Thứ Năm, 28 tháng 9, 2023

Tại Marseilles Đức Thánh Cha nói về Địa Trung hải như cái nôi của nền văn minh và nghĩa trang của phẩm giá

Tại Marseilles Đức Thánh Cha nói về Địa Trung hải như cái nôi của nền văn minh và nghĩa trang của phẩm giá

Final Session Of The Mediterranean Meetings Photo: Vatican Media

Tại Marseilles Đức Thánh Cha nói về Địa Trung hải như cái nôi của nền văn minh và nghĩa trang của phẩm giá

*******

(ZENIT News / Marseilles-Rome, 23.09.2023). - Lý do chuyến đi của Đức Thánh Cha đến Marseilles là để bế mạc “Những cuộc họp về Địa Trung Hải”, một loạt các sự kiện liên quan đến vấn đề di cư ở khu vực này của hành tinh, nơi nối liền ba Châu lục: Châu Âu, Châu Phi và Châu Á.

23 tháng Chín, 2023 22:59



(ZENIT News / Marseilles-Rome, 23.09.2023). - Lý do chuyến đi của Đức Thánh Cha đến Marseilles là để bế mạc “Những cuộc họp về Địa Trung Hải”, một loạt các sự kiện liên quan đến vấn đề di cư ở khu vực này của hành tinh, nơi nối liền ba Châu lục: Châu Âu, Châu Phi và Châu Á. Tổng thống Emmanuel Macron đã có mặt trong Phiên họp cuối.

Dưới đây là toàn văn diễn từ của Đức Thánh Cha.

________________________________________

Thưa ngài Tổng thống,

Thưa các huynh đệ Giám mục,

Thưa các vị Thị trưởng và Chính quyền đại diện cho các thành phố và vùng lãnh thổ giáp biển Địa Trung Hải,

Các bạn thân mến!

Tôi xin gửi lời chào thân ái đến các bạn và tôi xin cảm ơn từng người đã nhận lời mời của Đức Hồng Y Aveline tham dự các cuộc họp này. Cảm ơn các bạn vì công việc và những phản ánh có giá trị mà các bạn đã chia sẻ. Sau Bari và Florence, hành trình phục vụ các dân tộc vùng Địa Trung Hải đang tiến triển: cũng tại đây, các nhà lãnh đạo Giáo hội và dân sự tập trung không phải để giải quyết những lợi ích chung, nhưng được thúc đẩy bởi mong muốn quan tâm đến mọi người. Cảm ơn các bạn đã bao gồm giới trẻ, những người là hiện tại và tương lai của Giáo hội và xã hội.

Marseilles là một thành phố rất cổ kính. Được thành lập bởi các thủy thủ người Hy Lạp đến từ vùng Tiểu Á, truyền thuyết kể về câu chuyện tình giữa một thủy thủ di cư và một công chúa người bản địa. Ngay từ đầu, thành phố đã thể hiện đặc tính đa dạng và tính quốc tế: nó đón chào sự giàu có của biển cả và trở thành quê hương cho những người không còn quê hương. Marseilles nói với chúng ta rằng, bất kể những khó khăn, việc chung sống vẫn là điều có thể và là nguồn vui. Trên bản đồ, nó gần như vẽ nên nụ cười giữa Nice và Montpellier. Tôi thích suy nghĩ về thành phố theo cách đó: Marseilles là “nụ cười của Địa Trung Hải”. Vì vậy, tôi muốn gửi đến quý vị một số suy tư tập trung vào ba khía cạnh đặc trưng của Marseilles, ba biểu tượng: biển cả, hải cảng và ngọn hải đăng.

Biển cả. Một làn sóng các dân tộc đã biến thành phố này thành một bức tranh khảm của hy vọng, với truyền thống đa sắc tộc và đa văn hóa rất lớn, được đại diện bởi hơn sáu mươi Lãnh sự quán trên lãnh thổ của nó. Marseilles vừa là một thành phố đa dạng vừa khác biệt, chính vì sự đa dạng của nó, là kết quả của cuộc gặp gỡ với thế giới làm cho lịch sử của nó trở nên khác biệt. Ngày nay chúng ta thường nghe nói rằng lịch sử Địa Trung Hải là sự đan xen của những xung khắc giữa các nền văn minh, tôn giáo và tầm nhìn khác nhau. Chúng ta không bỏ qua những vấn đề đang tồn tại, nhưng cũng đừng để mình bị lạc lối: sự giao thoa giữa các dân tộc đã biến Địa Trung Hải trở thành cái nôi của nền văn minh, một vùng biển tràn ngập những kho báu, đến mức, như một đại sử gia người Pháp đã viết , đó “không phải một cảnh quan mà là vô số cảnh quan. Không phải một biển, mà là hàng loạt các biển liên tiếp nối nhau… hàng thiên niên kỷ, mọi thứ đã tuôn đổ vào đó, làm phức tạp và làm phong phú thêm lịch sử của nó” (F. Braudel, La Méditerranée, Paris 1985, 16). Vùng biển chung của chúng ta (mare nostrum) là nơi gặp gỡ: giữa các tôn giáo thuộc tổ phụ Abraham; giữa tư tưởng Hy Lạp, Latinh và Ả Rập; giữa khoa học, triết học và luật pháp; và giữa nhiều thực tại khác. Nó đã chuyển tải cho thế giới giá trị cao quý của con người, được trời ban tặng sự tự do, rộng mở với sự thật và cần ơn cứu rỗi, nhìn thế giới như một kỳ công cần được khám phá và như một khu vườn để sinh sống, dưới dấu ấn của một Thiên Chúa đã lập giao ước với con người

Một vị Thị trưởng vĩ đại nhìn thấy ở Địa Trung Hải không phải là vấn đề xung đột mà là câu trả lời cho hòa bình, thật vậy là “sự khởi đầu và nền tảng của hòa bình giữa tất cả các quốc gia trên thế giới” (G. La Pira, La Pira, Remarks at the Conclusion of the First Mediterranean Colloquium, ngày 6 tháng Mười năm 1958). Ông nói:

“Câu trả lời… là khả thi nếu chúng ta xét đến ơn gọi chung và có thể nói là đời đời mà Đấng Quan phòng đã giao phó trong quá khứ, trong hiện tại, và theo một nghĩa nào đó, sẽ giao phó trong tương lai cho các dân tộc và quốc gia đang sống trên các bờ Hồ Tibêria rộng lớn bí ẩn này, đó là Địa Trung Hải” (Diễn văn khai mạc Hội thảo Địa Trung Hải đầu tiên, ngày 3 tháng 10 năm 1958).

Vào thời Đức Kitô, Hồ Tibêria, hay Biển hồ Galilê, là nơi tập trung nhiều dân tộc, tín ngưỡng và truyền thống khác nhau. Chính tại đó, tại “Galilê miền đất của Dân ngoại” (x. Mt 4:15), đường tàu thuyền vượt qua, là nơi diễn ra phần lớn cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Một bối cảnh đa diện và không ổn định về nhiều mặt đã là nơi để công bố các Mối phúc cách phổ quát, nhân danh một Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, Đấng “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5:45). Đây cũng là một lời mời gọi hãy mở rộng biên giới của tâm hồn, vượt qua các rào cản về sắc tộc và văn hóa. Và đây là câu trả lời đến từ Địa Trung hải: Biển hồ Galilee ngàn xưa này kêu gọi chúng ta chống lại sự chia rẽ của các mối xung đột bằng “sự cùng tồn tại của những khác biệt” (T. Bello, Benedette inquietudini, Milan 2001, 73).

Nằm ở đường giao nhau giữa Bắc và Nam, Đông và Tây, biển của chúng ta tập hợp những thách thức của toàn thế giới, như “năm bờ biển” mà quý vị đã phản ánh minh chứng: Bắc Phi, Cận Đông, Biển Đen và Biển Aegean, vùng Balkan và Châu Âu Latinh. Nó là tiền đồn của những thách thức mà mọi người đều quan tâm: chúng ta hãy nghĩ đến khí hậu, với Địa Trung Hải là một điểm nóng nơi những thay đổi được cảm nhận nhanh hơn. Điều vô cùng quan trọng là bảo vệ sự ghép nối của Địa Trung hải, một kho tàng đa dạng sinh học duy nhất! Nói tóm lại, vùng biển này, một môi trường mang lại cách tiếp cận độc đáo đối với sự phức tạp, là một “tấm gương của thế giới” và mang trong mình ơn gọi toàn cầu hướng tới tình huynh đệ, một ơn gọi và là cách duy nhất để ngăn chặn và vượt qua xung đột.

Thưa anh chị em, giữa biển cả của những xung đột ngày nay, chúng ta có mặt ở đây để tăng cường sự đóng góp cho Địa Trung Hải, để nó có thể trở lại là một phòng thí nghiệm hòa bình. Vì đây là ơn gọi của nó, trở thành một nơi mà các quốc gia và những thực tại khác nhau có thể gặp gỡ trên nền tảng nhân tính mà tất cả chúng ta cùng chia sẻ, chứ không dựa trên cơ sở những hệ tư tưởng đối chọi. Thật vậy, Địa Trung Hải thể hiện một lối suy nghĩ không mang tính đồng nhất và ý thức hệ, nhưng mang tính đa diện và phù hợp với bản chất của mọi sự; một lối suy nghĩ sống động, cởi mở và thích nghi, một lối suy nghĩ mang tính cộng đồng, và đây là từ ngữ chuẩn xác. Chúng ta rất cần điều này cho thời điểm hiện tại, khi những chủ nghĩa dân tộc cổ hủ và hiếu chiến muốn làm phai mờ giấc mơ của cộng đồng các quốc gia! Tuy nhiên – chúng ta hãy nhớ điều này – với vũ khí, chúng ta tạo ra chiến tranh chứ không phải hòa bình, và với lòng tham quyền lực, chúng ta luôn quay về quá khứ thay vì xây dựng tương lai.

Vậy chúng ta nên bắt đầu từ đâu để hòa bình được bén rễ? Trên bờ Biển hồ Galilê, Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc trao niềm hy vọng cho người nghèo và tuyên bố họ là người có phúc: Người lắng nghe những nhu cầu của họ, chữa lành vết thương cho họ và trên hết là loan báo cho họ tin mừng về Nước Trời. Chúng ta cần bắt đầu lại từ đó, từ tiếng kêu thầm lặng của những người bé mọn nhất trong chúng ta, chứ không phải từ những người may mắn hơn, những người không cần giúp đỡ nhưng vẫn lên tiếng. Chúng ta, Giáo hội và xã hội dân sự, hãy bắt đầu lại bằng cách lắng nghe người nghèo “cần được ôm lấy chứ không phải được đếm bằng con số” (P: Mazzolari, La parola ai poveri, Bologna 2016, 39), vì họ là những gương mặt chứ không phải những con số.

Sự thay đổi hướng đi trong cộng đồng của chúng ta nằm ở việc cư xử với họ như những người anh chị em mà chúng ta biết rõ câu chuyện của họ, chứ không phải là những vấn đề rắc rối hay xua đuổi họ, đuổi họ về nhà; nó nằm ở việc chào đón họ chứ không che giấu họ; trong việc hoà nhập họ, không đuổi họ đi; trong việc mang lại cho họ phẩm giá. Tôi muốn nhắc lại rằng Marseilles là thủ phủ của sự hội nhập các dân tộc. Anh chị em có thể tự hào về điều này! Ngày nay, vùng biển chung sống của con người bị ô nhiễm bởi sự bất ổn, thậm chí còn tấn công cả thành phố Marseille xinh đẹp. Nơi đâu có bất ổn nơi đó có tội phạm. Nơi nào thiếu việc làm cùng với tình trạng nghèo đói về vật chất, giáo dục, văn hóa và tôn giáo, thì con đường sẽ mở ra cho các băng đảng và nạn buôn lậu trái phép. Cam kết của các tổ chức thôi là chưa đủ, chúng ta cần một cú hích lương tâm để nói “không” với tình trạng vô luật pháp, và “có” đối với tình liên đới, điều không phải là một giọt nước trong đại dương, mà là yếu tố không thể thiếu để thanh lọc nước biển.

Quả thực, tệ nạn xã hội không nằm ở chỗ gia tăng các vấn đề mà do giảm bớt sự quan tâm. Ngày nay ai là người lân cận của những người trẻ bị bỏ rơi, những người dễ trở thành con mồi cho tội phạm và mại dâm? Ai chăm sóc họ? Ai gần gũi với những người trở thành nô lệ cho công việc để giúp họ được tự do hơn? Ai quan tâm đến những gia đình đang sợ hãi, sợ hãi về tương lai và sợ việc đưa con cái vào đời? Ai lắng nghe tiếng than thở của những anh chị em cao tuổi bị cô lập của chúng ta, những người thay vì được trân trọng lại bị gạt sang một bên, dưới cái mỹ từ giả tạo là cái chết đúng phẩm giá và “ngọt ngào” nhưng thật ra lại “mặn” hơn cả nước biển? Ai nghĩ đến những đứa trẻ chưa chào đời, bị từ chối nhân danh quyền tiến bộ giả tạo, mà thật ra là thu vén vào những nhu cầu ích kỷ cá nhân? Ngày nay chúng ta nhìn thấy thảm kịch của việc nhầm lẫn trẻ em với động vật. Ngài thư ký của tôi nói với tôi rằng khi ngài đi ngang qua Quảng trường Thánh Phêrô, ngài nhìn thấy một số phụ nữ đang đẩy những xe nôi cho trẻ… nhưng trong đó không phải là trẻ em, chúng là những con chó! Sự nhầm lẫn này cho chúng ta thấy điều đáng lo ngại. Ai là người có lòng trắc ẩn nhìn vượt qua những bờ biển của mình để nghe thấy tiếng kêu đau đớn vang lên từ Bắc Phi và Trung Đông? Biết bao người đang sống trong bạo lực và chịu đựng những hoàn cảnh bất công và bách hại! Ở đây tôi đang nghĩ đến nhiều Kitô hữu thường bị buộc phải rời bỏ quê hương hoặc ở lại mà không được công nhận các quyền của họ, và không được hưởng quyền công dân đầy đủ. Xin chúng ta hãy cam kết để tất cả mọi người trong xã hội đều có thể trở thành những công dân có đầy đủ quyền. Cuối cùng, có một tiếng kêu đau đớn âm vang hơn tất cả, và nó đang biến Địa Trung Hải, vùng biển chung của nhiều quốc gia, từ cái nôi của nền văn minh thành mare mortuum, nghĩa trang của phẩm giá: đó là tiếng kêu nghẹn ngào của những anh chị em di dân. Tôi muốn nhấn mạnh sự chú ý đến tiếng kêu này qua việc phản ánh hình ảnh thứ hai mà Marseilles cung cấp cho chúng ta, đó là hình ảnh bến cảng của thành phố.

Cảng Marseilles là cửa ngõ rộng mở ra biển, đến Pháp và châu Âu trong nhiều thế kỷ. Từ đây nhiều người đã ra đi để tìm việc làm và tương lai ở nước ngoài, và từ đây nhiều người đã đi qua cửa ngõ vào lục địa với hành trang tràn đầy hy vọng. Marseilles có một cảng lớn và là một cửa ngõ khổng lồ không thể đóng lại. Mặt khác, một số cảng của Địa Trung Hải đã đóng cửa. Và có hai từ ngữ vang lên, lấp đầy nỗi sợ hãi của mọi người: “xâm lược” và “tình trạng khẩn cấp”. Vì vậy họ đã đóng cửa các cảng. Tuy nhiên, những người liều mạng sống vượt biển không xâm lược, họ tìm kiếm sự chào đón, họ tìm kiếm sự sống. Vì tình trạng khẩn cấp, hiện tượng di cư không phải là một vấn đề cấp bách ngắn hạn, thuận tiện cho việc thúc đẩy những tuyên truyền gây hoang mang, mà nó là một thực tế của thời đại chúng ta, một tiến trình liên quan đến ba lục địa xung quanh Địa Trung Hải và phải được quản lý bằng tầm nhìn xa đầy khôn ngoan, trong đó có phản ứng của Châu Âu đủ khả năng đối phó với những khó khăn khách quan. Tôi đang nhìn ở đây, trên bản đồ này, các cảng được người di cư ưa chọn: Síp, Hy Lạp, Malta, Ý và Tây Ban Nha… Các quốc gia hướng ra Địa Trung Hải và tiếp nhận những di dân. Vùng biển chung kêu đòi công lý, với các bờ biển của nó mà một bên toát lên sự giàu có sung túc, chủ nghĩa tiêu dùng và lãng phí, bên kia lại là sự nghèo đói và bất ổn. Ở đây, Địa Trung Hải cũng phản chiếu thế giới, với miền Nam hướng về miền Bắc, với nhiều nước đang phát triển, bị cản trở bởi sự bất ổn, hệ thống cai trị, chiến tranh và tình trạng sa mạc hóa, nhìn về những đất nước giàu có, trong một thế giới toàn cầu hóa mà tất cả chúng ta đều kết nối với nhau, nhưng lại là thế giới có sự bất quân bình chưa bao giờ lớn hơn. Tuy nhiên, tình trạng này không phải là vấn đề mới trong những năm gần đây, và vị Giáo hoàng đến từ bên kia thế giới không phải là người đầu tiên cảnh báo về nó cách cấp bách và đầy quan ngại. Giáo hội đã nói về nó cách tha thiết trong hơn năm mươi năm qua.

Ngay sau khi kết thúc Công đồng Vatican II, Thánh Phaolô VI, trong Tông huấn Populorum Progressio đã viết:

“Các quốc gia đói khát trên thế giới đang cất tiếng kêu xin những dân tộc được ân ban dồi dào. Và Giáo hội, đau đớn trước tiếng kêu này, kêu gọi mỗi con người hãy lắng nghe lời cầu xin của người anh em mình và đáp lại theo cách đầy yêu thương” (số 3).

Đức Giáo hoàng Phaolô đã liệt kê “ba nhiệm vụ” đối với các quốc gia phát triển hơn, “xuất phát từ tình huynh đệ và siêu nhiên của con người”:

“Tương thân tương ái – sự viện trợ mà các quốc gia giàu có hơn phải dành cho các quốc gia đang phát triển; tính công bằng xã hội – điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các quốc gia mạnh và yếu; bác ái phổ quát – nỗ lực xây dựng một cộng đồng thế giới nhân bản hơn, nơi tất cả mọi người đều có thể cho và nhận, và sự tiến bộ của một số người không được đổi lại bằng sự tổn hại của những người khác” (Số 44).

Năm 1967, dưới ánh sáng Tin Mừng và những cân nhắc này, Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh rằng “bổn phận thể hiện sự tiếp đón mến khách đối với những người nước ngoài” là một nghĩa vụ trong đó ngài viết: “chúng ta không thể đòi hỏi quá nhiều” (Số 67). Mười lăm năm trước, Đức Giáo hoàng Piô XII khuyến khích điều này khi viết rằng “Thánh Gia khi sống tha hương, Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse di tản sang Ai Cập… là mẫu mực, gương mẫu và sự nương tựa cho tất cả những người di cư và lữ hành thuộc mọi thời đại, mọi quốc gia, và tất cả những người tị nạn trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù bị bách hại hay vì thiếu thốn, bị buộc phải rời bỏ quê hương và cha mẹ thân yêu của mình… và đi tìm một vùng đất xa lạ” (Tông Hiến Exsul Familia de spirituali emigrantium cura, ngày 1 tháng Tám năm 1952).

Chắc chắn không ai là không nhìn thấy những khó khăn trong việc chào đón. Những di dân phải được chào đón, được bảo vệ hoặc đồng hành, thăng tiến và hội nhập. Nếu điều này không xảy ra thì người di dân cuối cùng sẽ bị đẩy ra bên lề xã hội. Được chào đón, được đồng hành, thăng tiến và hội nhập: đây là phong cách. Đúng là không dễ để có được phong cách này hoặc hòa nhập những người không mong đợi, tuy nhiên tiêu chuẩn chính không phải là bảo tồn hạnh phúc của riêng mình, mà là bảo vệ phẩm giá con người.

Không nên coi những người nương náu giữa chúng ta như một gánh nặng phải gánh: thay vào đó, nếu chúng ta xem họ như những người anh chị em, thì trên hết họ sẽ đến với chúng ta như những món quà. Ngày mai chúng ta cử hành Ngày Thế giới Di dân và người Tị nạn. Ước mong chúng ta được đánh động trước những câu chuyện của rất nhiều anh chị em bất hạnh của chúng ta, những người có quyền di cư hoặc không di cư, và không bị khóa chặt trong sự thờ ơ. Lịch sử đang thách thức chúng ta thực hiện một bước nhảy về lương tâm để tránh cú đắm tàu của nền văn minh. Vì tương lai sẽ không nằm trong sự khép kín, vì đó là quay về quá khứ, một sự quay ngược trong hành trình lịch sử. Trước tai họa khủng khiếp của việc bóc lột con người, giải pháp không phải là từ chối mà là bảo đảm một số lượng nhiều đường vào hợp pháp và thường xuyên, tùy theo khả năng của mỗi quốc gia. Điều này sẽ mang tính bền vững qua việc đón chào hợp tình hợp lý từ phía Lục địa Châu Âu, trong bối cảnh hợp tác với các quốc gia quê hương của người di cư. Trong khi đó, nếu chỉ kêu lên “đủ rồi!” là nhắm mắt lại; bây giờ cố gắng “tự cứu mình” sẽ trở thành bi kịch vào ngày mai. Các thế hệ tương lai sẽ cảm ơn chúng ta nếu chúng ta có thể tạo điều kiện cho sự hội nhập cần thiết. Bằng không, họ sẽ chê trách chúng ta nếu chúng ta chỉ ưu tiên những hình thức đồng hóa vô ích. Sự hòa nhập của người di cư là một nỗ lực mệt mỏi nhưng có tầm nhìn xa; một sự đồng hóa không cân nhắc đến những khác biệt và vẫn giữ các mô hình riêng của nó cách cứng nhắc chỉ khiến cho ý tưởng chiếm ưu thế hơn thực tế và gây nguy hiểm cho tương lai, tăng thêm khoảng cách và kích động sự phân biệt chủng tộc, từ đó gây ra sự thù địch và các hình thức bất khoan dung. Chúng ta cần tình huynh đệ như chúng ta cần lương thực. Gốc của từ “anh em” trong từ nguyên Ấn-Âu bắt nguồn từ một từ gốc gắn liền với dinh dưỡng và chất bổ dưỡng. Chúng ta sẽ chỉ giúp được mình bằng cách nuôi dưỡng những người dễ bị tổn thương nhất bằng niềm hy vọng, chấp nhận họ như anh chị em. Kinh Thánh dạy chúng ta rằng “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách” (Dt 13:2). Và trong Cựu Ước điều này được lặp lại: bà góa, trẻ mồ côi và khách lạ. Ba bổn phận bác ái: giúp đỡ người góa bụa, giúp đỡ trẻ mồ côi và giúp đỡ người lạ, người di cư.

Về mặt này, cảng Marseilles cũng là “cánh cửa của đức tin”. Theo truyền thống, chính tại đây các Thánh Macta, Maria và Lazarô đã đặt chân tới và gieo hạt giống Tin Mừng tại những vùng đất này. Đức tin đến từ biển, như chúng ta được nhắc nhở bởi truyền thống Lễ Nến của Marseilles và cuộc rước ở ven biển của lễ. Trong Tin Mừng, Lazarô là người bạn của Chúa Giêsu, nhưng cũng là tên của nhân vật chính trong một dụ ngôn luôn hợp thời của Chúa, một dụ ngôn mở mắt chúng ta trước sự bất bình đẳng làm xói mòn tình huynh đệ và nói với chúng ta về sự ưu ái của Chúa đối với người nghèo. Là những người Kitô hữu tin vào Thiên Chúa làm người, vào Đấng duy nhất không thể bắt chước được, Đấng trên bờ Địa Trung Hải gọi mình là đường, là sự thật và là sự sống (x. Ga 14:6), chúng ta không thể chấp nhận việc đóng cửa những con đường gặp gỡ. Xin chúng ta đừng đóng lại những con đường gặp gỡ! Chúng ta không thể chấp nhận rằng thần Mammon (tiền của) đánh bại nhân phẩm, rằng sự sống sẽ biến thành cái chết! Giáo hội công bố rằng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô “một cách nào đó đã hiệp nhất với mỗi con người” (Tông huấn Gaudium et Spes, 22) và cùng với Thánh Gioan Phaolô II tin rằng nhân loại là con đường của Giáo hội (x. Thông điệp Redemptor Hominis, 14 ). Thờ phượng Chúa và phục vụ những người dễ bị tổn thương nhất, là kho báu của Chúa. Hãy tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, đó mới là điều quan trọng: không phải là tầm quan trọng xã hội hay con những con số khổng lồ, mà là lòng trung thành với Chúa và với nhân loại!

Đây là chứng tá Kitô giáo, và thường là sự anh dũng: chẳng hạn tôi nghĩ đến Thánh Charles de Foucauld, “người anh em phổ quát” của các vị tử đạo ở Algeria, nhưng cũng là của tất cả những người làm bác ái trong thời đại chúng ta. Trong cách sống Tin Mừng gây chướng mắt này, Giáo Hội khám phá ra bến bờ vững chắc để cập bến và từ đó ra khơi để thắt chặt các mối liên kết với người dân của mọi quốc gia, tìm kiếm khắp mọi nơi dấu vết của Thánh Thần và cống hiến tất cả những gì Giáo hội nhận được bởi ân sủng. Đây là thực tại thuần khiết nhất của Giáo hội, đây là – như Bernanos viết – “Giáo hội của các vị thánh”, đồng thời nói thêm rằng “cơ cấu khổng lồ của sự khôn ngoan, sức mạnh, kỷ luật, sự tráng lệ và nghi nga này tự nó chẳng là gì, nếu nó không được truyền cảm hứng từ lòng bác ái” (Jeanne, relapse et sainte, Paris, 1994, 74).

Tôi vui mừng ca ngợi cái nhìn đặc biệt sâu sắc của nhà văn Pháp này, thiên tài sáng tạo Kitô giáo này đã tái khẳng định rất nhiều sự thật thông qua nhiều hành động và bài viết. Thánh Caesarius thành Arles nói rằng: “Nếu bạn có đức ái, bạn có Thiên Chúa; và nếu bạn có Chúa, bạn còn thiếu điều gì?” (Bài giảng 22, 2). Pascal nhận ra rằng “mục tiêu duy nhất của Kinh thánh là đức ái” (Pensées, số 301) và rằng “sự thật bên ngoài đức ái không phải là Thiên Chúa mà chỉ là hình ảnh của Ngài và một ngẫu tượng mà người ta không được yêu mến hay tôn thờ” (ibid., số 767). Do đó, Thánh John Cassian, người đã qua đời ở đây, viết rằng “Mọi thứ, ngay cả những gì chúng ta coi là hữu ích và cần thiết, đều có giá trị thấp hơn sự tốt lành đó là hòa bình và bác ái” (Collationes, XVI, 6).

Vì thế, thật đúng khi người Kitô hữu phải là người đi đầu về đức ái; và Tin Mừng bác ái là Hiến chương của mọi công tác mục vụ. Chúng ta không được kêu gọi để khóc than về những thời gian đã qua, hoặc tái xác định vai trò của Giáo hội trong xã hội; chúng ta được mời gọi làm chứng nhân, không thêu dệt Tin Mừng bằng lời nói, nhưng làm cho Tin Mừng trở thành xác thịt; không lo lắng về việc chúng ta có được nhìn thấy hay không nhưng cống hiến cách nhưng không, tin rằng “thước đo của Chúa Giêsu là tình yêu không tính toán” (Bài giảng, ngày 23 tháng Hai năm 2020). Thánh Phaolô, Tông đồ của các dân tộc, người đã dành phần lớn cuộc đời của ngài băng qua Địa Trung Hải từ bến cảng này sang bến cảng khác, đã dạy rằng để chu toàn luật của Chúa Kitô, cần phải mang lấy gánh nặng cho nhau (x. Gl 6:2). Thưa các anh em Giám mục, chúng ta đừng tạo gánh nặng cho người khác, nhưng hãy làm nhẹ bớt gánh nặng của họ nhân danh Tin Mừng thương xót, để hân hoan loan truyền niềm an ủi của Chúa Giêsu cho nhân loại đang rã rời và tổn thương. Ước mong Giáo hội không phải là một danh sách các quy định mà là một bến bờ hy vọng cho những ai đã mất lòng tin. Xin anh em hãy mở rộng tấm lòng của mình! Ước mong Giáo hội là một bến bờ nghỉ ngơi, nơi mọi người cảm thấy được động viên dấn thân vào cuộc sống với sức mạnh không gì sánh được sinh ra từ niềm vui Kitô giáo. Ước mong Giáo hội không phải là một trạm hải quan. Chúng ta hãy nhớ những gì Chúa nói với chúng ta: mọi người, mọi người, mọi người đều được mời.

Bây giờ tôi xin nói ngắn gọn về hình ảnh cuối cùng, hình ảnh ngọn hải đăng chiếu những luồng sáng xuống biển và giúp mọi người có thể nhìn thấy bến cảng. Những ngọn đèn hiệu sáng chói nào có thể hướng dẫn lộ trình của các Giáo hội Địa Trung hải? Nghĩ về biển cả, nơi liên kết rất nhiều cộng đồng tín hữu khác nhau, tôi tin rằng người ta có thể suy nghĩ về những cách hợp tác nhiều hơn nữa, có lẽ cũng nên xem xét sự hữu ích của một hội nghị giáo hội Địa Trung Hải, như Đức Hồng y Aveline đã đề cập, có thể mang lại những cơ hội lớn hơn cho việc đối thoại trong khu vực và đại diện. Đồng thời, khi nghĩ đến các bến cảng và chủ đề di cư, sẽ rất hữu ích nếu hướng tới một chương trình mục vụ thậm chí cụ thể liên kết chặt chẽ hơn, để những giáo phận dễ bị ảnh hưởng nhất có thể cung cấp sự trợ giúp tốt nhất về tinh thần và con người cho các anh chị em của chúng ta đến đó và đang vô cùng thiếu thốn.

Cuối cùng, ngọn hải đăng, trong cung điện danh giá mang tên của nó, khiến tôi đặc biệt nghĩ đến giới trẻ. Họ là ánh sáng chỉ đường hướng đến tương lai. Marseilles là một thành phố đại học tuyệt vời với bốn cơ sở; trong số 35.000 sinh viên của trường, có 5.000 sinh viên nước ngoài. Chúng ta bắt đầu dệt nên những mối quan hệ giữa các nền văn hóa từ đâu, nếu không phải từ các Đại học? Ở đó, người trẻ không bị cuốn hút bởi sự cám dỗ của quyền lực mà bởi ước mơ xây dựng tương lai. Mong sao các Đại học của vùng Địa Trung hải trở thành phòng thí nghiệm cho những giấc mơ và xưởng xây dựng tương lai, nơi những người trẻ trưởng thành qua việc gặp gỡ nhau, tìm hiểu nhau đồng thời khám phá các nền văn hóa và bối cảnh vừa gần gũi vừa đa dạng. Bằng cách này, những thành kiến được gỡ bỏ, những vết thương được chữa lành và những luận điệu theo trào lưu chính thống bị bác bỏ. Hãy cảnh giác trước lời rao giảng của rất nhiều trào lưu chính thống đang thịnh hành ngày nay! Những người trẻ khi được chuẩn bị tốt và quen với việc hòa nhập xã hội sẽ có thể mở ra những cánh cửa đối thoại bất ngờ. Nếu chúng ta muốn họ cống hiến hết mình cho Tin Mừng và phục vụ cho hoạt động chính trị cao cả, trước hết chúng ta cần trở nên khả tín: quên mình, không quy chiếu về bản thân, tận tâm cống hiến không mệt mỏi cho tha nhân. Tuy nhiên, thách thức chính của giáo dục liên quan đến mọi lứa tuổi: bắt đầu từ thiếu nhi, bằng cách “hòa nhập” với những trẻ em khác, chúng có thể vượt qua những rào cản, vượt qua những định kiến và phát triển bản sắc riêng của chúng trong bối cảnh cùng làm phong phú cho nhau. Giáo hội chắc chắn có thể đóng góp vào việc này bằng cách cung cấp mạng lưới giáo dục của mình và khuyến khích “tính sáng tạo của tình huynh đệ”.

Thưa anh chị em, thách thức đó cũng là một thách thức của thần học Địa Trung Hải – thần học phải bắt nguồn từ cuộc sống, một thần học trong phòng thí nghiệm không hiệu quả – có khả năng phát triển những lối suy nghĩ bắt nguồn từ thực tế, một “ngôi nhà” cho con người chứ không chỉ là dữ liệu kỹ thuật, sẵn sàng đoàn kết các thế hệ bằng cách liên kết ký ức và tương lai, đồng thời thúc đẩy hành trình đại kết của các Kitô hữu và cuộc đối thoại giữa các tín đồ thuộc những tôn giáo khác nhau cách sáng tạo. Có thể sẽ rất thú vị khi bắt đầu cuộc phiêu lưu tìm kiếm này, cả triết học lẫn thần học, bằng cách rút ra từ các nguồn văn hóa của Địa Trung Hải, có thể khôi phục lại niềm hy vọng cho con người, một mầu nhiệm tự do, cần đến Thiên Chúa và tha nhân để mang đến ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Cũng cần phải suy tư về mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng không ai có thể chiếm hữu hoặc kiểm soát, và thay vào đó, Đấng phải được bảo vệ tránh tất cả mọi lạm dụng thuộc bạo lực và công cụ, với ý thức rằng việc tuyên xưng sự cao cả của Người đòi hỏi chúng ta là những người tìm phải khiêm nhường.

Anh chị em thân mến, tôi vui mừng được đến Marseilles này! Ngài Tổng thống đã mời tôi đến thăm nước Pháp, nhưng ông nói: “Quan trọng là Đức Giáo hoàng phải đến Marseilles!” Vậy là tôi đến! Tôi cám ơn anh chị em đã kiên nhẫn lắng nghe tôi và vì mọi nỗ lực của anh chị em. Hãy tiếp tục công việc tốt đẹp đầy can đảm của anh chị em! Hãy là một đại dương thiện hảo, để đương đầu với tình trạng nghèo đói ngày nay trong tình liên đới và hợp tác; hãy là một bến cảng chào đón, để đón nhận tất cả những ai đang tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn; hãy là ngọn hải đăng hòa bình, để xuyên thủng những vực thẳm tối tăm của bạo lực và chiến tranh bằng văn hóa gặp gỡ. Cảm ơn anh chị em rất nhiều!


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/9/2023]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét