tiến triển: cũng tại đây, các nhà lãnh đạo Giáo hội và dân sự tập trung không phải để giải quyết những lợi ích chung, nhưng được thúc đẩy bởi mong muốn quan tâm đến mọi người. Cảm ơn các bạn đã bao gồm giới trẻ, những người là hiện tại và tương lai của Giáo hội và xã hội.

Marseilles là một thành phố rất cổ kính. Được thành lập bởi các thủy thủ người Hy Lạp đến từ vùng Tiểu Á, truyền thuyết kể về câu chuyện tình giữa một thủy thủ di cư và một công chúa người bản địa. Ngay từ đầu, thành phố đã thể hiện đặc tính đa dạng và tính quốc tế: nó đón chào sự giàu có của biển cả và trở thành quê hương cho những người không còn quê hương. Marseilles nói với chúng ta rằng, bất kể những khó khăn, việc chung sống vẫn là điều có thể và là nguồn vui. Trên bản đồ, nó gần như vẽ nên nụ cười giữa Nice và Montpellier. Tôi thích suy nghĩ về thành phố theo cách đó: Marseilles là “nụ cười của Địa Trung Hải”. Vì vậy, tôi muốn gửi đến quý vị một số suy tư tập trung vào ba khía cạnh đặc trưng của Marseilles, ba biểu tượng: biển cả, hải cảng và ngọn hải đăng.

Biển cả. Một làn sóng các dân tộc đã biến thành phố này thành một bức tranh khảm của hy vọng, với truyền thống đa sắc tộc và đa văn hóa rất lớn, được đại diện bởi hơn sáu mươi Lãnh sự quán trên lãnh thổ của nó. Marseilles vừa là một thành phố đa dạng vừa khác biệt, chính vì sự đa dạng của nó, là kết quả của cuộc gặp gỡ với thế giới làm cho lịch sử của nó trở nên khác biệt. Ngày nay chúng ta thường nghe nói rằng lịch sử Địa Trung Hải là sự đan xen của những xung khắc giữa các nền văn minh, tôn giáo và tầm nhìn khác nhau. Chúng ta không bỏ qua những vấn đề đang tồn tại, nhưng cũng đừng để mình bị lạc lối: sự giao thoa giữa các dân tộc đã biến Địa Trung Hải trở thành cái nôi của nền văn minh, một vùng biển tràn ngập những kho báu, đến mức, như một đại sử gia người Pháp đã viết , đó “không phải một cảnh quan mà là vô số cảnh quan. Không phải một biển, mà là hàng loạt các biển liên tiếp nối nhau… hàng thiên niên kỷ, mọi thứ đã tuôn đổ vào đó, làm phức tạp và làm phong phú thêm lịch sử của nó” (F. Braudel, La Méditerranée, Paris 1985, 16). Vùng biển chung của chúng ta (mare nostrum) là nơi gặp gỡ: giữa các tôn giáo thuộc tổ phụ Abraham; giữa tư tưởng Hy Lạp, Latinh và Ả Rập; giữa khoa học, triết học và luật pháp; và giữa nhiều thực tại khác. Nó đã chuyển tải cho thế giới giá trị cao quý của con người, được trời ban tặng sự tự do, rộng mở với sự thật và cần ơn cứu rỗi, nhìn thế giới như một kỳ công cần được khám phá và như một khu vườn để sinh sống, dưới dấu ấn của một Thiên Chúa đã lập giao ước với con người

Một vị Thị trưởng vĩ đại nhìn thấy ở Địa Trung Hải không phải là vấn đề xung đột mà là câu trả lời cho hòa bình, thật vậy là “sự khởi đầu và nền tảng của hòa bình giữa tất cả các quốc gia trên thế giới” (G. La Pira, La Pira, Remarks at the Conclusion of the First Mediterranean Colloquium, ngày 6 tháng Mười năm 1958). Ông nói:

“Câu trả lời… là khả thi nếu chúng ta xét đến ơn gọi chung và có thể nói là đời đời mà Đấng Quan phòng đã giao phó trong quá khứ, trong hiện tại, và theo một nghĩa nào đó, sẽ giao phó trong tương lai cho các dân tộc và quốc gia đang sống trên các bờ Hồ Tibêria rộng lớn bí ẩn này, đó là Địa Trung Hải” (Diễn văn khai mạc Hội thảo Địa Trung Hải đầu tiên, ngày 3 tháng 10 năm 1958).

Vào thời Đức Kitô, Hồ Tibêria, hay Biển hồ Galilê, là nơi tập trung nhiều dân tộc, tín ngưỡng và truyền thống khác nhau. Chính tại đó, tại “Galilê miền đất của Dân ngoại” (x. Mt 4:15), đường tàu thuyền vượt qua, là nơi diễn ra phần lớn cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Một bối cảnh đa diện và không ổn định về nhiều mặt đã là nơi để công bố các Mối phúc cách phổ quát, nhân danh một Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, Đấng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5:45). Đây cũng là một lời mời gọi hãy mở rộng biên giới của tâm hồn, vượt qua các rào cản về sắc tộc và văn hóa. Và đây là câu trả lời đến từ Địa Trung hải: Biển hồ Galilee ngàn xưa này kêu gọi chúng ta chống lại sự chia rẽ của các mối xung đột bằng “sự cùng tồn tại của những khác biệt” (T. Bello, Benedette inquietudini, Milan 2001, 73).

Nằm ở đường giao nhau giữa Bắc và Nam, Đông và Tây, biển của chúng ta tập hợp những thách thức của toàn thế giới, như “năm bờ biển” mà quý vị đã phản ánh minh chứng: Bắc Phi, Cận Đông, Biển Đen và Biển Aegean, vùng Balkan và Châu Âu Latinh. Nó là tiền đồn của những thách thức mà mọi người đều quan tâm: chúng ta hãy nghĩ đến khí hậu, với Địa Trung Hải là một điểm nóng nơi những thay đổi được cảm nhận nhanh hơn. Điều vô cùng quan trọng là bảo vệ sự ghép nối của Địa Trung hải, một kho tàng đa dạng sinh học duy nhất! Nói tóm lại, vùng biển này, một môi trường mang lại cách tiếp cận độc đáo đối với sự phức tạp, là một “tấm gương của thế giới” và mang trong mình ơn gọi toàn cầu hướng tới tình huynh đệ, một ơn gọi và là cách duy nhất để ngăn chặn và vượt qua xung đột.

Thưa anh chị em, giữa biển cả của những xung đột ngày nay, chúng ta có mặt ở đây để tăng cường sự đóng góp cho Địa Trung Hải, để nó có thể trở lại là một phòng thí nghiệm hòa bình. Vì đây là ơn gọi của nó, trở thành một nơi mà các quốc gia và những thực tại khác nhau có thể gặp gỡ trên nền tảng nhân tính mà tất cả chúng ta cùng chia sẻ, chứ không dựa trên cơ sở những hệ tư tưởng đối chọi. Thật vậy, Địa Trung Hải thể hiện một lối suy nghĩ không mang tính đồng nhất và ý thức hệ, nhưng mang tính đa diện và phù hợp với bản chất của mọi sự; một lối suy nghĩ sống động, cởi mở và thích nghi, một lối suy nghĩ mang tính cộng đồng, và đây là từ ngữ chuẩn xác. Chúng ta rất cần điều này cho thời điểm hiện tại, khi những chủ nghĩa dân tộc cổ hủ và hiếu chiến muốn làm phai mờ giấc mơ của cộng đồng các quốc gia! Tuy nhiên – chúng ta hãy nhớ điều này – với vũ khí, chúng ta tạo ra chiến tranh chứ không phải hòa bình, và với lòng tham quyền lực, chúng ta luôn quay về quá khứ thay vì xây dựng tương lai.

Vậy chúng ta nên bắt đầu từ đâu để hòa bình được bén rễ? Trên bờ Biển hồ Galilê, Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc trao niềm hy vọng cho người nghèo và tuyên bố họ là người có phúc: Người lắng nghe những nhu cầu của họ, chữa lành vết thương cho họ và trên hết là loan báo cho họ tin mừng về Nước Trời. Chúng ta cần bắt đầu lại từ đó, từ tiếng kêu thầm lặng của những người bé mọn nhất trong chúng ta, chứ không phải từ những người may mắn hơn, những người không cần giúp đỡ nhưng vẫn lên tiếng. Chúng ta, Giáo hội và xã hội dân sự, hãy bắt đầu lại bằng cách lắng nghe người nghèo “cần được ôm lấy chứ không phải được đếm bằng con số” (P: Mazzolari, La parola ai poveri, Bologna 2016, 39), vì họ là những gương mặt chứ không phải những con số.

Sự thay đổi hướng đi trong cộng đồng của chúng ta nằm ở việc cư xử với họ như những người anh chị em mà chúng ta biết rõ câu chuyện của họ, chứ không phải là những vấn đề rắc rối hay xua đuổi họ, đuổi họ về nhà; nó nằm ở việc chào đón họ chứ không che giấu họ; trong việc hoà nhập họ, không đuổi họ đi; trong việc mang lại cho họ phẩm giá. Tôi muốn nhắc lại rằng Marseilles là thủ phủ của sự hội nhập các dân tộc. Anh chị em có thể tự hào về điều này! Ngày nay, vùng biển chung sống của con người bị ô nhiễm bởi sự bất ổn, thậm chí còn tấn công cả thành phố Marseille xinh đẹp. Nơi đâu có bất ổn nơi đó có tội phạm. Nơi nào thiếu việc làm cùng với tình trạng nghèo đói về vật chất, giáo dục, văn hóa và tôn giáo, thì con đường sẽ mở ra cho các băng đảng và nạn buôn lậu trái phép. Cam kết của các tổ chức thôi là chưa đủ, chúng ta cần một cú hích lương tâm để nói “không” với tình trạng vô luật pháp, và “có” đối với tình liên đới, điều không phải là một giọt nước trong đại dương, mà là yếu tố không thể thiếu để thanh lọc nước biển.

Quả thực, tệ nạn xã hội không nằm ở chỗ gia tăng các vấn đề mà do giảm bớt sự quan tâm. Ngày nay ai là người lân cận của những người trẻ bị bỏ rơi, những người dễ trở thành con mồi cho tội phạm và mại dâm? Ai chăm sóc họ? Ai gần gũi với những người trở thành nô lệ cho công việc để giúp họ được tự do hơn? Ai quan tâm đến những gia đình đang sợ hãi, sợ hãi về tương lai và sợ việc đưa con cái vào đời? Ai lắng nghe tiếng than thở của những anh chị em cao tuổi bị cô lập của chúng ta, những người thay vì được trân trọng lại bị gạt sang một bên, dưới cái mỹ từ giả tạo là cái chết đúng phẩm giá và “ngọt ngào” nhưng thật ra lại “mặn” hơn cả nước biển? Ai nghĩ đến những đứa trẻ chưa chào đời, bị từ chối nhân danh quyền tiến bộ giả tạo, mà thật ra là thu vén vào những nhu cầu ích kỷ cá nhân? Ngày nay chúng ta nhìn thấy thảm kịch của việc nhầm lẫn trẻ em với động vật. Ngài thư ký của tôi nói với tôi rằng khi ngài đi ngang qua Quảng trường Thánh Phêrô, ngài nhìn thấy một số phụ nữ đang đẩy những xe nôi cho trẻ… nhưng trong đó không phải là trẻ em, chúng là những con chó! Sự nhầm lẫn này cho chúng ta thấy điều đáng lo ngại. Ai là người có lòng trắc ẩn nhìn vượt qua những bờ biển của mình để nghe thấy tiếng kêu đau đớn vang lên từ Bắc Phi và Trung Đông? Biết bao người đang sống trong bạo lực và chịu đựng những hoàn cảnh bất công và bách hại! Ở đây tôi đang nghĩ đến nhiều Kitô hữu thường bị buộc phải rời bỏ quê hương hoặc ở lại mà không được công nhận các quyền của họ, và không được hưởng quyền công dân đầy đủ. Xin chúng ta hãy cam kết để tất cả mọi người trong xã hội đều có thể trở thành những công dân có đầy đủ quyền. Cuối cùng, có một tiếng kêu đau đớn âm vang hơn tất cả, và nó đang biến Địa Trung Hải, vùng biển chung của nhiều quốc gia, từ cái nôi của nền văn minh thành mare mortuum, nghĩa trang của phẩm giá: đó là tiếng kêu nghẹn ngào của những anh chị em di dân. Tôi muốn nhấn mạnh sự chú ý đến tiếng kêu này qua việc phản ánh hình ảnh thứ hai mà Marseilles cung cấp cho chúng ta, đó là hình ảnh bến cảng của thành phố.

Cảng Marseilles là cửa ngõ rộng mở ra biển, đến Pháp và châu Âu trong nhiều thế kỷ. Từ đây nhiều người đã ra đi để tìm việc làm và tương lai ở nước ngoài, và từ đây nhiều người đã đi qua cửa ngõ vào lục địa với hành trang tràn đầy hy vọng. Marseilles có một cảng lớn và là một cửa ngõ khổng lồ không thể đóng lại. Mặt khác, một số cảng của Địa Trung Hải đã đóng cửa. Và có hai từ ngữ vang lên, lấp đầy nỗi sợ hãi của mọi người: “xâm lược” và “tình trạng khẩn cấp”. Vì vậy họ đã đóng cửa các cảng. Tuy nhiên, những người liều mạng sống vượt biển không xâm lược, họ tìm kiếm sự chào đón, họ tìm kiếm sự sống. Vì tình trạng khẩn cấp, hiện tượng di cư không phải là một vấn đề cấp bách ngắn hạn, thuận tiện cho việc thúc đẩy những tuyên truyền gây hoang mang, mà nó là một thực tế của thời đại chúng ta, một tiến trình liên quan đến ba lục địa xung quanh Địa Trung Hải và phải được quản lý bằng tầm nhìn xa đầy khôn ngoan, trong đó có phản ứng của Châu Âu đủ khả năng đối phó với những khó khăn khách quan. Tôi đang nhìn ở đây, trên bản đồ này, các cảng được người di cư ưa chọn: Síp, Hy Lạp, Malta, Ý và Tây Ban Nha… Các quốc gia hướng ra Địa Trung Hải và tiếp nhận những di dân. Vùng biển chung kêu đòi công lý, với các bờ biển của nó mà một bên toát lên sự giàu có sung túc, chủ nghĩa tiêu dùng và lãng phí, bên kia lại là sự nghèo đói và bất ổn. Ở đây, Địa Trung Hải cũng phản chiếu thế giới, với miền Nam hướng về miền Bắc, với nhiều nước đang phát triển, bị cản trở bởi sự bất ổn, hệ thống cai trị, chiến tranh và tình trạng sa mạc hóa, nhìn về những đất nước giàu có, trong một thế giới toàn cầu hóa mà tất cả chúng ta đều kết nối với nhau, nhưng lại là thế giới có sự bất quân bình chưa bao giờ lớn hơn. Tuy nhiên, tình trạng này không phải là vấn đề mới trong những năm gần đây, và vị Giáo hoàng đến từ bên kia thế giới không phải là người đầu tiên cảnh báo về nó cách cấp bách và đầy quan ngại. Giáo hội đã nói về nó cách tha thiết trong hơn năm mươi năm qua.

Ngay sau khi kết thúc Công đồng Vatican II, Thánh Phaolô VI, trong Tông huấn Populorum Progressio đã viết:

“Các quốc gia đói khát trên thế giới đang cất tiếng kêu xin những dân tộc được ân ban dồi dào. Và Giáo hội, đau đớn trước tiếng kêu này, kêu gọi mỗi con người hãy lắng nghe lời cầu xin của người anh em mình và đáp lại theo cách đầy yêu thương” (số 3).

Đức Giáo hoàng Phaolô đã liệt kê “ba nhiệm vụ” đối với các quốc gia phát triển hơn, “xuất phát từ tình huynh đệ và siêu nhiên của con người”:

“Tương thân tương ái – sự viện trợ mà các quốc gia giàu có hơn phải dành cho các quốc gia đang phát triển; tính công bằng xã hội – điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các quốc gia mạnh và yếu; bác ái phổ quát – nỗ lực xây dựng một cộng đồng thế giới nhân bản hơn, nơi tất cả mọi người đều có thể cho và nhận, và sự tiến bộ của một số người không được đổi lại bằng sự tổn hại của những người khác” (Số 44).

Năm 1967, dưới ánh sáng Tin Mừng và những cân nhắc này, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh rằng “bổn phận thể hiện sự tiếp đón mến khách đối với những người nước ngoài” là một nghĩa vụ trong đó ngài viết: “chúng ta không thể đòi hỏi quá nhiều” (Số 67). Mười lăm năm trước, Đức Giáo hoàng Piô XII khuyến khích điều này khi viết rằng “Thánh Gia khi sống tha hương, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse di tản sang Ai Cập… là mẫu mực, gương mẫu và sự nương tựa cho tất cả những người di cư và lữ hành thuộc mọi thời đại, mọi quốc gia, và tất cả những người tị nạn trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù bị bách hại hay vì thiếu thốn, bị buộc phải rời bỏ quê hương và cha mẹ thân yêu của mình… và đi tìm một vùng đất xa lạ” (Tông Hiến Exsul Familia de spirituali emigrantium cura, ngày 1 tháng Tám năm 1952).

Chắc chắn không ai là không nhìn thấy những khó khăn trong việc chào đón. Những di dân phải được chào đón, được bảo vệ hoặc đồng hành, thăng tiến và hội nhập. Nếu điều này không xảy ra thì người di dân cuối cùng sẽ bị đẩy ra bên lề xã hội. Được chào đón, được đồng hành, thăng tiến và hội nhập: đây là phong cách. Đúng là không dễ để có được phong cách này hoặc hòa nhập những người không mong đợi, tuy nhiên tiêu chuẩn chính không phải là bảo tồn hạnh phúc của riêng mình, mà là bảo vệ phẩm giá con người.

Không nên coi những người nương náu giữa chúng ta như một gánh nặng phải gánh: thay vào đó, nếu chúng ta xem họ như những người anh chị em, thì trên hết họ sẽ đến với chúng ta như những món quà. Ngày mai chúng ta cử hành Ngày Thế giới Di dân và người Tị nạn. Ước mong chúng ta được đánh động trước những câu chuyện của rất nhiều anh chị em bất hạnh của chúng ta, những người có quyền di cư hoặc không di cư, và không bị khóa chặt trong sự thờ ơ. Lịch sử đang thách thức chúng ta thực hiện một bước nhảy về lương tâm để tránh cú đắm tàu của nền văn minh. Vì tương lai sẽ không nằm trong sự khép kín, vì đó là quay về quá khứ, một sự quay ngược trong hành trình lịch sử. Trước tai họa khủng khiếp của việc bóc lột con người, giải pháp không phải là từ chối mà là bảo đảm một số lượng nhiều đường vào hợp pháp và thường xuyên, tùy theo khả năng của mỗi quốc gia. Điều này sẽ mang tính bền vững qua việc đón chào hợp tình hợp lý từ phía Lục địa Châu Âu, trong bối cảnh hợp tác với các quốc gia quê hương của người di cư. Trong khi đó, nếu chỉ kêu lên “đủ rồi!” là nhắm mắt lại; bây giờ cố gắng “tự cứu mình” sẽ trở thành bi kịch vào ngày mai. Các thế hệ tương lai sẽ cảm ơn chúng ta nếu chúng ta có thể tạo điều kiện cho sự hội nhập cần thiết. Bằng không, họ sẽ chê trách chúng ta nếu chúng ta chỉ ưu tiên những hình thức đồng hóa vô ích. Sự hòa nhập của người di cư là một nỗ lực mệt mỏi nhưng có tầm nhìn xa; một sự đồng hóa không cân nhắc đến những khác biệt và vẫn giữ các mô hình riêng của nó cách cứng nhắc chỉ khiến cho ý tưởng chiếm ưu thế hơn thực tế và gây nguy hiểm cho tương lai, tăng thêm khoảng cách và kích động sự phân biệt chủng tộc, từ đó gây ra sự thù địch và các hình thức bất khoan dung. Chúng ta cần tình huynh đệ như chúng ta cần lương thực. Gốc của từ “anh em” trong từ nguyên Ấn-Âu bắt nguồn từ một từ gốc gắn liền với dinh dưỡng và chất bổ dưỡng. Chúng ta sẽ chỉ giúp được mình bằng cách nuôi dưỡng những người dễ bị tổn thương nhất bằng niềm hy vọng, chấp nhận họ như anh chị em. Kinh Thánh dạy chúng ta rằng “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách” (Dt 13:2). Và trong Cựu Ước điều này được lặp lại: bà góa, trẻ mồ côi và khách lạ. Ba bổn phận bác ái: giúp đỡ người góa bụa, giúp đỡ trẻ mồ côi và giúp đỡ người lạ, người di cư.

Về mặt này, cảng Marseilles cũng là “cánh cửa của đức tin”. Theo truyền thống, chính tại đây các Thánh Macta, Maria và Lazarô đã đặt chân tới và gieo hạt giống Tin Mừng tại những vùng đất này. Đức tin đến từ biển, như chúng ta được nhắc nhở bởi truyền thống Lễ Nến của Marseilles và cuộc rước ở ven biển của lễ. Trong Tin Mừng, Lazarô là người bạn của Chúa Giêsu, nhưng cũng là tên của nhân vật chính trong một dụ ngôn luôn hợp thời của Chúa, một dụ ngôn mở mắt chúng ta trước sự bất bình đẳng làm xói mòn tình huynh đệ và nói với chúng ta về sự ưu ái của Chúa đối với người nghèo. Là những người Kitô hữu tin vào Thiên Chúa làm người, vào Đấng duy nhất không thể bắt chước được, Đấng trên bờ Địa Trung Hải gọi mình là đường, là sự thật và là sự sống (x. Ga 14:6), chúng ta không thể chấp nhận việc đóng cửa những con đường gặp gỡ. Xin chúng ta đừng đóng lại những con đường gặp gỡ! Chúng ta không thể chấp nhận rằng thần Mammon (tiền của) đánh bại nhân phẩm, rằng sự sống sẽ biến thành cái chết! Giáo hội công bố rằng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô “một cách nào đó đã hiệp nhất với mỗi con người” (Tông huấn Gaudium et Spes, 22) và cùng với Thánh Gioan Phaolô II tin rằng nhân loại là con đường của Giáo hội (x. Thông điệp Redemptor Hominis, 14 ). Thờ phượng Chúa và phục vụ những người dễ bị tổn thương nhất, là kho báu của Chúa. Hãy tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, đó mới là điều quan trọng: không phải là tầm quan trọng xã hội hay con những con số khổng lồ, mà là lòng trung thành với Chúa và với nhân loại!

Đây là chứng tá Kitô giáo, và thường là sự anh dũng: chẳng hạn tôi nghĩ đến Thánh Charles de Foucauld, “người anh em phổ quát” của các vị tử đạo ở Algeria, nhưng cũng là của tất cả những người làm bác ái trong thời đại chúng ta. Trong cách sống Tin Mừng gây chướng mắt này, Giáo Hội khám phá ra bến bờ vững chắc để cập bến và từ đó ra khơi để thắt chặt các mối liên kết với người dân của mọi quốc gia, tìm kiếm khắp mọi nơi dấu vết của Thánh Thần và cống hiến tất cả những gì Giáo hội nhận được bởi ân sủng. Đây là thực tại thuần khiết nhất của Giáo hội, đây là – như Bernanos viết – “Giáo hội của các vị thánh”, đồng thời nói thêm rằng “cơ cấu khổng lồ của sự khôn ngoan, sức mạnh, kỷ luật, sự tráng lệ và nghi nga này tự nó chẳng là gì, nếu nó không được truyền cảm hứng từ lòng bác ái” (Jeanne, relapse et sainte, Paris, 1994, 74).

Tôi vui mừng ca ngợi cái nhìn đặc biệt sâu sắc của nhà văn Pháp này, thiên tài sáng tạo Kitô giáo này đã tái khẳng định rất nhiều sự thật thông qua nhiều hành động và bài viết. Thánh Caesarius thành Arles nói rằng: “Nếu bạn có đức ái, bạn có Thiên Chúa; và nếu bạn có Chúa, bạn còn thiếu điều gì?” (Bài giảng 22, 2). Pascal nhận ra rằng “mục tiêu duy nhất của Kinh thánh là đức ái” (Pensées, số 301) và rằng “sự thật bên ngoài đức ái không phải là Thiên Chúa mà chỉ là hình ảnh của Ngài và một ngẫu tượng mà người ta không được yêu mến hay tôn thờ” (ibid., số 767). Do đó, Thánh John Cassian, người đã qua đời ở đây, viết rằng “Mọi thứ, ngay cả những gì chúng ta coi là hữu ích và cần thiết, đều có giá trị thấp hơn sự tốt lành đó là hòa bình và bác ái” (Collationes, XVI, 6).

Vì thế, thật đúng khi người Kitô hữu phải là người đi đầu về đức ái; và Tin Mừng bác ái là Hiến chương của mọi công tác mục vụ. Chúng ta không được kêu gọi để khóc than về những thời gian đã qua, hoặc tái xác định vai trò của Giáo hội trong xã hội; chúng ta được mời gọi làm chứng nhân, không thêu dệt Tin Mừng bằng lời nói, nhưng làm cho Tin Mừng trở thành xác thịt; không lo lắng về việc chúng ta có được nhìn thấy hay không nhưng cống hiến cách nhưng không, tin rằng “thước đo của Chúa Giêsu là tình yêu không tính toán” (Bài giảng, ngày 23 tháng Hai năm 2020). Thánh Phaolô, Tông đồ của các dân tộc, người đã dành phần lớn cuộc đời của ngài băng qua Địa Trung Hải từ bến cảng này sang bến cảng khác, đã dạy rằng để chu toàn luật của Chúa Kitô, cần phải mang lấy gánh nặng cho nhau (x. Gl 6:2). Thưa các anh em Giám mục, chúng ta đừng tạo gánh nặng cho người khác, nhưng hãy làm nhẹ bớt gánh nặng của họ nhân danh Tin Mừng thương xót, để hân hoan loan truyền niềm an ủi của Chúa Giêsu cho nhân loại đang rã rời và tổn thương. Ước mong Giáo hội không phải là một danh sách các quy định mà là một bến bờ hy vọng cho những ai đã mất lòng tin. Xin anh em hãy mở rộng tấm lòng của mình! Ước mong Giáo hội là một bến bờ nghỉ ngơi, nơi mọi người cảm thấy được động viên dấn thân vào cuộc sống với sức mạnh không gì sánh được sinh ra từ niềm vui Kitô giáo. Ước mong Giáo hội không phải là một trạm hải quan. Chúng ta hãy nhớ những gì Chúa nói với chúng ta: mọi người, mọi người, mọi người đều được mời.

Bây giờ tôi xin nói ngắn gọn về hình ảnh cuối cùng, hình ảnh ngọn hải đăng chiếu những luồng sáng xuống biển và giúp mọi người có thể nhìn thấy bến cảng. Những ngọn đèn hiệu sáng chói nào có thể hướng dẫn lộ trình của các Giáo hội Địa Trung hải? Nghĩ về biển cả, nơi liên kết rất nhiều cộng đồng tín hữu khác nhau, tôi tin rằng người ta có thể suy nghĩ về những cách hợp tác nhiều hơn nữa, có lẽ cũng nên xem xét sự hữu ích của một hội nghị giáo hội Địa Trung Hải, như Đức Hồng y Aveline đã đề cập, có thể mang lại những cơ hội lớn hơn cho việc đối thoại trong khu vực và đại diện. Đồng thời, khi nghĩ đến các bến cảng và chủ đề di cư, sẽ rất hữu ích nếu hướng tới một chương trình mục vụ thậm chí cụ thể liên kết chặt chẽ hơn, để những giáo phận dễ bị ảnh hưởng nhất có thể cung cấp sự trợ giúp tốt nhất về tinh thần và con người cho các anh chị em của chúng ta đến đó và đang vô cùng thiếu thốn.

Cuối cùng, ngọn hải đăng, trong cung điện danh giá mang tên của nó, khiến tôi đặc biệt nghĩ đến giới trẻ. Họ là ánh sáng chỉ đường hướng đến tương lai. Marseilles là một thành phố đại học tuyệt vời với bốn cơ sở; trong số 35.000 sinh viên của trường, có 5.000 sinh viên nước ngoài. Chúng ta bắt đầu dệt nên những mối quan hệ giữa các nền văn hóa từ đâu, nếu không phải từ các Đại học? Ở đó, người trẻ không bị cuốn hút bởi sự cám dỗ của quyền lực mà bởi ước mơ xây dựng tương lai. Mong sao các Đại học của vùng Địa Trung hải trở thành phòng thí nghiệm cho những giấc mơ và xưởng xây dựng tương lai, nơi những người trẻ trưởng thành qua việc gặp gỡ nhau, tìm hiểu nhau đồng thời khám phá các nền văn hóa và bối cảnh vừa gần gũi vừa đa dạng. Bằng cách này, những thành kiến được gỡ bỏ, những vết thương được chữa lành và những luận điệu theo trào lưu chính thống bị bác bỏ. Hãy cảnh giác trước lời rao giảng của rất nhiều trào lưu chính thống đang thịnh hành ngày nay! Những người trẻ khi được chuẩn bị tốt và quen với việc hòa nhập xã hội sẽ có thể mở ra những cánh cửa đối thoại bất ngờ. Nếu chúng ta muốn họ cống hiến hết mình cho Tin Mừng và phục vụ cho hoạt động chính trị cao cả, trước hết chúng ta cần trở nên khả tín: quên mình, không quy chiếu về bản thân, tận tâm cống hiến không mệt mỏi cho tha nhân. Tuy nhiên, thách thức chính của giáo dục liên quan đến mọi lứa tuổi: bắt đầu từ thiếu nhi, bằng cách “hòa nhập” với những trẻ em khác, chúng có thể vượt qua những rào cản, vượt qua những định kiến và phát triển bản sắc riêng của chúng trong bối cảnh cùng làm phong phú cho nhau. Giáo hội chắc chắn có thể đóng góp vào việc này bằng cách cung cấp mạng lưới giáo dục của mình và khuyến khích “tính sáng tạo của tình huynh đệ”.

Thưa anh chị em, thách thức đó cũng là một thách thức của thần học Địa Trung Hải – thần học phải bắt nguồn từ cuộc sống, một thần học trong phòng thí nghiệm không hiệu quả – có khả năng phát triển những lối suy nghĩ bắt nguồn từ thực tế, một “ngôi nhà” cho con người chứ không chỉ là dữ liệu kỹ thuật, sẵn sàng đoàn kết các thế hệ bằng cách liên kết ký ức và tương lai, đồng thời thúc đẩy hành trình đại kết của các Kitô hữu và cuộc đối thoại giữa các tín đồ thuộc những tôn giáo khác nhau cách sáng tạo. Có thể sẽ rất thú vị khi bắt đầu cuộc phiêu lưu tìm kiếm này, cả triết học lẫn thần học, bằng cách rút ra từ các nguồn văn hóa của Địa Trung Hải, có thể khôi phục lại niềm hy vọng cho con người, một mầu nhiệm tự do, cần đến Thiên Chúa và tha nhân để mang đến ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Cũng cần phải suy tư về mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng không ai có thể chiếm hữu hoặc kiểm soát, và thay vào đó, Đấng phải được bảo vệ tránh tất cả mọi lạm dụng thuộc bạo lực và công cụ, với ý thức rằng việc tuyên xưng sự cao cả của Người đòi hỏi chúng ta là những người tìm phải khiêm nhường.

Anh chị em thân mến, tôi vui mừng được đến Marseilles này! Ngài Tổng thống đã mời tôi đến thăm nước Pháp, nhưng ông nói: “Quan trọng là Đức Giáo hoàng phải đến Marseilles!” Vậy là tôi đến! Tôi cám ơn anh chị em đã kiên nhẫn lắng nghe tôi và vì mọi nỗ lực của anh chị em. Hãy tiếp tục công việc tốt đẹp đầy can đảm của anh chị em! Hãy là một đại dương thiện hảo, để đương đầu với tình trạng nghèo đói ngày nay trong tình liên đới và hợp tác; hãy là một bến cảng chào đón, để đón nhận tất cả những ai đang tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn; hãy là ngọn hải đăng hòa bình, để xuyên thủng những vực thẳm tối tăm của bạo lực và chiến tranh bằng văn hóa gặp gỡ. Cảm ơn anh chị em rất nhiều!


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/9/2023]


Thứ Hai, 25 tháng 9, 2023

Kinh Truyền Tin của ĐTC ngày 24.09.2023: Suy niệm từ dụ ngôn người làm công nhật

“Tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa: vượt ngoài sự công bằng của con người”

Kinh Truyền Tin: Suy niệm từ dụ ngôn người làm công nhật

Kinh Truyền Tin của ĐTC ngày 24.09.2023: Suy niệm từ dụ ngôn người làm công nhật

Vatican Media


*******

Vào lúc 12 giờ trưa hôm nay (ND: 24.09.2023), Đức Thánh Cha Phanxicô xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc trong Điện Tông Tòa Vatican để đọc Kinh Truyền Tin cùng với các tín hữu và khách hành hương tập trung tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Sau đây là huấn từ của Đức Thánh Cha trước khi đọc kinh kính Đức Mẹ:

__________________________________________


Trước Kinh Truyền tin

Anh chị em thân mến, buongiorno!

Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta một dụ ngôn thật kinh ngạc: người chủ vườn nho đi ra ngoài từ sáng sớm cho đến tối để gọi một số người làm công, nhưng cuối cùng, ông trả công cho mọi người bằng nhau, kể cả những người chỉ làm việc một giờ (x. Mt 20:1-16). Có vẻ như là một sự bất công, nhưng không thể đọc dụ ngôn theo các tiêu chí về tiền lương; đúng hơn, dụ ngôn có ý cho chúng ta thấy những tiêu chuẩn của Thiên Chúa, Đấng không tính toán công trạng của chúng ta, nhưng yêu thương chúng ta như những đứa con.

Chúng ta hãy xét kỹ hơn hai hành động của Chúa xuất hiện trong câu chuyện. Thứ nhất, Thiên Chúa luôn luôn ra đi để kêu gọi chúng ta; thứ hai, Ngài trả cho mọi người cùng một “quan tiền”.

Trước hết, Thiên Chúa là Đấng luôn luôn ra đi để kêu gọi chúng ta. Dụ ngôn kể rằng ông chủ “vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình” (c. 1), và sau đó ra ngoài vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày cho đến khi mặt trời lặn, để tìm những người chưa có ai thuê làm việc. Như thế, chúng ta hiểu rằng trong dụ ngôn, những người làm việc không chỉ là con người, mà trên hết là Thiên Chúa, Đấng ra đi cả ngày không mệt mỏi. Thiên Chúa là như thế: Ngài đến với chúng ta mà không chờ đợi những nỗ lực của chúng ta, Ngài không kiểm tra để đánh giá phẩm chất của chúng ta trước khi tìm kiếm chúng ta, Ngài không bỏ cuộc nếu chúng ta chậm đáp lại lời Ngài; trái lại, chính Ngài đã chủ động, và trong Chúa Giêsu, “ra đi” – đến với chúng ta, để cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài. Và Ngài tìm kiếm chúng ta vào mọi thời điểm trong ngày, tượng trưng cho các giai đoạn và các mùa khác nhau trong cuộc đời chúng ta cho đến tuổi già, như Thánh Grêgôriô Cả nói (x. Homilies on the Gospel, 19). Với tấm lòng của Chúa, không bao giờ là quá muộn; Chúa luôn tìm kiếm và chờ đợi chúng ta. Chúng ta đừng quên điều này: Chúa luôn tìm kiếm chúng ta và luôn chờ đợi chúng ta!

Chính vì Chúa quá rộng lượng nên Thiên Chúa – đây là hành động thứ hai – trả cho mọi người với cùng một “quan tiền”, đó là tình yêu của Người. Đây là ý nghĩa sau cùng của dụ ngôn: những người làm công vào giờ cuối cùng được trả lương như người đầu tiên bởi vì trên thực tế công lý của Thiên Chúa là công lý cao cả. Công lý đó vượt xa hơn. Công lý của con người nói rằng “hãy trả cho mỗi người tùy theo những gì họ xứng đáng”, trong khi công lý của Thiên Chúa không đo lường tình yêu theo thang điểm thành quả, thành tích hay thất bại của chúng ta: Chúa yêu thương chúng ta, Người yêu chúng ta vì chúng ta là con cái Người , và Thiên Chúa làm như vậy với một tình yêu vô điều kiện, một tình yêu cho đi một cách tự do.

Thưa anh chị em, đôi khi chúng ta có nguy cơ đi vào mối quan hệ “thương mại” với Thiên Chúa, tập trung nhiều vào công lao của chúng ta hơn là vào lòng quảng đại của ân sủng của Chúa. Đôi khi, ngay cả với tư cách là Giáo hội, thay vì đi ra ngoài tại mọi thời điểm trong ngày và dang rộng vòng tay với mọi người, chúng ta lại có thể cảm thấy mình như là người đứng đầu lớp, phán xét người khác từ xa mà không nghĩ rằng Thiên Chúa cũng yêu thương họ với cùng một tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta. Và ngay cả trong các mối quan hệ của chúng ta, vốn theo cơ cấu của xã hội, công lý mà chúng ta thực hành đôi khi không thoát ra vòng cương toả của sự tính toán, và chúng ta giới hạn việc cho đi tương ứng với những gì chúng ta nhận được, không dám đi xa hơn một chút, mà không chú ý đến hiệu quả của việc tốt lành được thực hiện cách tự do và tình yêu thương được trao đi với tấm lòng rộng mở. Thưa anh chị em, chúng ta hãy tự hỏi: tôi, một người Kitô hữu, có biết cách hướng tới tha nhân không? Tôi có quảng đại với mọi người không, tôi có biết cách trao tặng thêm sự thấu hiểu và tha thứ không, như Chúa Giêsu đã và đang làm với tôi mỗi ngày?

Xin Đức Mẹ giúp chúng ta biến đổi theo thước đo của Thiên Chúa: thước đo của tình yêu không tính toán.

_________________________________________


Sau Kinh Truyền tin

Anh chị em thân mến!

Hôm nay là Ngày Thế giới Di dân và người Tị nạn, với chủ đề: “Tự do lựa chọn di cư hay ở lại”, để nhắc nhở rằng di cư phải là một lựa chọn tự do, và không bao giờ là lựa chọn duy nhất. Thật vậy, quyền di cư giờ đây đã trở thành một nghĩa vụ đối với nhiều người, trong khi đó phải có quyền không di cư, quyền ở lại quê hương của mình. Điều cần thiết là mọi người phải được bảo đảm quyền được sống một đời sống đúng phẩm giá trong xã hội mà họ đang sống. Thật đáng buồn, nghèo đói, chiến tranh và khủng hoảng khí hậu đã buộc rất nhiều người phải chạy trốn. Vì vậy, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm tạo ra những cộng đồng sẵn sàng và rộng mở để chào đón, thăng tiến, đồng hành và hội nhập những người đến gõ cửa nhà chúng ta.

Thách đố này là trọng tâm của Hội nghị Rencontres Méditerranéennes, diễn ra trong những ngày gần đây ở Marseille, và tôi đã tham dự phiên bế mạc hôm qua, khi đến thành phố đó, nơi giao nhau của các dân tộc và văn hóa.

Tôi đặc biệt cảm ơn các giám mục của Hội đồng Giám mục Ý đã làm mọi việc có thể để giúp đỡ những anh chị em di dân của chúng ta. Chúng ta vừa nghe Đức Tổng Giám mục Baturi trên truyền hình, trong chương trình “A Sua Immagine” giải thích về vấn đề này.

Cha gửi lời chào tất cả anh chị em, người Roma và khách hành hương từ nước Ý và nhiều quốc gia, đặc biệt là chủng viện giáo phận quốc tế Redemptoris Mater ở Cologne, Đức. Cha cũng chào nhóm người bị ảnh hưởng bởi căn bệnh hiếm gặp được gọi là ataxia, cùng với các thành viên gia đình của họ.

Tôi nhắc lại lời mời gọi tham gia buổi canh thức cầu nguyện đại kết mang tên “Cùng nhau”, sẽ diễn ra vào Thứ Bảy ngày 30 tháng Chín sắp tới tại Quảng trường Thánh Phêrô, để chuẩn bị cho Hội nghị Thượng Hội đồng sẽ bắt đầu ngày 4 tháng Mười.

Chúng ta hãy nhớ đến Ukraine bị bao vây và cầu nguyện cho dân tộc đang phải chịu nhiều đau khổ này.

Cha chúc tất cả anh chị em Chúa nhật tốt lành. Xin đừng quên cầu nguyện cho cha. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng, và arrivederci!



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/9/2023]


Đức Giáo Hoàng đến thăm một trong những quận nghèo nhất nước Pháp

Đức Giáo Hoàng đến thăm một trong những quận nghèo nhất nước Pháp

Đức Giáo Hoàng đến thăm một trong những quận nghèo nhất nước Pháp

YARA NARDI / POOL / AFP

I.Media

23/09/23


Các nữ tu của Mẹ Teresa đã sắp xếp để Đức Thánh Cha có thể dành thời gian với khoảng 50 khách mời.

Vào sáng ngày thứ hai trong chuyến thăm Marseille, ngày 23 tháng Chín năm 2023, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dành một khoảng thời gian riêng cho những người túng thiếu tại một trung tâm được điều hành bởi Dòng Thừa sai Bác ái – các nữ tu của Mẹ Teresa – ở Saint-Mauront, quận nghèo nhất của thành phố Marseille.

Đức Giáo hoàng 86 tuổi đến thành phố của Pháp vào ngày 22 tháng Chín. Ngay sau đó ngài gặp gỡ hàng chục người đến từ Hiệp hội Fratello, một hiệp hội ngài biết rất rõ. Hiệp hội này được thành lập ở Pháp năm 2014 và đã giúp thúc đẩy Ngày Thế giới Người nghèo.

Sáng nay, Đức Thánh Cha đã có nhiều cuộc họp riêng khác, đầu tiên với Phó Chủ tịch Ủy ban Châu Âu, chính trị gia Margaritis Schinas người Hy Lạp, và sau đó với đại diện của các tổ chức giúp đỡ người di cư trên biển.

Sau những cuộc gặp gỡ không chính thức này, Đức Thánh Cha người Argentine đã đến quận Saint-Mauront, nơi được biết đến là một trong những quận nghèo nhất ở Pháp. Hơn 50 người chờ đón ngài tại nhà của Dòng Thừa Sai Bác Ái.

Đức Thánh Cha được một nhóm nhỏ người hân hoan chào đón trong sân với những biểu ngữ chào mừng bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Một vòng hoa được các nữ tu quàng trên cổ ngài theo truyền thống của Ấn độ.

Ông Yannick, 52 tuổi đến từ Marseilles, nằm trong số những người có mặt, ông nói với các phóng viên rằng ông rất vui mừng trước chuyến thăm của Đức Giám mục Roma, và ca ngợi “tinh thần cao thượng” của các nữ tu vẫn luôn “giữ tinh thần tốt” mặc dù họ phải đối mặt với tình trạng “thiếu tôn trọng” khi đứng trước những thực tại khắc nghiệt của đường phố.

Trong cuộc gặp gỡ không có phóng viên ghi hình này, Đức Thánh Cha Phanxicô tặng cộng đoàn một tượng Thánh Giuse ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng trên tay.

Sau đó, Đức Giáo hoàng trở lại Palais du Pharo để tham dự phiên bế mạc hội nghị Rencontres Méditerranéennes.

Ngài đến Marseille để tham dự sự kiện quy tụ các giám mục của những quốc gia quanh vùng Địa Trung Hải để thảo luận về những thách thức chung của các quốc gia đó.

Đáng chú ý là vấn đề di cư, vì Đức Thánh Cha cảm thán rằng Địa Trung Hải giống như một nghĩa trang.

Tổ chức Di trú Quốc tế cho biết ít nhất 2.000 người đã thiệt mạng kể từ đầu năm khi cố vượt Địa Trung Hải. Từ năm 2014, tổ chức này thống kê được 27.364 người chết và mất tích trên biển.



[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/9/2023]


Thứ Hai, 18 tháng 9, 2023

Huấn từ kinh Truyền tin của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 17.09.2023

“Tha thứ là liều thuốc giải độc cho sự căm thù và oán giận”

Huấn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô trước giờ đọc kinh Truyền tin

Huấn từ kinh Truyền tin của Đức Thánh Cha Phanxicô ngày 17.09.2023

Vatican Media


*******

Vào lúc 12 giờ trưa hôm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô xuất hiện tại cửa sổ phòng làm việc trong Điện Tông tòa Vatican để đọc Kinh Truyền Tin cùng các tín hữu và khách hành hương tập trung tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Sau đây là huấn từ của Đức Thánh Cha trước khi đọc kinh kính Đức Mẹ:

______________________________________________


Trước kinh Truyền tin

Anh chị em thân mến, buongiorno!

Hôm nay Tin Mừng nói với chúng ta về sự tha thứ (x. Mt 18:21-35). Thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” (câu 21).

Trong Kinh Thánh số Bảy là con số biểu thị sự trọn vẹn, và vì vậy Phêrô rất hào phóng khi đưa ra những giả định trong câu hỏi của ông. Nhưng Chúa Giêsu còn đi xa hơn và trả lời ông: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (c. 22). Nghĩa là Chúa nói với Phêrô rằng khi tha thứ chúng ta không tính toán; rằng thật tốt khi tha thứ mọi sự, và luôn luôn! Như Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, và như những người thực thi công lý của Thiên Chúa phải làm: luôn tha thứ. Tôi nói điều này rất nhiều với các linh mục, với các cha giải tội: hãy luôn tha thứ, như Thiên Chúa tha thứ.

Sau đó, Chúa Giêsu minh họa thực tế này bằng một dụ ngôn, một lần nữa liên quan đến các con số. Một vị vua đã tha cho người hầu món nợ 10.000 yến vàng sau khi được cầu xin: đó là một con số quá lớn, giá trị vô cùng lớn, từ 200 đến 500 tấn bạc: quá mức. Đó là một món nợ không thể trả được, dù phải làm việc cả đời: thế nhưng ông chủ này, nhắc chúng ta nhớ đến Chúa Cha của chúng ta, đã tha thứ chỉ vì “chạnh lòng thương” (c. 27). Đây là tấm lòng của Thiên Chúa: Người luôn tha thứ, vì Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng ta đừng quên Thiên Chúa là Đấng gần gũi, nhân hậu và dịu dàng; đây là bản chất của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dù người đầy tớ này đã được tha nợ, lại không tỏ lòng thương xót đối với người bạn mắc nợ mình 100 quan tiền. Đây cũng là một số tiền đáng kể, tương đương với khoảng ba tháng lương – như muốn nói rằng việc tha thứ cho nhau cũng tổn phí tiền bạc! – nhưng hoàn toàn không thể so sánh với con số trước đó mà ông chủ đã tha.

Thông điệp của Chúa Giêsu rất rõ ràng: Thiên Chúa tha thứ vô cùng, vượt quá mọi mức độ. Đây là cách của Chúa; Người hành động vì yêu thương và theo cách nhưng không. Không thể mua chuộc Thiên Chúa, Thiên Chúa là tự do, Người hoàn toàn là sự nhưng không.

Chúng ta không thể đền đáp Ngài, nhưng khi chúng ta tha thứ cho một người anh em hoặc một người chị em là chúng ta bắt chước Ngài. Do đó, tha thứ không phải là một việc tốt mà chúng ta có thể chọn làm hoặc không làm: tha thứ là điều kiện căn bản đối với người Kitô hữu. Thật vậy, mỗi người chúng ta đều được “tha thứ”: chúng ta đừng quên điều này, chúng ta được tha thứ, Thiên Chúa đã hiến mạng sống vì chúng ta và không cách nào chúng ta có thể đền đáp được lòng thương xót của Chúa, điều mà Chúa không bao giờ rút khỏi trái tim Ngài. Tuy nhiên, bằng cách noi gương sự nhưng không của Chúa, nghĩa là tha thứ cho nhau, chúng ta có thể làm chứng cho Chúa, gieo sự sống mới xung quanh chúng ta. Vì không có niềm hy vọng nào nếu không có sự tha thứ; không có hòa bình nếu không có sự tha thứ. Tha thứ là dưỡng khí thanh tẩy không khí thù hận, tha thứ là liều thuốc giải cho những độc chất oán hận, là cách làm dịu cơn giận và chữa lành biết bao căn bệnh tâm hồn đang làm ô nhiễm xã hội.

Vậy chúng ta hãy tự hỏi: tôi có tin rằng tôi đã nhận được từ Thiên Chúa món quà tha thứ vô biên không? Tôi có cảm nhận niềm vui khi biết rằng Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho tôi khi tôi vấp ngã, ngay cả khi người khác không làm như vậy, ngay cả khi tôi thậm chí không thể tha thứ cho chính mình? Chúa tha thứ: tôi có tin rằng Ngài tha thứ không? Và rồi tôi có thể tha thứ cho những người đã làm sai với tôi không? Về vấn đề này, tôi muốn đề nghị với anh chị em một bài tập nhỏ: bây giờ, mỗi người chúng ta hãy cố gắng nghĩ đến một người đã làm tổn thương chúng ta, và xin Chúa ban sức mạnh để tha thứ cho họ. Và chúng ta hãy tha thứ cho họ vì lòng yêu mến Thiên Chúa: thưa anh chị em, điều này sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta; nó sẽ phục hồi lại sự bình an tâm hồn của chúng ta.

Xin Mẹ Maria, Mẹ của Lòng Thương xót, giúp chúng ta đón nhận ân sủng của Thiên Chúa và tha thứ cho nhau.

______________________________________________


Sau Kinh Truyền tin

Vào thứ Sáu tôi sẽ đi Marseille để tham dự lễ bế mạc Recontres Méditerranéennes, một sáng kiến tốt đẹp đang diễn ra tại các thành phố quan trọng của vùng Địa Trung Hải, quy tụ các nhà lãnh đạo giáo hội và dân sự để thúc đẩy những con đường hòa bình, hợp tác và hội nhập xung quanh vùng biển, với sự chú ý đặc biệt đến hiện tượng di cư. Nó biểu trưng cho một thách thức không hề dễ dàng, như chúng ta cũng thấy trong các bản tin trong những ngày gần đây, nhưng là thách thức chúng ta phải cùng nhau đối mặt, vì nó quan trọng cho tương lai của tất cả mọi người, một tương lai sẽ chỉ thịnh vượng nếu được xây dựng trên tình huynh đệ, đặt nhân phẩm và những con người thực sự lên trước hết, đặc biệt là những người cần được giúp đỡ nhất. Xin anh chị em đồng hành với cuộc hành trình này bằng lời cầu nguyện, đồng thời tôi xin cảm ơn các nhà chức trách dân sự và tôn giáo, cũng như những người đang cố gắng chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ở Marseille, một thành phố phong phú về sắc tộc, được kêu gọi trở thành bến cảng của hy vọng. Bây giờ tôi xin chào tất cả mọi người dân, mong chờ được gặp rất nhiều anh chị em thân yêu.

Và cha gửi lời chào tất cả anh chị em, người dân Roma và anh chị em hành hương đến từ nước Ý và nhiều quốc gia khác, đặc biệt là đại diện của một số giáo xứ ở Miami, Banda de Gaitas del Batallón de San Patricio, các tín hữu của Pieve del Cairo và Castelnuovo Scrivia, và các Nữ tu Dòng Truyền giáo Đấng Cứu Chuộc Chí Thánh của Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraine. Và tôi tiếp tục cầu nguyện cho người dân Ukraine đang bị hành hạ, và xin cho hòa bình ở mọi vùng đất đẫm máu vì chiến tranh.

Và cha chào các bạn trẻ của phong trào Immacolata!

Cha chúc tất cả anh chị em Chúa nhật tốt lành, và xin đừng quên cầu nguyện cho cha. Chúa anh chị em bữa trưa ngon miệng, và arrivederci!



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 18/9/2023]


Thông điệp của Đức Thánh Cha gửi các tham dự viên Cuộc họp Cầu nguyện Quốc tế cho Hòa bình do Cộng đồng Sant’Egidio tổ chức

Đức Thánh Cha Phanxicô: Chúng ta đừng sợ trở thành những người hành khất hòa bình

Thông điệp của Đức Thánh Cha gửi các tham dự viên Cuộc họp Quốc tế Cầu nguyện cho Hòa bình do Cộng đồng Sant’Egidio tổ chức (Berlin, 10-12 tháng Chín năm 2023)

Thông điệp của Đức Thánh Cha gửi các tham dự viên Cuộc họp Cầu nguyện Quốc tế cho Hòa bình do Cộng đồng Sant’Egidio tổ chức

*******

Dưới đây chúng tôi công bố Thông điệp mà Đức Thánh Cha Phanxicô gửi đến các tham dự viên Cuộc họp Quốc tế Cầu nguyện cho Hòa bình do Cộng đồng Sant'Egidio tổ chức với chủ đề: “Sự táo bạo của hòa bình”, diễn ra tại Berlin từ ngày 10 đến ngày 12 tháng Chín và có sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị và những nhà tri thức họp lại với nhau:

___________________________________________________


Anh chị em thân mến,

Với tư cách là các nhà lãnh đạo Kitô giáo, các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới và chính quyền dân sự, năm nay anh chị em quy tụ tại Berlin, gần Cổng Brandenburg, theo lời mời của Cộng đồng Sant’Egidio, trung thành tiếp tục cuộc hành hương cầu nguyện và đối thoại do Thánh Gioan Phaolô II khởi xướng ở Assisi năm 1986. Địa điểm cuộc gặp gỡ của anh chị em đặc biệt gợi nhiều liên tưởng, vì một sự kiện lịch sử đã diễn ra chính tại nơi anh chị em đang họp mặt: sự sụp đổ của bức tường ngăn chia hai nước Đức. Bức tường đó cũng chia cắt hai thế giới, Tây và Đông Âu. Nó sụp đổ nhờ nhiều yếu tố, trong đó có lòng can cảm và lời cầu nguyện của nhiều người. Từ đó, nó mở ra những chân trời mới: tự do cho các dân tộc và sự đoàn tụ của các gia đình, đồng thời cũng là niềm hy vọng về một nền hòa bình thế giới mới sau Chiến tranh lạnh.

Thật đáng buồn trong nhiều năm qua, lời hứa về một tương lai như vậy không được xây dựng trên niềm hy vọng chung mà đặt trên những lợi ích đặc biệt và sự ngờ vực lẫn nhau. Vì vậy, thay vì phá bỏ những bức tường, nhiều bức tường đã được dựng lên. Và thật đáng buồn, từ bức tường đến chiến hào thường chỉ là một bước ngắn. Ngày nay, chiến tranh vẫn tàn phá quá nhiều nơi trên thế giới. Tôi đang nghĩ đến một số khu vực ở Châu Phi và Trung Đông, cũng như nhiều khu vực khác trên hành tinh, bao gồm cả Châu Âu, nơi đang phải chịu đựng cuộc chiến ở Ukraine. Đó là một cuộc xung đột kinh hoàng chưa có hồi kết và đã gây ra chết chóc, đau thương, đau đớn, tha hương và hủy diệt.

Năm ngoái tôi đã cùng với anh chị em ở Roma, tại Hý trường La Mã, để cầu nguyện cho hòa bình. Chúng ta đã lắng nghe tiếng kêu xin một nền hòa bình bị hoen ố và chà đạp. Nhân dịp đó, tôi nói: “Lời kêu gọi hòa bình không thể bị dập tắt: nó xuất phát từ trái tim của những người mẹ; nó hằn sâu trên khuôn mặt của những người tị nạn, những gia đình phải di tản, những người bị thương và những người hấp hối. Và lời cầu xin thầm lặng này bay lên tận trời cao. Nó không có những công thức kỳ diệu để chấm dứt xung đột, nhưng nó có quyền thiêng liêng để khẩn xin hòa bình nhân danh tất cả những người đau khổ, và nó xứng đáng được lắng nghe. Nó hiệu triệu tất cả mọi người, bắt đầu từ các nhà lãnh đạo chính phủ, hãy dành thời gian và lắng nghe một cách nghiêm túc và tôn trọng. Lời cầu xin hòa bình đó thể hiện nỗi đau đớn và sự kinh hoàng của chiến tranh, nó là mẹ đẻ của tất cả mọi sự nghèo đói” (Diễn từ tại Cuộc họp cầu nguyện cho hòa bình, ngày 25 tháng Mười năm 2022).

Chúng ta không thể đầu hàng trước kịch bản này. Cần phải có điều gì đó hơn nữa. Chúng ta cần “sự táo bạo của hòa bình”, đây là trọng tâm cuộc gặp gỡ của anh chị em. Chủ nghĩa hiện thực thôi chưa đủ, những cân nhắc về chính trị thôi chưa đủ, những cách tiếp cận chiến lược được thực hiện cho đến nay vẫn chưa đủ. Cần nhiều hơn nữa vì chiến tranh vẫn tiếp diễn. Điều cần thiết là sự táo bạo của hòa bình – ngay bây giờ, bởi vì có quá nhiều xung đột đã kéo dài quá lâu, đến mức một số cuộc xung đột dường như không bao giờ kết thúc. Trong một thế giới mọi thứ đều trôi qua nhanh chóng, nhưng chỉ có sự kết thúc chiến tranh là có vẻ chậm chạp. Cần có lòng dũng cảm để biết cách chuyển sang một hướng khác, gạt bỏ những trở ngại và khó khăn thực sự. Sự táo bạo của hòa bình là lời tiên tri cần có của những người nắm trong tay số phận của các quốc gia tham chiến, của cộng đồng quốc tế, của tất cả chúng ta. Nó đặc biệt là đúng đối với những người có niềm tin, họ thể hiện tiếng kêu than khóc của những người cha người mẹ, sự đau đớn của những người vấp ngã, sự hủy diệt vô ích, và từ đó tố cáo tính điên rồ của chiến tranh.

Đúng vậy, sự táo bạo của hòa bình thách đố các tín hữu cách đặc biệt biến nó thành lời cầu nguyện, lời khẩn cầu Thiên Chúa ban xuống điều dường như không thể có được trên trái đất. Kiên trì cầu nguyện là hình thức đầu tiên của tính táo bạo. Trong Tin Mừng, Chúa Kitô cho thấy “cần phải cầu nguyện luôn và không nản chí” (Lc 18:1), khi nói rằng: “Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11:9). Chúng ta đừng sợ trở thành những người hành khất hòa bình, tham gia cùng với các anh chị em của chúng ta thuộc các tôn giáo khác và tất cả những người không đầu hàng trước sự chắc chắn xảy ra của xung đột. Tôi cùng hiệp lời cầu nguyện với anh chị em xin chấm dứt chiến tranh, chân thành cảm ơn anh chị em vì tất cả những gì anh chị em làm.

Rất cần phải tiến bước về phía trước để vượt qua bức tường của điều không thể, được xây dựng trên luận lý dường như không thể bác bỏ sinh ra từ ký ức về nỗi đau buồn lớn lao và quá nhiều vết thương phải chịu trong quá khứ. Điều đó là khó, nhưng không phải là không thể. Đó không phải là điều không thể đối với các tín hữu, những người sống tính táo bạo trong lời cầu nguyện đầy hy vọng. Nhưng điều đó cũng không phải là không thể đối với các chính trị gia, những nhà lãnh đạo hay những nhà ngoại giao. Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình mà không nản chí, gõ cửa với tinh thần khiêm nhường và kiên trì trước cánh cửa luôn rộng mở của trái tim Thiên Chúa và những cánh cửa của nhân loại. Chúng ta hãy cầu xin để những con đường dẫn tới hòa bình được mở ra, đặc biệt cho Ukraine thân yêu và bị chiến tranh tàn phá. Chúng ta hãy tin tưởng rằng Chúa luôn nghe thấy tiếng kêu đau khổ của con cái của Người. Lạy Chúa, xin lắng nghe chúng con!

Roma, Đền thánh Gioan Lateran, 5 tháng Chín, 2023

Để biết thêm thông tin, xin truy cập đường dẫn



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 13/9/2023]


Thứ Năm, 14 tháng 9, 2023

Tiếp kiến chung của ĐTC Phanxicô ngày 13.09.2023: Tiếp tục chủ đề giáo lý về lòng nhiệt thành rao giảng Tin mừng

Chân phước Joseph Gregory: Đức Thánh Cha nói rằng bí mật của sức mạnh và sự dâng hiến của ngài là sự mật thiết với Chúa Giêsu

Tiếp tục chủ đề giáo lý tại buổi tiếp kiến chung

Tiếp kiến chung của ĐTC Phanxicô ngày 13.09.2023: Tiếp tục chủ đề giáo lý về lòng nhiệt thành rao giảng Tin mừng

Vatican Media


*******

Trong huấn từ bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha, tiếp nối lại chủ đề giáo lý về lòng Nhiệt thành Rao giảng Tin mừng: Lòng nhiệt thành tông đồ của người tín hữu, tập trung suy niệm về chủ đề “Chân phước José Gregorio Hernández Cisneros, vị bác sĩ của người nghèo và người tông đồ hòa bình” (Bài đọc: 1 Tm 2:1-4).

Sau phần tóm lược bài giáo lý bằng các ngôn ngữ khác nhau, Đức Thánh Cha gửi lời chào đặc biệt đến các tín hữu hiện diện. Sau đó, ngài đưa ra lời kêu gọi và mời gọi cầu nguyện cho người dân Libya và Maroc.

Buổi tiếp kiến chung kết thúc bằng Kinh Lạy Cha và Phép lành Tòa Thánh.

____________________________________________


Bài giáo lý của Đức Thánh Cha

Bài Giáo lý. Lòng nhiệt thành rao giảng Tin Mừng: lòng nhiệt thành tông đồ của người tín hữu. 20. Chân phước José Gregorio Hernández Cisneros, vị bác sĩ của người nghèo và người tông đồ hòa bình


Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Trong các bài giáo lý của chúng ta, chúng ta tiếp tục gặp gỡ những chứng nhân nhiệt thành loan báo Tin Mừng. Chúng ta nhớ rằng đây là các bài giáo lý về lòng nhiệt thành tông đồ, về ý chí và thậm chí cả lòng nhiệt thành nội tâm truyền bá Tin Mừng. Hôm nay chúng ta đến Châu Mỹ Latinh, cụ thể là Venezuela, để làm quen với gương mặt của một người giáo dân, Chân phước José Gregorio Hernández Cisneros. Ngài sinh năm 1864 và học đức tin trước hết từ thân mẫu của ngài, như ngài kể lại: “Mẹ tôi đã dạy tôi các nhân đức từ khi còn trong nôi, giúp tôi lớn lên trong sự hiểu biết về Thiên Chúa và trao cho tôi lòng từ ái như người dẫn đường cho tôi”. Chúng ta hãy lưu ý: chính các bà mẹ là người truyền lại đức tin. Đức tin được truyền lại bằng phương ngữ, tức là ngôn ngữ của các bà mẹ, phương ngữ mà các bà mẹ biết cách để nói với con cái họ. Và thưa các người mẹ: hãy sốt sắng truyền đạt đức tin bằng phương ngữ từ mẫu đó.

Quả thật, lòng bác ái là ngôi sao bắc đẩu định hướng cho đời sống của Chân phước José Gregorio: một người tốt bụng và vui tươi, tính tình vui vẻ, có trí thông minh nhanh nhạy; ngài trở thành bác sĩ, giáo sư đại học và nhà khoa học. Nhưng trên hết, ngài là một bác sĩ gần gũi với những người yếu đuối nhất, đến nỗi ở quê hương ngài được mệnh danh là “bác sĩ của người nghèo”. Ngài luôn quan tâm đến người nghèo. Ngài yêu thích sự giàu có của Tin Mừng hơn sự giàu có của tiền bạc, dành thời gian giúp đỡ những người nghèo khó. Ngài José Gregorio nhìn thấy Chúa Giêsu nơi những người nghèo, người bệnh, người di cư, người đau khổ. Ngài đã nhận được sự thành công mà ngài chưa bao giờ tìm kiếm trên thế gian, và tiếp tục nhận được từ người dân, những người gọi ngài là “vị thánh của người dân”, “vị tông đồ bác ái”, “nhà truyền giáo của hy vọng”. Những cái tên thật đẹp: “vị thánh của người dân”, “tông đồ của dân”, “nhà truyền giáo của hy vọng”.

Chân phước José Gregorio là một người khiêm nhường, tốt bụng và hay giúp đỡ. Đồng thời, ngài được thúc đẩy bởi ngọn lửa trong lòng, ước muốn sống phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Được thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành này, ngài đã nhiều lần cố gắng trở thành một tu sĩ và linh mục, nhưng nhiều vấn đề về sức khỏe đã không cho phép ngài thực hiện điều đó. Tuy nhiên, sự yếu đuối về thể chất không làm ngài khép mình lại mà trở thành một bác sĩ thậm chí còn nhạy cảm hơn trước những nhu cầu của người khác; ngài bấu víu vào Đấng Quan phòng, và rèn giũa tâm hồn mình ngày càng hướng tới những gì trọng yếu. Đây là lòng nhiệt thành tông đồ: nó không theo đuổi những khát vọng riêng của bản thân, nhưng rộng mở đón nhận những kế hoạch của Thiên Chúa. Và vì thế, Chân phước hiểu rằng, qua việc chăm sóc người bệnh, ngài sẽ thực hành ý Chúa, an ủi những người đau khổ, mang lại niềm hy vọng cho người nghèo, làm chứng cho đức tin không phải bằng lời nói mà bằng gương sáng. Vì vậy, bằng con đường nội tâm này, ngài đã chấp nhận y học như một chức tư tế: “chức tư tế của nỗi đau khổ của con người” (M. YABER, José Gregorio Hernández: Médico de los Pobres, Apóstol de la Justicia Social, Misionero de las Esperanzas, 2004, 107). Điều vô cùng quan trọng là không chịu đựng mọi việc cách thụ động, nhưng, như Kinh thánh nói, làm mọi việc cách tận tâm để phục vụ Chúa (x. Col. 3:23).

Nhưng chúng ta tự hỏi: ngài José Gregorio có được tất cả sự nhiệt thành, nhiệt huyết này từ đâu? Nó đến từ một sự chắc chắn và sức mạnh. Sự chắc chắn đó là ân sủng của Thiên Chúa: ngài viết rằng “nếu có người tốt và người xấu trên thế gian, thì kẻ xấu là xấu vì chính họ đã trở nên xấu: nhưng người tốt trở nên tốt là nhờ sự trợ giúp của Chúa” (27 tháng 5 năm 1914). Và ngài xem mình trước hết là người cần có ân sủng, là người hành khất trên đường và rất cần tình yêu thương. Và đây chính là sức mạnh mà ngài đã có được: sự mật thiết với Thiên Chúa. Ngài là một người cầu nguyện – đây là ân sủng của Thiên Chúa và là sự mật thiết với Chúa Giêsu. Ngài là một người cầu nguyện và tham dự Thánh lễ.

Và khi tiếp xúc với Chúa Giêsu, Đấng hiến mình trên bàn thờ cho mọi người, ngài José Gregory cảm nhận tiếng gọi hiến dâng cuộc đời cho hòa bình. Chiến tranh thế giới thứ nhất đang diễn ra. Vì vậy, chúng ta trở về ngày 29 tháng 6 năm 1919: một người bạn đến thăm ngài và thấy ngài rất vui. José Gregorio thực sự biết rằng hiệp ước chấm dứt chiến tranh đã được ký. Sự dâng hiến của ngài đã được chấp nhận, và dường như ngài thấy trước rằng công việc của ngài trên dương thế đã hoàn tất. Sáng hôm đó, như thường lệ, ngài đi lễ, và rồi ngài xuống phố mang thuốc cho bệnh nhân. Nhưng khi ngài băng qua đường thì bị một chiếc xe tông phải; được đưa đến bệnh viện, ngài qua đời khi kêu tên Đức Mẹ. Và cuộc hành trình dương thế của ngài kết thúc, trên con đường đang thi hành công việc của lòng thương xót, và tại một bệnh viện, nơi ngài đã biến công việc của mình thành một kiệt tác, trong cương vị là một bác sĩ.

Thưa anh chị em, trước chứng tá này, chúng ta tự hỏi: tôi sẽ phản ứng thế nào khi đứng trước Thiên Chúa hiện diện nơi những người nghèo gần bên tôi, đối diện với những người đau khổ nhất trên thế giới? Và tấm gương của Chân phước José Gregorio ảnh hưởng đến tôi như thế nào? Ngài khuyến khích chúng ta dấn thân vào những vấn đề xã hội, kinh tế và chính trị to lớn ngày nay. Rất nhiều người nói về nó, rất nhiều người phàn nàn về nó, rất nhiều người chỉ trích và nói rằng mọi thứ đang đi sai hướng. Nhưng đó không phải là điều mà người Kitô hữu được kêu gọi thực hiện; ngược lại, họ được kêu gọi để giải quyết nó, để cho bàn tay của mình lấm bẩn: trước hết, như Thánh Phaolô đã dạy chúng ta, hãy cầu nguyện (x. 1 Tim 2:1-4), và sau đó đừng dành thời gian ba hoa – ba hoa là một bệnh dịch – nhưng hãy thúc đẩy điều thiện và xây dựng hòa bình và công lý trong sự thật. Đây cũng là lòng nhiệt thành tông đồ; đó là việc loan báo Tin Mừng; và đây là mối phúc Kitô giáo: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình” (Mt 5:9).

Chúng ta hãy tiến bước trên con đường của Chân phước [José] Gregorio: một giáo dân, một bác sĩ, một người làm công việc hằng ngày mà lòng nhiệt thành tông đồ đã thúc đẩy ngài sống thực hiện bác ái suốt đời.

___________________________________


Lời chào đặc biệt

Cha gửi lời chào thân ái đến anh chị em hành hương và du khách nói tiếng Anh tham gia buổi tiếp kiến hôm nay, đặc biệt là các nhóm đến từ Anh, Scotland, Hà Lan, Senegal, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines và Hoa Kỳ. Cha khẩn xin niềm vui và sự bình an của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đổ xuống trên anh chị em và gia đình. Xin Chúa ban phúc lành cho tất cả anh chị em!

___________________________________

LỜI KÊU GỌI

Suy nghĩ của tôi hướng về người dân Libya, nơi đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi những trận mưa dữ dội gây ra lũ quét và ngập lụt, khiến rất nhiều người chết và bị thương cũng như thiệt hại nặng nề. Tôi mời gọi anh chị em cùng hiệp lời cầu nguyện với tôi cho những người đã chết, cho gia đình họ và những người phải di dời. Xin đừng bỏ qua tình đoàn kết của chúng ta với những anh chị em đã chịu thử thách quá lớn trước thảm họa này. Và tôi cũng nghĩ đến người dân Maroc cao quý đã phải chịu đựng những biến động của trái đất, những trận động đất. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Maroc, chúng ta cầu nguyện cho người dân. Xin Chúa ban cho họ sức mạnh để phục hồi, phục hồi sau thảm họa kinh hoàng đã xảy ra với họ.

Cuối cùng, suy nghĩ của cha hướng về các bạn trẻ, các bệnh nhân, người già và những đôi vợ chồng mới cưới. Ngày mai Giáo Hội cử hành Lễ Suy tôn Thánh Giá. Chúng ta không mệt mỏi trung thành với Thập Giá Chúa Kitô, dấu chỉ của tình yêu và ơn cứu độ.

Và xin anh chị em chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới, đặc biệt cho Ukraine đang bị hành hạ, với những đau khổ của họ luôn hiện lên trong tâm trí và trái tim chúng ta.

Và cha ban phép lành cho tất cả anh chị em.



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 14/9/2023]