Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2025

Những suy tư của Đức Thánh Cha về việc khắc phục truyền thông đang trong khủng hoảng

Những suy tư của Đức Thánh Cha về việc khắc phục truyền thông đang trong khủng hoảng

Những suy tư của Đức Thánh Cha về việc khắc phục truyền thông đang trong khủng hoảng

Master1305 | Shutterstock


I.Media - Kathleen N. Hattrup

10/10/25


Điều gì sẽ khiến công chúng tìm kiếm “những thông tin xứng đáng với tên gọi của nó”? Đức Thánh Cha Lêô XIV có những cái nhìn sâu sắc về các vấn nạn mà thế giới đang phải đối diện với lượng thông tin “rác” tràn ngập.

“Chúng ta không bị định mệnh an bài để sống trong một thế giới nơi không còn khả năng phân biệt sự thật với điều hư cấu,” Đức Thánh Cha Lêô XIV nói trong buổi tiếp kiến các hãng thông tấn ngày 9 tháng Chín năm 2025. Ngài cảnh báo về những lạm dụng của trí tuệ nhân tạo và “mồi nhử nhấp chuột”, ngài cũng bày tỏ lòng kính trọng đối với các nhà báo đã mạo hiểm cả mạng sống của họ. Ngài nhấn mạnh, “Chúng ta phần lớn phải nhờ vào họ” mới biết được những gì đang xảy ra tại Gaza và Ukraine.

Ngài nói: “Thông tin là một thiện ích công mà tất cả chúng ta đều phải bảo vệ.”

Vào buổi sáng, Đức Thánh Cha đã tiếp đại diện của MINDS International, một mạng lưới toàn cầu gồm các hãng thông tấn hàng đầu, đang quy tụ về Roma để tham dự một hội nghị. Cũng như những gì ngài đã làm ngay sau khi được bầu chọn, trong buổi gặp đầu tiên với giới truyền thông vào ngày 12 tháng Năm, Đức Thánh Cha nhấn mạnh “vai trò trọng yếu của họ trong việc hình thành lương tâm và giúp tư duy phản biện”.

Ngài nói: “Thật là một nghịch lý, khi mà trong thời đại truyền thông, các hãng tin và cơ quan truyền thông lại đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng.” Tương tự như vậy, người tiêu thụ thông tin cũng đang trong cơn khủng hoảng, thường xuyên nhầm lẫn cái giả với cái thật, và cái chân thực với cái giả tạo.”

Tìm kiếm thông tin chân thực

Đức Thánh Cha nói về các vấn đề trong một thế giới được gọi là tin giả, đưa ra gợi ý:

Tính minh bạch về nguồn tin và quyền sở hữu, trách nhiệm giải trình, chất lượng và tính khách quan là những chìa khóa để khôi phục vai trò của người công dân là những vai chính trong hệ thống, thuyết phục họ đòi hỏi những thông tin xứng đáng với tên gọi của nó.

Tôi tha thiết kêu gọi các bạn: Đừng bao giờ bán rẻ uy tín của mình!

Những thách thức mà các nhà báo ngày nay phải đối mặt

Đức Thánh Cha Lêô XIV một lần nữa kêu gọi trả tự do cho các nhà báo đang bị giam cầm: “Thực hiện công việc của một nhà báo không bao giờ có thể bị coi là một tội phạm, nhưng là một quyền phải được bảo vệ.”

Tuy nhiên, Đức Thánh Cha cũng nêu bật cuộc khủng hoảng mà các hãng thông tấn hiện đang phải đối diện, đặc biệt về mặt kinh tế, gọi đây là một “nghịch lý” trong “thời đại truyền thông”.

Ngài đặt câu hỏi về vị trí của trí tuệ nhân tạo trong lãnh vực đưa tin ngày nay, lưu ý rằng “các thuật toán tạo ra nội dung và dữ liệu với quy mô và tốc độ chưa từng có trước đây.”

“Nhưng ai kiểm soát chúng? Trí tuệ nhân tạo đang thay đổi cách chúng ta tiếp nhận thông tin và giao tiếp, nhưng ai đang chỉ đạo nó và nhằm mục đích gì?” Vị đứng đầu Giáo hội Công giáo đặt câu hỏi.

Ngài kêu gọi phải cảnh giác đối với việc thay thế con người bằng công nghệ, và kêu gọi các thuật toán điều khiển luồng thông tin không được “nằm trong tay một số ít người.”

Báo chí là một sự phục vụ vô giá

Đức Thánh Cha nói: sự phục vụ của họ là “vô giá và phải là một liều thuốc giải đối với sự lan tràn thông tin “rác”. Ngài nhấn mạnh áp lực ngày càng lớn đối với các nhà báo trong thời đại “truyền thông trực tiếp liên tục” và truyền thông kỹ thuật số.

Ngài giải thích: “Chúng ta không bị định mệnh an bài để sống trong một thế giới nơi không còn khả năng phân biệt sự thật với điều hư cấu. Truyền thông phải được giải thoát khỏi lối tư duy lệch lạc làm băng hoại nó, thoát khỏi sự cạnh tranh không lành mạnh và khỏi mưu đồ xấu xa của cái gọi là “mồi nhử nhấp chuột.”

Đức Lêô XIV lên án vai trò gây hại của “những người, bằng nghệ thuật dối trá cổ xưa, tìm cách gây ly gián để thống trị bằng cách chia rẽ” trong xã hội ngày nay.

Vì thế, ngài kêu gọi các hãng thông tấn hãy là “thành lũy của nền văn minh chống lại vũng lầy của sự gần đúng và hậu chân lý.”

Thế giới cần thông tin tự do, cặn kẽ và khách quan. Trong bối cảnh đó, thật đáng để nhớ lại lời cảnh báo của Hannah Arendt rằng: “Chủ thể lý tưởng của chế độ toàn trị không phải là người Quốc xã hay người Cộng sản kiên định, nhưng là những người mà nơi họ không còn tồn tại sự phân biệt giữa thực và hư, giữa thật và giả.

Với công việc kiên nhẫn và chỉn chu của mình, các bạn có thể trở thành bức tường thành chống lại những người, bằng nghệ thuật dối trá cổ xưa, tìm cách gây ly gián để thống trị bằng cách chia rẽ. Các bạn cũng có thể là thành lũy của nền văn minh chống lại vũng lầy của sự gần đúng và hậu chân lý.

Sau đây là toàn văn bài diễn văn của ngài:

_________________________________________


Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.

Bình an ở cùng anh chị em.


Anh chị em thân mến, chào anh chị em và xin chào mừng tất cả mọi người!

Tôi rất vui được ngỏ lời cùng anh chị em trong thời điểm này, khi các biến cố thời sự đòi hỏi sự phân định và trách nhiệm đặc biệt, và rõ ràng truyền thông giữ một vai trò trọng yếu trong việc hình thành lương tâm và giúp tư duy phản biện.

Thật là một nghịch lý, khi mà trong thời đại truyền thông, các hãng tin và cơ quan truyền thông lại đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng. Tương tự như vậy, người tiêu thụ thông tin cũng đang trong cơn khủng hoảng, thường xuyên nhầm lẫn cái giả với cái thật, và cái chân thực với cái giả tạo. Tuy nhiên, ngày nay không ai có thể nói, “Tôi đã không biết.” Đó là lý do tôi muốn khuyến khích anh chị em trong công việc quan trọng này và đề nghị các cơ hội cộng tác, để anh chị em cùng nhau suy tư.

Thông tin là một thiện ích công mà tất cả chúng ta đều phải bảo vệ. Vì lý do đó, điều đưa đến hiệu quả thực sự là một quan hệ đối tác giữa người công dân và các nhà báo trong việc phục vụ trách nhiệm đạo đức và công dân.

Một hình thức công dân tích cực là biết trân trọng và hỗ trợ các chuyên gia và những cơ quan thể hiện sự nghiêm túc và tự do thật sự trong công việc của họ. Điều này tạo ra một vòng tròn đạo đức mang lại lợi ích cho toàn xã hội.

Mỗi ngày, có những phóng viên đã mạo hiểm cả tính mạng để thông tin cho mọi người về những gì đang thực sự xảy ra. Trong những thời điểm như của chúng ta hiện nay, bị ghi dấu bởi các cuộc xung đột lan rộng và bạo lực, nhiều người đã thiệt mạng khi thực hiện nhiệm vụ của mình.

Họ là nạn nhân của chiến tranh và của hệ tư tưởng chiến tranh, vốn tìm cách ngăn cản các nhà báo có mặt tại hiện trường. Chúng ta không được quên họ! Nếu ngày nay chúng ta biết những gì đang xảy ra ở Gaza, ở Ukraine, và các vùng đất khác bị nhuốm máu vì bom đạn, chúng ta phần lớn phải nhờ vào họ. Những lời chứng nhân phi thường này là đỉnh cao của những nỗ lực từng ngày của biết bao người làm việc để bảo đảm rằng thông tin không bị thao túng cho những mục tiêu trái với sự thật và phẩm giá con người.

Như anh chị em đã biết, trong buổi gặp đầu tiên của tôi với các nhà báo trên toàn thế giới, ngay sau Mật nghị Hồng y, tôi đã kêu gọi trả tự do cho các đồng nghiệp của anh chị em đang bị ngược đãi và giam giữ bất công vì thực hiện công việc của họ. Hôm nay, một lần nữa tôi xin lặp lại lời yêu cầu này. Thực hiện công việc của một nhà báo không bao giờ có thể bị coi là một tội phạm, nhưng là một quyền phải được bảo vệ.

Tiếp cận thông tin tự do là một trụ cột chống đỡ cho tòa nhà của xã hội chúng ta, và vì thế, chúng ta được kêu gọi bảo vệ và giữ vững nó.

Như Đức Thánh Cha Phanxicô từng nhấn mạnh, “Chúng ta cần những doanh nhân can đảm, những kỹ sư thông tin dũng cảm, để vẻ đẹp của truyền thông không bị băng hoại” (Diễn văn gửi những người tham dự Năm Thánh Truyền thông, ngày 25 tháng Một năm 2025). Truyền thông phải được giải phóng khỏi những lối tư duy lệch lạc làm băng hoại nó, thoát khỏi sự cạnh tranh không lành mạnh và khỏi mưu đồ xấu xa của cái gọi là mồi nhử nhấp chuột. Các hãng thông tấn đang ở tuyến đầu, và được kêu gọi hành động trong môi trường truyền thông hiện nay theo các nguyên tắc – đáng tiếc là không phải lúc nào cũng được chia sẻ – kết hợp tính bền vững kinh tế của công ty với việc bảo vệ quyền được thông tin chính xác và cân bằng. Về phần mình, các nhà báo làm việc trong các hãng thông tấn được kêu gọi trở thành những người đầu tiên có mặt tại hiện trường, tường thuật các sự kiện đang diễn ra.

Điều này càng đúng hơn trong kỷ nguyên truyền thông trực tiếp liên tục và việc số hóa ngày càng lan rộng của truyền thông đại chúng. Như anh chị em đã biết rõ, người làm việc cho một hãng tin phải viết nhanh, dưới áp lực, ngay cả trong những tình huống rất phức tạp và bi thảm. Vì thế, sự phục vụ của anh chị em đòi hỏi năng lực, lòng can đảm và ý thức đạo đức. Điều này là vô giá và phải là một liều thuốc giải đối với sự lan tràn thông tin “rác”.

Nhưng chúng ta không bị định mệnh an bài để sống trong một thế giới nơi không còn khả năng phân biệt sự thật với điều hư cấu. Về mặt này, chúng ta phải tự hỏi mình một số câu hỏi thiết yếu.

Các thuật toán tạo ra nội dung và dữ liệu với quy mô và tốc độ chưa từng có trước đây. Nhưng ai kiểm soát chúng? Trí tuệ nhân tạo đang thay đổi cách chúng ta tiếp nhận thông tin và giao tiếp, nhưng ai đang chỉ đạo nó và nhằm mục đích gì? Chúng ta phải cảnh giác để bảo đảm rằng công nghệ không thay thế con người, đồng thời thông tin và các thuật toán điều khiển luồng thông tin không nằm trong tay một số ít người.

Các bạn thân mến, cảm ơn vì công việc của các bạn! Tôi xin gửi đến các bạn những lời chúc tốt đẹp nhất trong khi các bạn suy tư về những thách thức mà chúng ta đang phải đối diện.

Thế giới cần thông tin tự do, cặn kẽ và khách quan. Trong bối cảnh đó, thật đáng để nhớ lại lời cảnh báo của Hannah Arendt rằng: “Chủ thể lý tưởng của chế độ toàn trị không phải là người Quốc xã hay người Cộng sản kiên định, nhưng là những người mà nơi họ không còn tồn tại sự phân biệt giữa thực và hư, giữa thật và giả (The Origins of Totalitarianism, 474).

Với công việc kiên nhẫn và chỉn chu của mình, các bạn có thể trở thành bức tường thành chống lại những người, bằng nghệ thuật dối trá cổ xưa, tìm cách gây ly gián để thống trị bằng cách chia rẽ. Các bạn cũng có thể là thành lũy của nền văn minh chống lại vũng lầy của sự gần đúng và hậu chân lý.

Ngành truyền thông không thể và không được tách rời công việc của mình khỏi việc chia sẻ sự thật. Tính minh bạch về nguồn tin và quyền sở hữu, trách nhiệm giải trình, chất lượng và tính khách quan là những chìa khóa để khôi phục vai trò của người công dân là những vai chính trong hệ thống, thuyết phục họ đòi hỏi những thông tin xứng đáng với tên gọi của nó.

Tôi tha thiết kêu gọi các bạn: Đừng bao giờ bán rẻ uy tín của mình!

Nguyện xin Thánh Thần của Thiên Chúa, Đấng là chân lý và là sức mạnh, Đấng ban sự hiền hòa cùng lòng can đảm, nâng đỡ các bạn. Tôi đồng hành cùng các bạn và ban phép lành cho các bạn. Cảm ơn các bạn!


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 11/10/2025]


Cây vân sam vùng núi Alps và Hang đá Giáng Sinh từ Salerno cho Quảng trường Thánh Phêrô năm 2025

Cây vân sam vùng núi Alps và Hang đá Giáng Sinh từ Salerno cho Quảng trường Thánh Phêrô năm 2025

Cây vân sam vùng núi Alps và Hang đá Giáng Sinh từ Salerno cho Quảng trường Thánh Phêrô năm 2025

TIZIANA FABI | AFP
Cảnh Chúa Giáng Sinh và cây thông Giáng sinh tại Quảng trường Thánh Phêrô năm 2024

I.Media

08/10/25


Cảnh Chúa Giáng Sinh sẽ bao gồm các hình tượng của những nhân vật tinh thần tiêu biểu thuộc vùng Campania, cùng với những yếu tố kiến trúc và ẩm thực đặc trưng khác.

Vào đầu mùa thu, ngày 3 tháng Mười năm 2025, Toà Thánh Vatican đã công bố xuất xứ của cây linh sam và Cảnh Chúa Giáng sinh sẽ được dựng năm nay tại Quảng trường Thánh Phêrô cho mùa Giáng sinh đầu tiên thuộc triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Lêô XIV.

Cây thông sẽ đến từ vùng Trentino-Alto Adige của Ý — thuộc dãy Alps Ötztal. Cảnh Chúa Giáng sinh sẽ mang phong cách đặc trưng của vùng Campania, gần thành phố Napoli.

Một Cảnh Hang đá Giáng sinh từ Costa Rica sẽ tô điểm cho Hội trường Phaolô VI.

Vào dịp Giáng sinh, cột tháp đá ở Quảng trường Thánh Phêrô sẽ có thêm một cây vân sam đỏ cao 27 mét đứng song song bên cạnh, cây này đến từ tỉnh tự trị Bolzano, hay còn gọi là Nam Tyrol. Cây vân sam, được các thành phố Lagundo và Ultimo dâng tặng, sẽ đi qua quãng đường gần 435 dặm tới Roma. Tại đây, sau khi được trang trí, nó sẽ được hàng chục ngàn du khách chiêm ngưỡng.

Các cây linh sam khác từ cùng khu vực sẽ được vận chuyển đến Vatican để trang trí tại các văn phòng của quốc gia nhỏ bé này. Năm ngoái, cây thông trongi Quảng trường Thánh Phêrô, cũng đến từ vùng Trentino-Alto Adige, đã là tâm điểm của một cuộc tranh luận gay gắt. Các nhóm môi trường phản đối việc chặt hạ và vận chuyển cây, dù vậy kế hoạch cuối cùng vẫn được tiến hành.

Cảnh Chúa Giáng sinh từ thành phố Salerno

Cảnh Chúa Giáng Sinh của Vatican năm nay sẽ do tỉnh Salerno thuộc vùng Campania, phía nam Napoli (giáo phận Nocera Inferiore-Sarno) dâng tặng. Tác phẩm nghệ thuật đó sẽ làm nổi bật những yếu tố đặc trưng của vùng đất này. Dưới chân Hài Nhi Giêsu, hình ảnh một nữ mục đồng sẽ dâng lên Người các sản vật địa phương (atisô, quả óc chó, hành Nocera, và cà chua địa phương – giống San Marzano, corbarino).

Cảnh Chúa Giáng sinh sẽ tái hiện một ngôi nhà có sân trong, kiểu kiến trúc đặc trưng của các căn nhà địa phương, với một cổng bằng đá tuff màu xám.

Bên trong căn nhà này, sẽ có tượng của vị thánh người Napoli là Anphongsô Maria Ligôri, đang ngồi chơi đàn harpsichord, cất tiếng hát bài thánh ca Giáng sinh nổi tiếng của ngài Tu scendi dalle stelle (“Người xuống thế từ các vì sao”). Bên cạnh thánh nhân, một đồng hồ quả lắc nhắc nhở chúng ta rằng vị giám mục này luôn đọc một kinh Kính Mừng mỗi giờ.

Các nhân vật tinh thần khác của khu vực cũng sẽ được đại diện, như Cha Enrico Smaldone (1914-1967), người đã hiến trọn đời mình cho trẻ em đường phố, và giáo dân Alfonso Russo (1943-2013), người đã phục vụ để xoa dịu nỗi đau của những người bệnh.

Những yếu tố văn hóa vùng miền và Năm Thánh

Phần trang trí cũng sẽ gồm các hình ảnh đại diện cho những công trình kiến trúc của khu vực: giếng rửa tội Kitô giáo thời sơ khai tại Nocera Superiore với 12 cây cột, và đài phun nước Helvius của La Mã cổ đại ở Sant'Egidio del Monte Albino. Một bức ảnh Đức Mẹ Ba Triều thiên tại Sarno cũng sẽ hiện diện, được kết bằng những cánh hoa theo truyền thống được gọi là “l’Infiorata.”

Các biểu tượng khác cũng sẽ được lồng ghép vào khung cảnh. Cảnh Hang đá Chúa Giáng sinh sẽ nổi bật với một sao chổi sáng rực có đuôi hình dạng mỏ neo – Salerno nằm trên bờ biển Tyrrhenian. Và một ngư dân sẽ chỉ vào Cửa Thánh của Đền thờ Thánh Phêrô, cánh cửa được mở suốt Năm Thánh 2025, và sẽ được khép lại vào ngày 6 tháng Một năm 2026.

Ngày khánh thành cây thông Giáng sinh và Hang đá Giáng sinh tại Quảng trường Thánh Phêrô vẫn chưa được xác định. Sự kiện này thường diễn ra vào khoảng ngày 8 tháng Mười Hai. Theo truyền thống, Đức Thánh Cha sẽ tiếp các phái đoàn của những người dâng tặng cảnh Chúa Giáng sinh trong một buổi tiếp kiến. Đức Phanxicô thường đến viếng Hang đá Giáng sinh tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 31 tháng Mười Hai, sau giờ Kinh Chiều của ngày cuối cùng trong năm.

Costa Rica và việc bảo vệ sự sống

Đối với cảnh Hang đá Giáng sinh tại Hội trường Phaolô VI — nơi Đức Thánh Cha sẽ tổ chức các buổi tiếp kiến chung vào mùa đông — năm nay tác phẩm sẽ đến từ một quốc gia Trung Mỹ, Costa Rica.

Nghệ nhân người Costa Rica Paula Sáenz Soto dự định tác phẩm này sẽ “gửi đi lời kêu gọi thế giới bảo vệ sự sống ngay từ thời điểm thụ thai,” theo thông cáo báo chí cho biết, tuy nhiên không cung cấp thêm chi tiết về cấu trúc của tác phẩm.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 9/10/2025]


Thứ Năm, 9 tháng 10, 2025

Hai năm sau ngày 7 tháng Mười: phỏng vấn Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh về khủng bố của Hamas và thảm sát tại Gaza

Hai năm sau ngày 7 tháng Mười: phỏng vấn Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh về khủng bố của Hamas và thảm sát tại Gaza
Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh Photo: EuropaPress

Hai năm sau ngày 7 tháng Mười: phỏng vấn Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh về khủng bố của Hamas và thảm sát tại Gaza

Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh trả lời phỏng vấn với Truyền thông Vatican nhân dịp kỷ niệm hai năm cuộc tấn công “phi nhân” của Hamas vào Israel, dẫn đến sự tàn phá Dải Gaza. Ngài nói rằng những gì đang xảy ra tại Gaza là “phi nhân”, và ngài xúc động trước sự tham gia của công chúng vào các cuộc tuần hành vì hòa bình. Ngài nói thêm rằng chủ nghĩa bài Do Thái là một căn bệnh ung thư cần phải loại trừ tận gốc.

06 THÁNG MƯỜI, 2025 11:14

ZENIT STAFF


(ZENIT News – L´Osservatore Romano / Vatican City, 06.10.2025). – Hai năm đã trôi qua kể từ cuộc tấn công khủng bố của Hamas chống lại Israel, khởi đầu cho một cuộc chiến tranh toàn diện đã san bằng Dải Gaza. Chúng ta cùng nhìn lại những biến cố ấy, và những gì đã xảy ra kể từ đó, trong cuộc trò chuyện với Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh.

H: Thưa Đức Hồng y, chúng ta bước vào năm thứ ba kể từ cuộc tấn công bi thảm ngày 7 tháng Mười. Người nhớ lại biến cố đó như thế nào, và theo quan điểm của Đức Hồng y, nó có ý nghĩa gì đối với Nhà nước Israel và các cộng đồng Do Thái trên toàn thế giới?

Đ: Tôi xin nhắc lại điều tôi đã nói lúc bấy giờ: cuộc tấn công khủng bố do Hamas và các nhóm dân quân khác thực hiện nhằm vào hàng ngàn người Israel và người di cư sinh sống tại đó, nhiều người trong họ là thường dân, đang chuẩn bị mừng ngày lễ Simchat Torah, kết thúc tuần lễ Sukkot, là phi nhân và không thể bào chữa được. Bạo lực tàn bạo nhắm vào trẻ em, phụ nữ, thanh niên, người già — hoàn toàn không có sự biện minh nào cho việc đó. Đó là một vụ thảm sát đáng hổ thẹn, và tôi xin nhắc lại, là vô nhân. Tòa Thánh ngay lập tức bày tỏ sự lên án mạnh mẽ và dứt khoát, kêu gọi thả con tin ngay lập tức, và bày tỏ sự gần gũi với các gia đình bị ảnh hưởng bởi cuộc tấn công khủng bố. Chúng tôi đã cầu nguyện, và tiếp tục cầu nguyện, và chúng tôi tiếp tục cầu xin rằng vòng xoáy thù hận và bạo lực dai dẳng này phải chấm dứt, vì nó có nguy cơ kéo chúng ta vào một vực thẳm không lối thoát.

Đức Hồng y muốn nói gì với gia đình các con tin Israel hiện vẫn đang bị Hamas giam giữ?

Thật đáng buồn, hai năm đã trôi qua. Một số người đã chết, những người khác được thả sau các cuộc đàm phán kéo dài. Tôi vô cùng xúc động và đau buồn trước hình ảnh của những người này bị giam trong đường hầm, bị bỏ đói. Chúng ta không thể và không được phép quên họ. Tôi xin nhắc lại rằng Đức Thánh Cha Phanxicô, trong một năm rưỡi cuối đời, đã có ít nhất 21 lời kêu gọi công khai về việc trả tự do cho các con tin và đã gặp gỡ một số gia đình của họ. Người kế vị ngài, Đức Thánh Cha Lêô XIV, đã tiếp tục những lời kêu gọi đó. Tôi xin bày tỏ sự gần gũi với tất cả họ, cầu nguyện hằng ngày cho những đau khổ của họ, và chúng tôi tiếp tục sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể để giúp họ còn sống và an toàn đoàn tụ với những người thân của họ — hoặc ít nhất là nhận được thi thể của những người đã thiệt mạng, để họ có thể được chôn cất cách xứng đáng.

Vào dịp kỷ niệm một năm cuộc tấn công ngày 7 tháng Mười, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói đến “sự bất lực đáng hổ thẹn của cộng đồng quốc tế và các quốc gia hùng mạnh nhất trong việc làm im tiếng súng và chấm dứt thảm kịch chiến tranh.” Điều cần thiết cho hòa bình là gì?

Ngày nay, tình hình tại Gaza còn nghiêm trọng và bi thảm hơn một năm trước, sau một cuộc chiến tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn người. Chúng ta cần khôi phục lại lý trí, từ bỏ luận lý mù quáng của lòng thù hận và sự báo thù, và khước từ bạo lực như một giải pháp. Những người bị tấn công có quyền tự vệ, nhưng ngay cả việc tự vệ chính đáng cũng phải tôn trọng nguyên tắc cân xứng. Thật đáng buồn, cuộc chiến xảy ra đã mang đến những hậu quả thảm khốc và vô nhân … Tôi rùng mình và vô cùng đau khổ trước số người chết hằng ngày ở Palestine — hàng chục, đôi khi hàng trăm, mỗi ngày — rất nhiều trẻ em mà dường như lỗi duy nhất của chúng là sinh ra ở đó. Chúng ta có nguy cơ trở nên vô cảm trước cảnh tàn sát này! Người ta bị giết khi đang cố gắng tìm một mẩu bánh mì, bị chôn vùi dưới đống đổ nát của căn nhà của mình, bị đánh bom trong bệnh viện, trong các trại tị nạn, phải di tản và buộc phải di chuyển từ đầu này sang đầu kia của vùng đất chật hẹp, đông đúc đó… Thật không thể chấp nhận và không thể biện minh khi biến con người thành “tổn thất phụ”.

Chúng ta nên nhìn nhận như thế nào về sự gia tăng các vụ việc bài Do Thái ở nhiều nơi trên thế giới trong những tháng gần đây?

Đó là một hậu quả đau buồn và cũng không thể bào chữa được. Chúng ta đang sống trong một thế giới của tin giả, của những câu chuyện được giản lược quá mức. Điều này khiến những người tiêu thụ các thông tin méo mó này quy trách nhiệm cho cho toàn dân tộc Do Thái về những gì đang xảy ra ở Gaza. Nhưng chúng ta biết điều đó không đúng sự thật. Nhiều tiếng nói bất đồng cũng đã được cất lên mạnh mẽ trong thế giới Do Thái chống lại cách chính phủ Israel đã và đang hành động ở Gaza và phần còn lại của Palestine, nơi mà, chúng ta đừng quên, chủ nghĩa bành trướng định cư, thường là bạo lực, đang tìm cách làm cho việc thành lập một Nhà nước Palestine trở nên bất khả thi.

Chúng ta đã thấy những chứng từ công khai của gia đình các con tin. Chủ nghĩa bài Do Thái là một căn bệnh ung thư cần phải được đấu tranh và nhổ tận gốc. Chúng ta cần những người thiện chí, những nhà giáo dục giúp chúng ta hiểu, và trên hết, giúp chúng ta phân định. Chúng ta không được quên những gì đã xảy ra ở ngay giữa lòng Châu Âu với thảm họa Shoah, và chúng ta phải huy động tất cả sức lực để đảm bảo rằng sự dữ đó không trỗi dậy nữa.

Đồng thời, chúng ta phải bảo đảm rằng các hành vi vô nhân và vi phạm luật nhân đạo không bao giờ được biện minh: không thể nào một người Do Thái bị tấn công hoặc kỳ thị chỉ vì họ là người Do Thái, và cũng không thể nào một người Palestine bị tấn công hoặc kỳ thị chỉ vì họ là người Palestine, bởi vì thật đáng tiếc, có những lúc họ bị nói là “những kẻ khủng bố tiềm tàng”. Chuỗi thù hận quái ác chỉ tạo ra một vòng xoáy chẳng dẫn tới điều gì tốt đẹp. Thật đau xót khi thấy rằng chúng ta vẫn thất bại trong việc rút ra bài học từ lịch sử, ngay cả lịch sử gần đây, vẫn luôn là một người thầy của cuộc sống.

Đức Hồng y đã nói về một tình huống không thể chấp nhận và đề cập đến những lợi ích đang cản trở việc chấm dứt chiến tranh. Những lợi ích đó là gì?

Có vẻ rõ ràng là cuộc chiến do quân đội Israel tiến hành nhằm loại bỏ các chiến binh Hamas đã không tính đến thực tế rằng nó đang nhắm vào một dân tộc gần như không có khả năng tự vệ, vốn đã bị dồn đến bờ vực, trong một khu vực mà các tòa nhà và nhà cửa bị biến thành đống đổ nát. Chỉ cần nhìn vào hình ảnh chụp từ trên không là đủ để hiểu Gaza ngày nay trông như thế nào. Thật đáng tiếc, nó cũng rõ ràng rằng cộng đồng quốc tế đang bất lực và các quốc gia thực sự có khả năng gây ảnh hưởng cho đến nay đã thất bại trong cách hành động để ngăn chặn cuộc thảm sát đang diễn ra. Tôi chỉ có thể nhắc lại những lời rất rõ ràng của Đức Thánh Cha Lêô XIV vào ngày 20 tháng Bảy: “Tôi xin lặp lại lời kêu gọi đối với cộng đồng quốc tế về việc tuân thủ luật nhân đạo và tôn trọng nghĩa vụ bảo vệ thường dân, cũng như nghiêm cấm việc trừng phạt tập thể, sử dụng vũ lực cách bừa bãi và cưỡng chế di tản dân chúng.” Đây là những lời vẫn đang chờ được đón nhận và hiểu thấu.

Vậy cộng đồng quốc tế có thể làm gì?

Chắc chắn là nhiều hơn những gì họ đang làm hiện nay. Không thể chỉ dừng lại ở việc tuyên bố rằng những gì đang xảy ra là không thể chấp nhận được, và sau đó tiếp tục để mặc nó diễn ra. Chúng ta phải nghiêm túc đặt câu hỏi về tính hợp pháp, chẳng hạn, việc tiếp tục cung cấp vũ khí đang được sử dụng chống lại thường dân. Thật đáng buồn, như chúng ta đã thấy, Liên Hợp quốc không thể ngăn chặn những gì đang xảy ra. Nhưng có những chủ thể quốc tế có thể, và nên làm nhiều hơn nữa để chấm dứt thảm kịch này, và chúng ta phải tìm cách trao cho Liên Hợp quốc một vai trò hiệu quả hơn trong việc chấm dứt nhiều cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đang diễn ra trên khắp thế giới.

Đức Hồng y có ý kiến gì về kế hoạch do Tổng thống Trump đề xuất nhằm đạt được lệnh ngừng bắn và kết thúc chiến tranh?

Bất kỳ kế hoạch nào bao gồm người dân Palestine trong các quyết định về tương lai của chính họ, và giúp chấm dứt cuộc thảm sát này — trả tự do cho các con tin và chấm dứt việc giết hại hàng trăm người mỗi ngày — đều đáng được hoan nghênh và ủng hộ. Đức Thánh Cha cũng đã bày tỏ hy vọng rằng các bên sẽ chấp nhận kế hoạch và một tiến trình hòa bình thực sự cuối cùng có thể bắt đầu.

Đức Hồng y nhìn nhận như thế nào về những lập trường được xã hội dân sự, kể cả ở Israel, chống lại các chính sách chiến tranh của chính phủ Israel và ủng hộ hòa bình?

Mặc dù những sáng kiến này đôi khi có nguy cơ bị xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông do tính bạo lực của một số người cực đoan, tôi vẫn có ấn tượng tích cực trước sự tham gia đông đảo của nhiều người trẻ trong các cuộc biểu tình và cam kết. Điều đó cho thấy chúng ta không bị lên án là thờ ơ. Chúng ta phải nghiêm túc xem xét mong muốn hòa bình này, sự sẵn lòng tham gia này… Tương lai của chúng ta, và tương lai của thế giới, phụ thuộc vào điều đó.

Một số người, thậm chí trong Giáo hội, nói rằng trước tất cả những điều này, trên hết chúng ta phải cầu nguyện, chứ không nên xuống đường, để không bị lợi dụng bởi những kẻ bạo lực…

Tôi là một người đã chịu Phép Rửa, một tín hữu, một linh mục; và đối với tôi, việc cầu nguyện liên lỉ trước Thiên Chúa – khẩn xin Người giúp đỡ, nâng đỡ, can thiệp để chấm dứt tất cả những điều này, đồng thời phù trợ các nỗ lực của những con người thiện chí – là điều thiết yếu, hằng ngày và nền tảng. Đức Thánh Cha Lêô một lần nữa mời gọi chúng ta đọc Kinh Mân Côi cầu cho hòa bình vào ngày 11 tháng Mười. Nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng đức tin Kitô giáo phải được nhập thể, bằng không nó hoàn toàn không phải là đức tin… Chúng ta đi theo một Thiên Chúa đã trở thành người phàm, đã mang lấy nhân tính của chúng ta, và đã chỉ cho chúng ta thấy rằng chúng ta không thể thờ ơ với những gì xảy ra xung quanh mình, ngay cả những gì ở xa chúng ta.

Đó là lý do tại sao cầu nguyện không bao giờ là đủ — nhưng hành động cụ thể, sự thức tỉnh lương tâm, các sáng kiến hòa bình, việc nâng cao nhận thức cũng không đủ, ngay cả khi điều đó bị xem là “lạc lõng” hoặc phải chấp nhận rủi ro. Có một đa số im lặng, trong đó có nhiều người trẻ, từ chối đầu hàng trước sự vô nhân này. Họ cũng được kêu gọi cầu nguyện. Nếu cho rằng vai trò của người Kitô hữu chúng ta chỉ là khép mình trong các phòng áo — tôi thấy điều đó rất sai lầm. Cầu nguyện cũng phải dẫn đến hành động, đến chứng tá, đến những lựa chọn cụ thể.

Đức Thánh Cha Lêô không ngừng kêu gọi hòa bình. Tòa Thánh có thể làm gì trong hoàn cảnh này? Đức Hồng y, và toàn thể Giáo hội, có thể đóng góp điều gì?

Tòa Thánh — đôi khi bị hiểu lầm — vẫn tiếp tục kêu gọi hòa bình, mời gọi đối thoại, sử dụng các từ “đàm phán” và “thảo luận,” và thực hiện điều đó xuất phát từ hiện thực sâu sắc: bỏ ngoại giao là chiến tranh không hồi kết, là vực thẳm của hận thù và sự tự hủy diệt của thế giới. Chúng ta phải lên tiếng mạnh mẽ: hãy dừng lại trước khi quá muộn. Và chúng ta phải hành động, làm mọi việc có thể để không quá muộn. Mọi điều đều có thể.

Tại sao việc công nhận Nhà nước Palestine lại quan trọng ở giai đoạn này?

Tòa Thánh đã chính thức công nhận Nhà nước Palestine mười năm trước, với Thỏa thuận Toàn cầu giữa Tòa Thánh và Nhà nước Palestine. Lời mở đầu của thỏa thuận quốc tế đó hoàn toàn ủng hộ một giải pháp công bằng, toàn diện và hòa bình cho vấn đề Palestine, trên tất cả các phương diện, phù hợp với luật pháp quốc tế và tất cả các nghị quyết liên quan của Liên Hợp quốc. Đồng thời, nó ủng hộ một Nhà nước Palestine độc lập, có chủ quyền, dân chủ và có thể đứng vững, bao gồm Bờ Tây, Đông Giêrusalem và Gaza. Thỏa thuận đó cho thấy Nhà nước này không đối lập với các quốc gia khác, mà có thể sống bên cạnh các nước láng giềng trong hòa bình và an ninh. Chúng tôi hài lòng khi nhiều quốc gia trên thế giới đã công nhận Nhà nước Palestine. Nhưng chúng tôi lưu ý với mối quan ngại rằng các tuyên bố và quyết định của Israel đang đi theo hướng ngược lại — tức là nhằm ngăn chặn khả năng ra đời của một Nhà nước Palestine. Giải pháp này, việc thành lập một Nhà nước Palestine, ngày nay càng có giá trị hơn dưới ánh sáng của những biến cố trong hai năm qua. Đó là con đường của hai dân tộc trong hai Nhà nước mà Tòa Thánh đã ủng hộ ngay từ đầu. Vận mệnh của cả hai dân tộc và hai Nhà nước đan quyện với nhau.

Cộng đồng Kitô hữu ở đó hiện nay ra sao, sau cuộc tấn công tàn khốc vào giáo xứ Thánh Gia, và tại sao họ có một vai trò quan trọng ở Trung Đông?

Các Kitô hữu ở Gaza, như chúng ta đã thấy, cũng bị tấn công… Tôi xúc động khi nghĩ về những người quyết tâm ở lại, những người hằng ngày cầu nguyện cho hòa bình và cho các nạn nhân. Đó là một tình huống ngày càng bấp bênh. Chúng tôi cố gắng gần gũi với họ bằng mọi cách, qua những cố gắng của Tòa Thượng Phụ Latinh ở Giêrusalem và Caritas. Chúng tôi biết ơn các chính phủ và các tổ chức đang nỗ lực đưa viện trợ vào và cho phép những người bị thương nặng được chăm sóc. Vai trò của các Kitô hữu ở Trung Đông đã — và luôn là — nền tảng, ngay cả khi số lượng của họ giảm dần. Tôi muốn nhấn mạnh rằng họ chia sẻ trọn vẹn vận mệnh của dân tộc Palestine đang chịu đau khổ, và cùng chịu đau khổ với họ.


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 9/10/2025]


Tiếp Kiến Chung 8.9.2025: Đức Thánh Cha: Phục Sinh có nghĩa là đi vào sự hiệp thông sâu xa hơn với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta

Đức Thánh Cha: Phục Sinh có nghĩa là đi vào sự hiệp thông sâu xa hơn với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta

Tiếp Kiến Chung

Tiếp Kiến Chung 8.9.2025: Đức Thánh Cha: Phục Sinh có nghĩa là đi vào sự hiệp thông sâu xa hơn với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta

*******

Buổi Tiếp kiến Chung sáng nay được tổ chức vào lúc 10 giờ sáng tại Quảng trường Thánh Phêrô, nơi Đức Thánh Cha Lêô XIV gặp gỡ các nhóm khách hành hương và tín hữu đến từ Ý và khắp nơi trên thế giới.

Trong bài huấn từ bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha, tiếp tục loạt bài giáo lý xuyên suốt Năm Thánh với chủ đề “Đức Giêsu Kitô, Niềm Hy Vọng của chúng ta,” đã tập trung suy niệm về đề tài “Tâm hồn bừng cháy.” “Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24:32).

Buổi Tiếp kiến chung kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành Tòa Thánh.

Tiếp Kiến Chung 8.9.2025: Đức Thánh Cha: Phục Sinh có nghĩa là đi vào sự hiệp thông sâu xa hơn với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta

Đức Thánh Cha Lêô XIV mời gọi chúng ta khám phá rằng sự Phục Sinh của Đức Kitô không được biểu lộ qua những cử chỉ ngoạn mục, nhưng qua sự đơn sơ của tình yêu thương hằng ngày. Chúa Phục Sinh bước đi bên cạnh chúng ta trong thinh lặng của đời sống hằng ngày, biến đổi nỗi đau thành niềm hy vọng và cuộc sống thường nhật thành nơi gặp gỡ Thiên Chúa.

_________________________________________


ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

TIẾP KIẾN CHUNG

Quảng trường Thánh Phêrô
Thứ Tư ngày 8 tháng 10, 2025

Loạt bài Giáo lý – Năm Thánh 2025. Đức Giêsu Kitô, Niềm Hy Vọng của chúng ta. 10. Tâm hồn bừng cháy. “Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24:32)


Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Hôm nay, tôi muốn mời anh chị em cùng suy niệm về một khía cạnh đầy ngạc nhiên của sự Phục Sinh của Đức Kitô: sự khiêm nhường của Người. Nếu chúng ta hồi tưởng lại các trình thuật Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra rằng Chúa Phục Sinh không thực hiện điều gì ngoạn mục để áp đặt đức tin nơi các môn đệ của Người. Người không hiện ra giữa đoàn ngũ các thiên thần, Người không thực hiện các quyền năng phi thường, Người không đọc những bài diễn văn long trọng để mặc khải những huyền bí của vũ trụ. Trái lại, Người đến gần cách âm thầm, như một lữ khách bình thường, như một người đói khát xin được chia sẻ chút bánh (x. Lc 24:15, 41).

Bà Maria Mađalêna lầm tưởng Chúa là người làm vườn (x. Ga 20:15). Hai môn đệ trên đường Emmau nghĩ Chúa là một người khách lạ (x. Lc 24:18). Phêrô và các ngư phủ khác cho rằng Người chỉ là một khách qua đường (x. Ga 21:4). Chúng ta có thể đã mong đợi những hiệu ứng đặc biệt, những dấu chỉ quyền năng, hay những bằng chứng choáng ngợp. Nhưng Thiên Chúa không chọn cách đó: Người thích ngôn ngữ của sự gần gũi, của sự bình thường, của việc chia sẻ bữa ăn hơn.

Thưa anh chị em, có một thông điệp quý giá ở đây: Phục Sinh không phải là một màn trình diễn phi thường; đó là một sự biến đổi âm thầm đổ đầy ý nghĩa cho mỗi cử chỉ của con người. Chúa Giêsu Phục sinh ăn một miếng cá trước mặt các môn đệ của Người: đây không phải là một chi tiết vụn vặt, mà là sự xác nhận rằng thân xác chúng ta, lịch sử chúng ta, các mối tương quan của chúng ta không phải là một lớp vỏ để rồi phải vứt bỏ. Chúng được định đoạt cho sự viên mãn của sự sống. Phục Sinh không có nghĩa là trở thành những linh hồn như sương khói, nhưng là đi vào một sự hiệp thông sâu xa hơn với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta, trong một nhân tính được biến đổi nhờ tình yêu.

Trong Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, mọi sự đều có thể trở thành ân sủng. Ngay cả những điều bình thường nhất: ăn uống, làm việc, chờ đợi, chăm sóc nhà cửa, hỗ trợ bạn bè. Sự Phục Sinh không cất đời sống ra khỏi thời gian và nỗ lực, nhưng thay đổi ý nghĩa và “hương vị” của nó. Mỗi cử chỉ được thực hiện trong tâm tình tạ ơn và hiệp thông đều là sự loan báo trước về Nước Thiên Chúa.

Tuy nhiên, có một trở ngại thường ngăn cản chúng ta không nhận ra sự hiện diện của Đức Kitô trong đời sống hằng ngày: cho rằng chỉ có niềm vui khi không còn đau khổ. Hai môn đệ Emmau buồn bã bước đi vì họ đã hy vọng vào một kết cục khác, vào một Đấng Mêsia không biết đến Thập giá. Mặc dù đã nghe nói ngôi mộ trống, họ vẫn không thể mỉm cười. Nhưng Đức Giêsu bước đi bên cạnh họ và kiên nhẫn giúp họ hiểu rằng đau khổ không phải là sự phủ nhận lời hứa, nhưng là con đường qua đó Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Người (x. Lc 24:13-27).

Khi cuối cùng họ cùng ngồi vào bàn với Người và bẻ bánh, mắt họ được mở ra. Họ nhận ra rằng lòng họ đã bừng cháy từ trước, dù họ chưa nhận biết (x. Lc 24:28-32). Đây là điều ngạc nhiên lớn nhất: khám phá ra rằng dưới đống tro tàn của thất vọng và mệt mỏi luôn có một cục than hồng sống động, chỉ chờ được khơi dậy.

Thưa anh chị em, sự phục sinh của Đức Kitô dạy chúng ta rằng không có lịch sử nào mang đậm dấu ấn của sự thất vọng hay tội lỗi đến mức không thể được viếng thăm bởi niềm hy vọng. Không có sa ngã nào là vĩnh viễn, không có đêm tối nào là vô tận, không vết thương nào bị định sẵn phải hở mãi không lành. Dù chúng ta cảm thấy xa cách, lạc lối hay bất xứng đến đâu, thì không có khoảng cách nào có thể dập tắt sức mạnh bất diệt của tình yêu Thiên Chúa.

Đôi khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ đến thăm chúng ta trong những giây phút chiêm niệm hay cầu nguyện sốt sắng, khi chúng ta cảm thấy mình xứng đáng, khi đời sống chúng ta có vẻ ngăn nắp và sáng sủa. Nhưng Đấng Phục Sinh lại ở gần chúng ta chính trong những nơi tối tăm nhất: trong những thất bại, trong những mối tương quan bị rạn nứt của chúng ta, trong những cuộc chiến đấu hằng ngày đè nặng trên vai chúng ta, trong những hoài nghi khiến chúng ta nản lòng. Không điều gì thuộc về chúng ta, không mảnh đời nào của chúng ta, là xa lạ với Người.

Hôm nay, Chúa Phục Sinh bước đi bên cạnh mỗi người chúng ta, khi chúng ta đi trên những nẻo đường của mình – những nẻo đường của lao động và cam kết, cả trên những nẻo đường đau khổ và cô đơn – và với sự dịu dàng vô biên, Người xin chúng ta hãy để Người sưởi ấm trái tim chúng ta. Người không áp đặt cách ồn ào; Người không đòi hỏi phải được nhận ra ngay lập tức. Người kiên nhẫn chờ đợi khoảnh khắc mắt chúng ta mở ra để nhìn thấy dung mạo thân thiện của Người, dung mạo có khả năng biến thất vọng thành sự mong chờ đầy hy vọng, biến nỗi buồn thành lòng biết ơn, sự cam chịu thành niềm hy vọng.

Đấng Phục sinh chỉ mong muốn tỏ lộ sự hiện diện của Người, trở thành người bạn đồng hành trên đường của chúng ta, và thắp lên trong chúng ta niềm xác tín rằng sự sống của Người mạnh hơn bất kỳ cái chết nào. Vậy, chúng ta hãy xin ơn biết nhận ra sự hiện diện khiêm nhường và kín đáo của Người, để không mong chờ một cuộc sống không có thử thách, để khám phá rằng mọi đau khổ, nếu được đón nhận trong tình yêu, đều có thể trở thành một nơi hiệp thông.

Và như thế, giống như các môn đệ Emmau, chúng ta cũng trở về nhà với con tim bừng cháy niềm vui. Một niềm vui đơn sơ không xóa đi các vết thương, nhưng soi sáng chúng. Một niềm vui đến từ sự chắc chắn rằng Thiên Chúa đang sống, đang bước đi cùng chúng ta, và ban cho chúng ta khả năng để bắt đầu lại trong mọi khoảnh khắc.

_______________________________________________


Lời Chào Đặc Biệt:

Tôi thân ái gửi lời chào đến anh chị em hành hương và các du khách nói tiếng Anh tham dự buổi Tiếp kiến hôm nay, đặc biệt là những anh chị em đến từ Úc, Đan Mạch, Anh, Ấn Độ, Indonesia, Ireland, Nhật Bản, Malaysia, Nigeria, Bắc Ireland, Na Uy, Philippines, Ả Rập Xê Út, Scotland, Nam Phi, Hàn Quốc, Thụy Điển, Việt Nam, Wales và Hoa Kỳ. Cách riêng, tôi gửi lời chào trìu mến đến các tu sĩ và những người sống đời tận hiến tham dự Năm Thánh Đời sống Tận hiến, tôi khuyến khích anh chị em hãy hướng nhìn về Đức Trinh nữ Maria, Đấng là “mẫu gương tuyệt vời về sự tận hiến cho Chúa Cha, kết hiệp với Chúa Con và mở lòng đón nhận Thánh Thần” (Vita consecrata, 28). Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em!


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 9/10/2025]


Hai năm sau vụ thảm sát tại Israel: Đức Thánh Cha Lêô XIV lên tiếng và bàn về những vấn đề thời sự khác, trong đó có chuyến tông du đầu tiên của ngài trên cương vị Giáo hoàng

Hai năm sau vụ thảm sát tại Israel: Đức Thánh Cha Lêô XIV lên tiếng và bàn về những vấn đề thời sự khác, trong đó có chuyến tông du đầu tiên của ngài trên cương vị Giáo hoàng

Đức Thánh Cha Lêô XIV dừng lại trước cổng Biệt thự Barberini để trò chuyện ngắn với các phóng viên Photo: Vatican Media

Hai năm sau vụ thảm sát tại Israel: Đức Thánh Cha Lêô XIV lên tiếng và bàn về những vấn đề thời sự khác, trong đó có chuyến tông du đầu tiên của ngài trên cương vị Giáo hoàng


Những phát biểu của Đức Thánh Cha được đưa ra sau vụ tranh cãi do Đại sứ quán Israel tại Tòa Thánh gây ra, khi cơ quan này chỉ trích cuộc phỏng vấn gần đây của Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, là làm suy yếu các nỗ lực hòa bình

07 THÁNG MƯỜI, 2025 15:36

JORGE ENRIQUE MÚJICA


(ZENIT News / Castelgandolfo, 07.10.2025). - Khi mặt trời bắt đầu khuất sau Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha Lêô XIV dừng bước tại cổng Biệt thự Barberini để trò chuyện ngắn với các phóng viên — một khoảnh khắc không nằm trong lịch trình. Đúng vào ngày công bố chuyến tông du đầu tiên của ngài tới Thổ Nhĩ Kỳ và Li-băng, Đức Thánh Cha đã hướng sự chú ý đến Trung Đông, với xúc động rõ rệt khi nhắc lại những cuộc tấn công của Hamas ở Israel hai năm trước và hậu quả thảm khốc của cuộc chiến sau đó tại Gaza.

Hai năm sau vụ thảm sát tại Israel: Đức Thánh Cha Lêô XIV lên tiếng và bàn về những vấn đề thời sự khác, trong đó có chuyến tông du đầu tiên của ngài trên cương vị Giáo hoàng

“Đó là hai năm của nỗi đau đớn sâu thẳm,” ngài nói, với âm giọng vừa suy tư vừa khẩn thiết. “Trong vụ tấn công khủng bố đó, 1.200 người đã thiệt mạng. Kể từ đó, khoảng 67.000 người Palestine đã bị giết. Chúng ta phải suy nghĩ về mức độ hận thù đang tồn tại trên thế giới, và tự hỏi chúng ta có thể làm gì. Chúng ta cần giảm bớt hận thù, khôi phục khả năng đối thoại với nhau, tìm kiếm những con đường hòa bình.”

Đây không phải là lần đầu tiên Đức Thánh Cha Lêô XIV nói về cuộc khủng hoảng Trung Đông, nhưng lời ngài mang một sự khẩn thiết mới. Không chút do dự, ngài lên án chủ nghĩa khủng bố và sự trỗi dậy của chủ nghĩa bài Do Thái, gọi cả hai là “biểu hiện của cùng một sự mù lòa về đạo đức.” Ngài tiếp tục: “Chúng ta không thể dung thứ cho các nhóm gieo rắc khủng bố. Sự thù hận không thể được biện minh bởi bất cứ niềm tin hay ý thức hệ nào. Và chủ nghĩa bài Do Thái, dù công khai hay âm thầm, phải bị loại bỏ dứt khoát. Tin Mừng kêu gọi chúng ta sống hòa bình, và hòa bình bắt đầu bằng sự tôn trọng phẩm giá của mỗi người.”

Những phát biểu của Đức Thánh Cha được đưa ra sau vụ tranh cãi do Đại sứ quán Israel tại Tòa Thánh gây ra, khi cơ quan này chỉ trích cuộc phỏng vấn gần đây của Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, là làm suy yếu các nỗ lực hòa bình. Khi được hỏi trực tiếp về vấn đề này, Đức Lêô XIV đã bảo vệ nhà ngoại giao hàng đầu của mình không chút do dự, ngài nói: “Đức Hồng y đã bày tỏ rất rõ ràng lập trường của Tòa Thánh”.

Cuộc trò chuyện sau đó nhanh chóng chuyển sang chuyến hành hương sắp tới của ngài đến Trung Đông — một vùng đất mà Đức Thánh Cha mô tả là “một ngã tư của những vết thương và niềm hy vọng.” Chuyến đi, dự kiến diễn ra từ ngày 27 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12, sẽ bao gồm các chặng dừng chân tại Thổ Nhĩ Kỳ và Li-băng, mang hai ý nghĩa đặc biệt. Thổ Nhĩ Kỳ sẽ kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nixêa, một cột mốc mà theo Đức Thánh Cha, “nhắc nhở các Kitô hữu rằng sự hiệp nhất trong đức tin không phải là một di tích của quá khứ mà là một sứ mạng cho tương lai.”

Ngài giải thích: “Đó là chuyến đi mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã hằng mong muốn thực hiện từ lâu. Đối với tất cả các Kitô hữu, đây sẽ là khoảnh khắc của sự hiệp nhất chân thành trong đức tin. Chúng ta nhìn lại Công đồng Nixêa không phải để đắm chìm trong quá khứ, mà để hướng tới tương lai — hướng tới những gì Thánh Thần đang mời gọi chúng ta hôm nay.”

Hai năm sau vụ thảm sát tại Israel: Đức Thánh Cha Lêô XIV lên tiếng và bàn về những vấn đề thời sự khác, trong đó có chuyến tông du đầu tiên của ngài trên cương vị Giáo hoàng

Li-băng, điểm dừng chân thứ hai trong chuyến đi, sẽ mang sắc thái mục vụ rõ rệt. Kể từ vụ nổ cảng kinh hoàng ở Beirut năm 2020, quốc gia này phải đối mặt với sự sụp đổ kinh tế và sự tuyệt vọng xã hội. Đức Thánh Cha Lêô XIV cho biết ngài hy vọng sẽ mang đến “thông điệp hòa bình và hy vọng” cho một dân tộc “đã chịu đựng quá nhiều đau khổ.” Ngài nói thêm: “Đức Thánh Cha Phanxicô cũng muốn ôm lấy người dân Li-băng sau thảm kịch đó. Chúng tôi sẽ đến đó để mang đến vòng tay yêu thương ấy — để nhắc nhở họ rằng Giáo hội không lãng quên.”

Trước khi khởi hành về Roma, nơi ngài dự kiến sẽ gặp gỡ một nhóm khách hành hương Croatia vào tối cùng ngày, Đức Thánh Cha mời gọi tất cả các tín hữu dành tháng này để cầu nguyện cho hòa bình. Ngài nói: “Giáo hội phải tiếp tục cầu nguyện và thúc đẩy đối thoại bằng mọi cách có thể. Lời mời gọi hòa bình của Chúa không phải là một ý tưởng trừu tượng — đó là một sứ mạng mà chúng ta phải sống.”


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 9/10/2025]


Đức Lêô XIV thiết lập phong cách truyền thông riêng của ngài

Đức Lêô XIV thiết lập phong cách truyền thông riêng của ngài

Đức Lêô XIV thiết lập phong cách truyền thông riêng của ngài

Antoine Mekary | ALETEIA

Đức Thánh Cha Lêô XIV trong buổi tiếp kiến các thành viên giới truyền thông tại Hội trường Phaolô VI, Vatican, ngày 12 tháng 5 năm 2025.


Cyprien Viet

06/10/25


Trong số nhiều điều khác nhau, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã hình thành thói quen trả lời các câu hỏi của giới báo chí vào tối thứ Ba hằng tuần khi ngài rời khỏi nơi ngài nghỉ ngơi tại Castel Gandolfo.

“Để lời của Đức Thánh Cha có giá trị, chúng phải là hiếm hoi,” một cộng sự thân cận của Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên ngài. Vị Giáo hoàng người Argentina không đồng ý. Triều đại giáo hoàng của ngài được đánh dấu bởi rất nhiều cuộc phỏng vấn và đôi khi là những tuyên bố gây tranh luận. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Đức Phanxicô đã thực hiện hơn 200 cuộc phỏng vấn với các cơ quan truyền thông thuộc mọi khuynh hướng. Và đó là chưa kể đến những cuộc họp báo nổi tiếng của ngài trên chuyến bay khi trở về sau mỗi chuyến tông du.

Đức Lêô XIV rõ ràng đang định hình một phong cách riêng biệt và nghiêm trang hơn. Cho đến nay, ngài mới chỉ thực hiện một cuộc phỏng vấn chuyên sâu. Cụ thể, ngài đã trao đổi với nữ ký giả người Mỹ Elise Allen thuộc hãng truyền thông Crux, cho cuốn sách của chị mang tên Đức Lêô XIV: Công dân của Thế giới, Nhà truyền giáo của Thế kỷ XXI (được xuất bản đầu tiên bằng tiếng Tây Ban Nha bởi nhà xuất bản Penguin Peru, dự kiến có bản tiếng Anh vào năm 2026).

Ngài cũng đã có cuộc trò chuyện ngắn với ký giả Ignazio Ingrao của RAI vào cuối chuyến thăm trung tâm phát sóng Đài Phát thanh Vatican tại Santa Maria di Galeria ngày 18 tháng Sáu, trong đó ngài kêu gọi “thúc đẩy hòa bình.”

Vài lời về thời sự quốc tế

Tuy nhiên, kể từ đầu tháng Chín, một truyền thống mới đã được hình thành. Đức Thánh Cha Lêô XIV dành một ngày nghỉ ngơi vào đầu tuần tại nơi ở của ngài ở Castel Gandolfo. Mỗi tối thứ Ba, khi trở về Vatican, ngài dừng lại để chào thăm các tín hữu đang tập trung bên ngoài. Việc này cũng tạo cơ hội cho các nhà báo đặt câu hỏi về các vấn đề thời sự.

Trong hai hoặc ba phút này, Đức Lêô XIV thường sẵn sàng nói vài lời về tin tức quốc tế. Vào ngày 9 tháng Chín, ngài bày tỏ mối quan ngại về “tình hình thực sự nghiêm trọng” do cuộc tấn công của Israel nhằm vào Qatar. Sau đó, vào ngày 23 tháng Chín, khi được hỏi về các mối đe dọa của Nga tại Đông Âu, ngài trả lời rằng Châu Âu “có thể tạo ra sự khác biệt” nếu họ “thực sự đoàn kết.”

Sau đó, vào ngày 1 tháng Mười, vị Giáo hoàng đầu tiên đến từ Hoa Kỳ đã phản ứng trước tranh cãi về một giải thưởng sắp được Tổng Giáo phận Chicago trao cho một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, xét đến ý nghĩa của việc bảo vệ sự sống. Ngài cũng bày tỏ sự bối rối trước tên gọi “Bộ trưởng Chiến tranh” — tên mới của Bộ trưởng Quốc phòng — và một cuộc họp của các nhà lãnh đạo quân sự quốc gia được tổ chức với sự hiện diện của Tổng thống Trump.

“Chúng ta phải hành động vì hòa bình,” ngài cảnh báo, đồng thời hy vọng rằng “phong cách của chính phủ” này thiên về “gây sức ép” có thể giúp ngăn cản các cường quốc khác gây chiến.

Luôn mong muốn mang lại sự cân bằng cho một bối cảnh toàn cầu bị phân cực cao, Đức Thánh Cha cũng nhận định rằng có những “yếu tố rất thú vị” trong kế hoạch của ông Trump nhằm chấm dứt cuộc chiến ở Gaza.

Sự hiện diện không ngần ngại nhưng vẫn thận trọng

Những ý kiến chia sẻ với giới báo chí cho thấy một số đặc điểm trong phong cách truyền thông của Đức Lêô XIV. Ngài bày tỏ ý kiến mà không gây sốc. Đồng thời, ngài chắt lọc một vài mối quan ngại và điểm đáng chú ý mà giới truyền thông và các cơ quan ngoại giao sau đó nhanh chóng phân tích.

Cách ngài trả lời các câu hỏi, hoặc thậm chí là đón trước các câu hỏi, cũng cho thấy Đức Thánh Cha luôn kết nối và nắm bắt thông tin kịp thời. Chẳng hạn, vào ngày 9 tháng Chín, ngài đã tự đề cập đến cuộc tấn công của Israel vào Qatar vừa xảy ra.

Ngài không nhất thiết phải đi qua tất cả các kênh ngoại giao và thể chế có sẵn, nhưng ngài biết cách sử dụng những chiếc micro được đưa tới mà không do dự để truyền tải một số thông điệp. Ngài đặc biệt lên tiếng cổ võ hòa bình và tôn trọng chủ quyền bất khả xâm phạm của các quốc gia.

Các chuyến tông du đầu tiên của ngài cũng sẽ là cơ hội để hiểu rõ hơn cách ngài tương tác với các nhà báo. Có khả năng ngài sẽ nối lại thông lệ tổ chức họp báo trên chuyến bay khi trở về sau mỗi chuyến đi, như vị tiền nhiệm của ngài đã làm. Tuy nhiên, cũng có thể ngài yêu cầu văn phòng báo chí thu thập câu hỏi trước, như trường hợp dưới triều đại giáo hoàng của Đức Bênêđictô XVI.

Vị Giáo hoàng người Đức, nổi tiếng với trí tuệ uyên bác, miễn cưỡng ứng khẩu và luôn chuẩn bị những bài diễn văn được bố cục chặt chẽ... tuy nhiên cũng không tránh được một số hiểu lầm nghiêm trọng trong cách diễn giải lời nói của ngài.

Sự cởi mở chưa từng có của Đức Gioan Phaolô II

Nhìn xa hơn về trước, những ngày đầu triều đại giáo hoàng của Đức Gioan Phaolô II được ghi dấu bằng sự cởi mở rất lớn của ngài đối với giới truyền thông. Điều này bao gồm các cuộc phỏng vấn, mà ngày nay ít được nhớ đến, nhưng vào thời điểm đó đã cho thấy một sự tan băng ngoạn mục trong mối quan hệ giữa Giáo triều và báo chí.

Vào ngày 10 tháng Tám năm 1983, ngay trước chuyến viếng thăm Lộ Đức, kênh Soir 3 đã phát sóng một phần được giới thiệu là cuộc phỏng vấn truyền hình đầu tiên với một vị Giáo hoàng, do FR3 thực hiện.

Những lần xuất hiện như vậy trở nên hiếm hoi hơn sau đó, khi hoạt động truyền thông của ngài dần trở nên trau chuốt và được kiểm soát kỹ hơn dưới ảnh hưởng của ông Joaquin Navarro Valls, người phát ngôn đảm nhận chức vụ vào năm 1984.

Rất có thể Đức Lêô XIV cũng sẽ tự mình chọn một đội ngũ truyền thông riêng. Điều này có nghĩa là sẽ có sự sắp xếp lại nhân sự của Bộ Truyền thông vốn vẫn giữ nguyên từ triều đại giáo hoàng của Đức Phanxicô.

Dù như thế nào, chắc chắn ngài sẽ trung thành với đường lối được nêu ra trong buổi tiếp kiến các nhà báo tại Hội trường Phaolô VI ngày 12 tháng Năm vừa qua. Trong dịp đó, ngài đã thúc đẩy một kiểu truyền thông “không sử dụng những lời lẽ công kích, không chạy theo văn hóa cạnh tranh và không bao giờ tách rời việc tìm kiếm sự thật khỏi tình yêu mà chúng ta phải khiêm tốn tìm kiếm nó.”


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 8/10/2025]


Thứ Tư, 8 tháng 10, 2025

Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi một kỷ nguyên truyền giáo và chào đón mới

Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi một kỷ nguyên truyền giáo và chào đón mới

*******

Tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã chủ sự Thánh lễ Năm Thánh cho các Nhà Truyền giáo và Người Di cư, trong đó ngài nhấn mạnh đến tính cấp bách của một Giáo hội “ra đi” và sự cần thiết của văn hóa huynh đệ trong bối cảnh của sự thờ ơ và kỳ thị.

Trong khuôn khổ Năm Thánh của Thế giới Truyền giáo và Di dân, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã chủ sự Thánh lễ trọng thể tại Quảng trường Thánh Phêrô, trong bầu khí hân hoan và suy tư về vai trò của truyền giáo trong Giáo hội đương đại.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “toàn thể Giáo hội là truyền giáo” và ngày nay, biên giới của việc truyền giáo không còn được đo bằng cây số, mà bằng những nỗi khổ đau của nhân loại đang gõ cửa các cộng đoàn Kitô giáo: “Đó không còn là vấn đề ra đi đến những vùng đất xa xôi, mà là ở lại, là đón tiếp, là mở rộng vòng tay và con tim với những ai đến với sự mong manh và niềm hy vọng.”

Đức Giáo hoàng đặc biệt nhấn mạnh đến thảm cảnh của người di cư: “Thưa anh chị em, những chiếc thuyền đang mong chờ để nhìn thấy một bến cảng an toàn thì không thể nào, cũng không được phép, để những đôi mắt chứa đầy thống khổ đó bắt gặp sự lạnh lùng của thái độ thờ ơ hay sự kỳ thị.” Trước thách thức này, ngài thúc giục một sự phản ứng của lòng trắc ẩn và tình liên đới, biến người tín hữu thành “một sự hiện diện của niềm an ủi và hy vọng.”

Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

Trong bài suy niệm, Đức Thánh Cha nhắc lại lời của ngôn sứ Kha-ba-cúc và những suy tư của Đức Bênêđictô XVI về sự im lặng của Thiên Chúa trước sự dữ, đồng thời chỉ ra rằng đức tin chính là câu trả lời mở ra con đường cứu độ: “Đức tin, dù chỉ nhỏ bé bằng hạt cải, vẫn chứa đựng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa làm biến đổi lịch sử.”

Đức Thánh Cha trình bày hai cam kết nền tảng cho sứ vụ của Giáo hội: cộng tác truyền giáo — mời gọi các Giáo hội có truyền thống lâu đời để cho mình trở nên phong phú bởi sức sống của các cộng đoàn thuộc Nam bán cầu — và cổ võ ơn gọi truyền giáo mới, đặc biệt tại Châu Âu, hướng đến giới trẻ.

Ngài khẳng định: “Hôm nay, một kỷ nguyên truyền giáo mới bắt đầu trong lịch sử Giáo Hội,” trích lời Thánh Giáo hoàng Phaolô VI và vị tiền nhiệm là Đức Thánh Cha Phanxicô, để nhấn mạnh đến tính cấp bách của việc “sống trong trạng thái truyền giáo liên tục.”

Bài giảng kết thúc với phép lành đặc biệt dành cho các nhà truyền giáo, các cộng đoàn địa phương và những người di dân, những người mà Đức Thánh Cha gửi tới thông điệp rõ ràng: “Anh chị em luôn được chào đón. Biển cả và sa mạc mà anh chị em đã vượt qua, trong Kinh Thánh, là những nơi cứu độ. Ước gì anh chị em gặp được dung nhan Thiên Chúa nơi các nhà truyền giáo đón tiếp anh chị em.”


Toàn văn bài giảng


JUBILEE OF THE MISSIONARY WORLD AND JUBILEE OF MIGRANTS
NĂM THÁNH THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO VÀ NĂM THÁNH NGƯỜI DI CƯ


BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

Quảng trường Thánh Phêrô
Chúa Nhật XXVII Thường Niên, ngày 5 tháng Mười năm 2025

____________________________________


Anh chị em thân mến,

Hôm nay, chúng ta cử hành Năm Thánh của Thế giới Truyền giáo và Người Di cư. Đây là một dịp tốt đẹp để khơi dậy trong chúng ta ý thức về ơn gọi truyền giáo, được sinh ra từ ước muốn mang niềm vui và sự an ủi của Tin Mừng đến với tất cả mọi người, nhất là những người đang sống một lịch sử đầy khó khăn và thương tổn. Tôi nghĩ cách riêng đến những anh chị em di cư của chúng ta, những người đã phải rời bỏ quê hương, thường là phải bỏ lại những người thân yêu, trải qua những đêm tối sợ hãi và cô đơn, và chịu sự kỳ thị và bạo lực.

Chúng ta hiện diện nơi đây, trước mộ của Thánh Tông đồ Phêrô, để mỗi người chúng ta nói lên với niềm hân hoan rằng: toàn thể Giáo hội là truyền giáo, và điều thật cấp bách — như Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định — rằng Giáo hội “phải ra đi để loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi người, ở mọi nơi, trong mọi dịp, không trì hoãn, không miễn cưỡng, và không sợ hãi” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 23).

Chính Thánh Thần thôi thúc chúng ta tiếp nối công trình của Đức Kitô nơi các vùng ngoại vi của thế giới, nhiều khi mang dấu ấn của chiến tranh, bất công và đau khổ. Trước những cảnh tượng tối tăm này, trong lịch sử tiếng kêu đã rất thường xuyên thấu lên tới Thiên Chúa nay lại vang lên: Lạy Chúa, sao Chúa không ra tay? Sao Người dường như vắng mặt? Tiếng kêu đau đớn này là một hình thức cầu nguyện thấm đẫm toàn bộ Thánh Kinh, và sáng nay chúng ta nghe lại từ ngôn sứ Khabacuc: “Lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe? Sao Ngài bắt con phải chứng kiến tội ác hoài. Trước mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn?” (Kb 1:2-3).

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, khi suy tư về những câu hỏi này trong chuyến thăm lịch sử tới trại Auschwitz, trở lại chủ đề này trong một bài giáo lý, ngài nói rằng: “Thiên Chúa im lặng, và sự im lặng này xé nát linh hồn người cầu nguyện, người không ngừng kêu cầu, chẳng tìm được câu trả lời. […] Thiên Chúa dường như quá xa xôi, thật quên lãng, quá vắng bóng” (Bài Giáo lý, ngày 14 tháng Chín năm 2011).

Nhưng câu trả lời của Chúa mở ra cho chúng ta niềm hy vọng. Trong khi ngôn sứ kêu than về sức mạnh không tránh được của sự dữ dường như đang thắng thế, thì Thiên Chúa loan báo rằng tất cả những điều này có một thời hạn nhất định, có hồi kết sau cùng, bởi vì ơn cứu độ sẽ đến và không trì hoãn: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (Kb 2:4).

Do đó, có một sự sống, một cơ hội mới của sự sống và ơn cứu độ đến từ đức tin, bởi đức tin không chỉ giúp chúng ta chống lại sự dữ bằng cách kiên trì trong việc thiện, mà còn biến đổi đời sống của chúng ta để làm cho nó trở thành khí cụ của ơn cứu độ mà Thiên Chúa hằng muốn thực hiện trong thế giới. Và, như Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng, đó là một sức mạnh dịu dàng; đức tin không áp đặt qua các phương tiện quyền lực hoặc theo những cách thức phi thường; một hạt cải là đủ để đạt được những điều tưởng chừng không thể (x. Lc 17:6), bởi vì nó mang trong mình sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa mở ra những con đường cứu độ.

Hãy tiếp tục cầu nguyện: Đức Thánh Cha nói về những tiến triển hòa bình tại Trung Đông

Ơn cứu độ đó được thực hiện khi chúng ta đích thân cam kết và gánh lấy nỗi đau khổ của người lân cận với lòng trắc ẩn của Tin Mừng; ơn cứu độ ấy phát triển cách âm thầm và dường như không hiệu quả trong những cử chỉ và lời nói thường ngày, giống như hạt giống nhỏ bé mà Chúa Giêsu nói đến; đó là ơn cứu độ dần lớn lên khi chúng ta trở thành “những đầy tớ vô dụng,” nghĩa là khi chúng ta dấn thân phục vụ Tin Mừng và anh chị em của mình, không phải để theo đuổi lợi ích riêng, nhưng chỉ nhằm mang tình yêu của Chúa đến cho thế giới.

Với niềm tin tưởng này, chúng ta được mời gọi canh tân trong lòng ngọn lửa của ơn gọi truyền giáo. Như Thánh Phaolô VI khẳng định, “Bổn phận của chúng ta là loan báo Tin Mừng trong thời kỳ phi thường này của lịch sử nhân loại, một thời điểm, chắc chắn, chưa từng có, trong đó, những đỉnh cao của tiến bộ chưa từng đạt được lại đi song song với những vực sâu của sự hoang mang và tuyệt vọng cũng chưa từng có” (Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo, ngày 25 tháng Sáu năm 1971).

Thưa anh chị em, hôm nay, một kỷ nguyên truyền giáo mới đang mở ra trong lịch sử Giáo Hội.

Nếu trong một thời gian dài, chúng ta đã gắn liền truyền giáo với việc “ra đi,” với việc đến những vùng đất xa xôi chưa biết đến Tin Mừng, hoặc đang trong tình trạng nghèo đói, thì ngày nay, biên giới truyền giáo không còn thuộc địa lý nữa, bởi vì sự nghèo đói, đau khổ, và khát khao một niềm hy vọng lớn lao hơn đang đến với chúng ta. Điều này được minh chứng qua câu chuyện của rất nhiều anh chị em di dân của chúng ta: bi kịch họ chạy trốn khỏi bạo lực, nỗi đau khổ đồng hành với họ, nỗi sợ hãi không thể vượt qua, hiểm nguy của những chuyến hành trình dọc theo các bờ biển, tiếng kêu thống thiết và tuyệt vọng của họ. Thưa anh chị em, những chiếc thuyền đang mong chờ để nhìn thấy một bến cảng an toàn thì không thể nào, cũng không được phép, để những đôi mắt chứa đầy thống khổ đó bắt gặp sự lạnh lùng của thái độ thờ ơ hay sự kỳ thị.

Vấn đề không còn là “ra đi,” nhưng là “ở lại” để rao giảng Đức Kitô qua sự đón tiếp, lòng trắc ẩn, và tình liên đới. Ở lại mà không ẩn náu trong sự tiện nghi của chủ nghĩa cá nhân, ở lại để nhìn vào khuôn mặt của những người đến từ những miền đất xa xôi và đau khổ, ở lại để mở rộng vòng tay và trái tim với họ, để chào đón họ như những người anh chị em, để trở thành sự hiện diện của niềm an ủi và niềm hy vọng cho họ.

Có rất nhiều nhà truyền giáo, nam và nữ, nhưng cũng có những tín hữu và người thiện chí, đang làm việc để phục vụ người di cư và thúc đẩy một nền văn hóa huynh đệ mới về vấn đề di cư, vượt lên trên những định kiến và thành kiến. Nhưng sự phục vụ cao quý này thách đố mỗi người chúng ta, trong phạm vi khả năng của mình. Đây là lúc — như Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định — để tất cả chúng ta phải đặt mình trong “trạng thái truyền giáo thường trực” (Tông huấn Evangelii Gaudium, số 25).

Tất cả điều này đòi hỏi ít nhất hai cam kết truyền giáo lớn: hợp thông truyền giáo và ơn gọi truyền giáo.

Trước hết, tôi mời gọi anh chị em cổ võ sự hiệp thông truyền giáo giữa các Giáo Hội. Ở những cộng đoàn có truyền thống Kitô giáo lâu đời, đặc biệt tại phương Tây, sự hiện diện của nhiều anh chị em đến từ phương Nam của thế giới cần được đón nhận như một cơ hội trao đổi phong phú, giúp canh tân dung mạo của Giáo Hội và truyền cảm hứng cho một Kitô giáo cởi mở hơn, sống động và năng động hơn. Đồng thời, mỗi nhà truyền giáo khi ra đi đến miền đất mới được mời gọi cư ngụ giữa nền văn hóa mình gặp gỡ với sự tông trọng thiêng liêng, hướng tất cả những gì tốt đẹp và cao quý mà họ tìm thấy về sự thiện, và mang đến cho họ lời ngôn sứ của Tin Mừng.

Tôi cũng muốn nhắc lại vẻ đẹp và tầm quan trọng của các ơn gọi truyền giáo. Tôi đặc biệt nói với Giáo hội Châu Âu. Ngày nay, cần có một động lực truyền giáo mới, từ giáo dân, tu sĩ, và linh mục dâng hiến sự phục vụ của họ ở các vùng đất truyền giáo, từ những đề xuất và kinh nghiệm ơn gọi mới có khả năng khơi dậy ước muốn này, đặc biệt nơi người trẻ.

Anh chị em thân mến, tôi trìu mến ban phép lành đến các giáo sĩ địa phương thuộc các Giáo hội, đến các nhà truyền giáo, và những người đang phân định ơn gọi của mình. Với anh chị em di dân, tôi nói rằng: anh chị em luôn được chào đón. Biển cả và sa mạc mà anh chị em đã vượt qua, trong Kinh Thánh, là những nơi của ơn cứu độ. Ước gì anh chị em gặp được dung nhan Thiên Chúa nơi các nhà truyền giáo đón tiếp anh chị em.

Tôi phó thác tất cả mọi người cho sự chuyển cầu của Đức Maria, nhà truyền giáo đầu tiên của Con Mẹ, người đã vội vã lên đường đến miền núi Giuđê, mang Chúa Giêsu trong lòng và đặt mình phục vụ bà Êlisabét. Xin Mẹ nâng đỡ chúng ta, để mỗi người chúng ta có thể trở thành một cộng tác viên trong Vương quốc của Đức Kitô, một Vương quốc của tình yêu, công lý, và hòa bình.



[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 6/10/2025]