SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI HÒA BÌNH LẦN THỨ LIX
1 THÁNG 01 NĂM 2026
_______________________________
Bình an cho tất cả anh chị em:
Hướng tới một nền hòa bình “không vũ trang và mang tính giải giới”
“Bình an cho anh em!”
Lời chào cổ xưa này, vẫn còn được sử dụng trong nhiều nền văn hóa ngày nay, đã được thổi vào một sức sống mới vào buổi tối Phục sinh, trên môi miệng của Chúa Giêsu Phục sinh. “Bình an cho anh em” (Ga 20:19,21) là Lời của Người, không chỉ là ước mong hòa bình, mà thực sự đem lại một sự biến đổi lâu dài nơi những ai đón nhận Lời ấy, và do vậy nơi toàn thể thực tại. Chính vì lý do ấy, những đấng kế vị các Tông đồ, trên khắp thế giới, hằng ngày vẫn cất lên tiếng nói cho một cuộc cách mạng thầm lặng nhất: “Bình an cho anh em!” Ngay buổi tối ngày tôi được tuyển chọn làm Giám mục Roma, tôi đã muốn hiệp lời chào của mình vào với lời công bố phổ quát này. Và tôi muốn nhắc lại rằng đây là sự bình an của Chúa Kitô Phục sinh – một nền hòa bình không vũ trang và mang sức mạnh giải trừ, khiêm nhường và kiên trì. Nền hòa bình ấy đến từ Thiên Chúa, Đấng yêu thương tất cả chúng ta cách vô điều kiện. [1]
Bình an của Đức Kitô Phục Sinh
Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng hiến dâng mạng sống mình cho đoàn chiên và còn có những chiên khác không thuộc đàn này (x. Ga 10:11,16), chính là Đức Kitô, là sự bình an của chúng ta, Đấng đã chiến thắng sự chết và phá đổ những bức tường ngăn cách nhân loại (x. Êp 2:14). Sự hiện diện, ân ban và chiến thắng của Người tiếp tục tỏa sáng qua lòng kiên trung của nhiều chứng nhân, nhờ họ mà công trình của Thiên Chúa được tiếp tục trong thế giới, trở nên hữu hình và rạng rỡ hơn ngay cả trong bóng tối của thời đại chúng ta.
Sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng không chỉ là một hình ảnh Kinh Thánh mô tả những cơn đau chuyển dạ của một thế giới mới đang được sinh ra; đó còn là một kinh nghiệm làm chúng ta xao xuyến và tác động đến chúng ta giữa những thử thách mà chúng ta phải đối mặt trong các hoàn cảnh lịch sử. Để chiến thắng bóng tối, cần phải nhìn thấy ánh sáng và tin vào ánh sáng đó. Đây là một tiếng gọi mà các môn đệ của Chúa Giêsu được mời gọi sống một cách riêng biệt và ưu tuyển; tuy nhiên, tiếng gọi ấy cũng tìm thấy lối đi vào mọi tâm hồn con người. Hòa bình hiện hữu; nó muốn cư ngụ trong chúng ta. Nó có sức mạnh hiền hòa để soi sáng và mở rộng sự hiểu biết của chúng ta; nó chống lại và chiến thắng bạo lực. Hòa bình là hơi thở của vĩnh cửu: với sự dữ chúng ta kêu lên “Đủ rồi”, còn với hòa bình, chúng ta thì thầm “Mãi mãi”. Đấng Phục Sinh đã dẫn đưa chúng ta vào chân trời này. Được nâng đỡ bởi niềm xác tín ấy, ngay cả giữa điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là “thế chiến thứ ba diễn ra từng vùng”, những người kiến tạo hòa bình vẫn tiếp tục chống lại sự lan rộng của bóng tối, đứng vững như những người lính gác trong đêm.
Thật đáng buồn, con người cũng có thể lãng quên ánh sáng. Khi điều đó xảy ra, chúng ta đánh mất cảm thức về thực tại và chịu khuất phục trước một cái nhìn phiến diện và méo mó về thế giới, bị biến dạng bởi bóng tối và nỗi sợ hãi. Ngày nay, nhiều người gọi là “thực tế” trước những lối diễn ngôn không có hy vọng, mù lòa trước vẻ đẹp của tha nhân và lãng quên ân sủng của Thiên Chúa, vốn luôn hoạt động trong tâm hồn con người, dù đã bị tổn thương bởi tội lỗi. Thánh Augustinô đã thúc giục các Kitô hữu rèn đúc một mối dây liên kết không thể phá vỡ với hòa bình, để khi trân quý hòa bình ấy cách sâu xa trong lòng, họ có thể tỏa lan hơi ấm rạng ngời của nó ra chung quanh. Ngỏ lời với cộng đoàn của mình, ngài viết: “Nếu anh em ước mong lôi kéo người khác đến với hòa bình, trước hết chính anh em phải có hòa bình trong lòng; chính anh em phải kiên vững trong hòa bình. Muốn thắp lửa cho người khác, anh em phải có ngọn lửa đang cháy trong lòng.” [2]
Anh chị em thân mến, dù chúng ta có ân ban đức tin hay cảm thấy mình còn thiếu vắng đức tin, chúng ta hãy mở lòng ra với hòa bình! Hãy đón nhận và nhận diện nó, thay vì tin rằng nó là điều bất khả thi và nằm ngoài tầm tay. Hòa bình không chỉ là một mục tiêu; nó là một sự hiện diện và là một hành trình. Ngay cả khi nó bị đe dọa trong chính chúng ta và chung quanh chúng ta, như một ngọn lửa nhỏ trước cơn giông tố, chúng ta phải bảo vệ nó, không bao giờ quên tên tuổi và câu chuyện của những người đã làm chứng cho hòa bình. Hòa bình là một nguyên tắc hướng dẫn và định hình các lựa chọn của chúng ta. Ngay cả ở những nơi chỉ còn lại đổ nát, và sự tuyệt vọng dường như không thể tránh khỏi, chúng ta vẫn tìm thấy những con người không quên hòa bình. Cũng như trong buổi tối ngày Phục sinh, Chúa Giêsu đã bước vào nơi các môn đệ đang tụ họp trong sợ hãi và chán nản, thì sự bình an của Đức Kitô Phục sinh cũng tiếp tục đi xuyên qua những cánh cửa và rào cản trong tiếng nói và khuôn mặt của các chứng nhân của Người. Ân ban này giúp chúng ta ghi nhớ điều thiện, nhận ra nó đã chiến thắng, lựa chọn điều thiện một lần nữa, và cùng nhau thực hiện điều ấy.
Một nền hòa bình không vũ trang
Ngay trước khi bị bắt, trong giây phút thân tình, Chúa Giêsu đã nói với những người ở cùng Người: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.” Và Người liền thêm: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27). Sự xao xuyến và sợ hãi của họ chắc chắn liên quan đến bạo lực sắp giáng xuống Người. Nhưng sâu xa hơn, các Tin Mừng không che giấu sự thật rằng điều làm các môn đệ bối rối chính là phản ứng phi bạo lực của Người: một con đường mà tất cả họ, đứng đầu là Phêrô, đã phản đối; vậy mà Thầy lại yêu cầu các ông đi theo con đường ấy đến cùng. Con đường của Chúa Giêsu tiếp tục gây ra sự bất an và sợ hãi. Người kiên quyết lặp lại với những ai muốn bảo vệ Người bằng vũ lực: “Hãy xỏ gươm vào bao” (Ga 18:11; x. Mt 26:52). Sự bình an của Chúa Giêsu Phục sinh là bình an không vũ trang, bởi vì cuộc chiến của Người là một cuộc chiến không vũ trang giữa những hoàn cảnh lịch sử, chính trị và xã hội cụ thể. Các Kitô hữu phải cùng nhau làm chứng mang tính ngôn sứ cho sự mới mẻ này, ý thức về những bi kịch mà chính họ đã thường xuyên trở thành đồng lõa. Dụ ngôn vĩ đại về cuộc Phán xét Chung mời gọi các Kitô hữu hành động với lòng thương xót trong ý thức này (x. Mt 25:31-46). Khi làm như vậy, họ sẽ tìm thấy bên cạnh mình những anh chị em, những người theo nhiều cách khác nhau, đã lắng nghe nỗi đau của tha nhân và tự giải phóng nội tâm mình khỏi sự lừa dối của bạo lực.
Mặc dù ngày nay nhiều người có tâm hồn sẵn sàng cho hòa bình, họ vẫn thường bị lấn át bởi cảm giác bất lực rất lớn trước một thế giới ngày càng bấp bênh. Thánh Augustinô đã chỉ ra nghịch lý đặc thù này: “Sở hữu hòa bình không khó; có lẽ ca ngợi nó còn khó hơn. Để ca ngợi hòa bình, chúng ta có thể thấy mình thiếu những khả năng cần thiết; chúng ta tìm kiếm những ý tưởng đúng đắn và cân nhắc lời nói của mình. Nhưng để có hòa bình, nó ở ngay đó, trong tầm tay, và chúng ta có thể sở hữu nó mà không cần nỗ lực.” [3]
Khi chúng ta coi hòa bình như một lý tưởng xa vời, chúng ta không còn cảm thấy phẫn nộ khi hòa bình bị từ chối, hoặc thậm chí khi chiến tranh được tiến hành dưới danh nghĩa hòa bình. Chúng ta dường như thiếu những “ý tưởng đúng đắn”, những lời lẽ được cân nhắc cẩn thận và khả năng để nói rằng hòa bình đang ở gần. Khi hòa bình không phải là một thực tại được sống, được vun trồng và bảo vệ, thì sự hung hăng sẽ lan rộng vào đời sống gia đình và cộng đồng. Trong mối tương quan giữa công dân và những nhà cầm quyền, người ta thậm chí có thể coi là một sai lầm nếu không chuẩn bị đầy đủ cho chiến tranh, không phản ứng lại các cuộc tấn công, và không lấy bạo lực đáp trả bạo lực. Vượt xa nguyên tắc tự vệ chính đáng, luận lý đối đầu như vậy hiện đang thống trị nền chính trị toàn cầu, làm gia tăng thêm sự bất ổn và khó đoán định từng ngày. Không phải ngẫu nhiên khi những lời kêu gọi liên tục về việc tăng chi tiêu quân sự, và các lựa chọn tiếp theo sau đó, được nhiều nhà lãnh đạo chính phủ trình bày như một phản ứng chính đáng trước các mối đe dọa từ bên ngoài. Ý tưởng về sự răn đe của sức mạnh quân sự, đặc biệt là răn đe hạt nhân, dựa trên sự phi lý trong các mối quan hệ giữa các quốc gia, vốn không được xây dựng trên luật pháp, công lý và sự tin cậy, mà trên nỗi sợ hãi và thống trị bằng vũ lực. “Hệ quả là,” như Thánh Gioan XXIII đã viết vào thời của ngài, “người ta đang sống trong sự kìm kẹp của nỗi sợ hãi thường trực. Họ sợ rằng bất cứ lúc nào cơn bão đang rình rập cũng có thể bùng phát trên họ với bạo lực kinh hoàng. Và họ có lý do chính đáng cho nỗi sợ của mình, vì quả thật không thiếu những loại vũ khí như vậy. Trong khi khó mà tin rằng có ai đó dám nhận trách nhiệm đã khơi mào cho cuộc tàn sát và hủy diệt khủng khiếp mà chiến tranh mang lại, nhưng không thể phủ nhận rằng ngọn lửa ấy có thể bùng lên bởi một hoàn cảnh ngẫu nhiên và không lường trước được.” [4]
Hơn nữa, cần lưu ý rằng chi tiêu quân sự toàn cầu đã tăng 9,4% trong năm 2024 so với năm trước, xác nhận xu hướng của mười năm qua và đạt tổng mức 2718 tỷ USD (tương đương 2,5% GDP toàn cầu). [5] Thêm vào đó, phản ứng trước những thách đố mới dường như không chỉ liên quan đến các khoản đầu tư kinh tế khổng lồ vào tái vũ trang, mà còn là sự thay đổi trong các chính sách giáo dục. Thay vì thúc đẩy một nền văn hóa ghi nhớ nhằm duy trì ý thức đã phải trả giá đắt của thế kỷ XX và hàng triệu nạn nhân, hiện nay chúng ta lại chứng kiến các chiến dịch truyền thông và chương trình giáo dục – trong trường học, đại học và trên các phương tiện truyền thông – lan truyền cảm thức bị đe dọa và chỉ thúc đẩy một quan niệm vũ trang về phòng thủ và an ninh.
Thế nhưng, “những ai thực sự yêu hòa bình cũng yêu cả những kẻ thù của hòa bình.” [6] Thánh Augustinô vì thế đã khuyên không nên đốt cháy các nhịp cầu hay cố chấp trong sự trách móc, nhưng hãy ưu tiên lắng nghe, và khi có thể, tham gia thảo luận với người khác. Sáu mươi năm trước, Công đồng Vatican II đã khép lại với một nhận thức được đổi mới về nhu cầu cấp thiết của đối thoại giữa Giáo hội và thế giới đương đại. Đặc biệt, Hiến chế Gaudium et Spes đã thu hút chú ý đến sự biến đổi của chiến tranh: “Những hiểm họa đặc thù của chiến tranh hiện đại hệ tại ở chỗ chúng khiến những người sở hữu các loại vũ khí mới được phát triển có nguy cơ phạm phải các tội ác đó, và theo một chuỗi các sự kiện không làm lay động, thúc đẩy con người đến với những hành vi tàn bạo thậm chí còn khủng khiếp hơn. Để ngăn ngừa khả năng này xảy ra vào một thời điểm nào đó trong tương lai, các giám mục trên toàn thế giới đã cùng nhau khẩn khoản kêu gọi mọi người, đặc biệt là các nhà lãnh đạo chính phủ và các cố vấn quân sự, không ngừng suy xét đến trách nhiệm to lớn của mình trước mặt Thiên Chúa và trước toàn thể nhân loại.” [7]
Nhắc lại lời kêu gọi của các Nghị phụ Công đồng, và coi đối thoại là cách tiếp cận hiệu quả nhất ở mọi cấp độ, chúng ta phải thừa nhận rằng những tiến bộ công nghệ mới và việc áp dụng trí tuệ nhân tạo vào quân sự đã làm trầm trọng thêm thảm kịch của các cuộc xung đột vũ trang. Thậm chí đang có một xu hướng ngày càng gia tăng trong các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự là trốn tránh trách nhiệm, khi các quyết định về sự sống và cái chết ngày càng được “ủy thác” cho máy móc. Điều này đánh dấu một sự phản bội chưa từng có và mang tính hủy diệt đối với các nguyên tắc pháp lý và triết học của chủ nghĩa nhân văn vốn là nền tảng và bảo vệ mọi nền văn minh. Cần phải lên án sự tập trung khổng lồ những lợi ích kinh tế và tài chính tư nhân đang thúc đẩy các quốc gia đi theo hướng này; tuy nhiên, chỉ riêng điều đó là không đủ, nếu chúng ta không đánh thức lương tâm và tư duy phê phán. Thông điệp Fratelli Tutti trình bày Thánh Phanxicô Assisi như một mẫu gương của sự thức tỉnh ấy: “Trong thế giới thời đó, đầy những tháp canh và tường thành phòng thủ, các thành phố là sân khấu của những cuộc chiến tàn khốc giữa các gia tộc quyền thế, trong khi sự nghèo đói đang lan tràn khắp miền nông thôn. Thế nhưng ở đó, Thánh Phanxicô đã đón nhận sự bình an đích thực trong lòng mình và giải phóng bản thân khỏi ham muốn dùng quyền lực đề áp đặt lên người khác. Ngài đã trở thành một người nghèo trong những người nghèo và tìm cách sống hòa hợp với tất cả mọi người.” [8] Đây là một câu chuyện mà chúng ta được mời gọi tiếp nối ngày hôm nay, và điều đó có nghĩa là chung tay góp sức xây dựng một nền hòa bình giải giới, một nền hòa bình được sinh ra từ sự mở lòng và khiêm nhường của tin mừng.
Một nền hòa bình mang tính giải giới
Sự thiện có sức mạnh giải giới. Có lẽ chính vì thế mà Thiên Chúa đã trở thành một trẻ thơ. Mầu nhiệm Nhập Thể, đạt đến sự hạ mình xuống tận cùng thậm chí đến cái chết, khởi đầu trong cung lòng một người mẹ trẻ và được mạc khải nơi máng cỏ Bêlem. “Bình an dưới thế,” các thiên thần vang câu hát loan báo sự hiện diện của một Thiên Chúa không tự vệ, nơi Người, nhân loại có thể nhận biết chính mình được yêu thương bằng cách chăm sóc Người (x. Lc 2:13-14). Không gì có sức mạnh biến đổi chúng ta mạnh mẽ bằng một đứa trẻ. Có lẽ chính ý nghĩ về con cái của chúng ta và của người khác cũng mong manh như thế, đã làm tâm can đau đớn (x. Cv 2:37). Về điểm này, vị tiền nhiệm khả kính của tôi đã viết rằng “sự mong manh của con người có sức mạnh làm cho chúng ta sáng suốt hơn về những gì tồn tại và những gì qua đi, những điều đem lại sự sống và những điều đem đến cái chết. Có lẽ vì lý do này, chúng ta thường có xu hướng chối bỏ những giới hạn của mình, và né tránh những con người mong manh và bị tổn thương: họ có sức mạnh chất vấn hướng đi mà chúng ta đã chọn, cả với tư cách cá nhân cũng như cộng đoàn.” [9]
Đức Gioan XXIII là vị giáo hoàng đầu tiên cổ võ cho việc “giải giới toàn diện”, là điều chỉ có thể đạt được qua sự canh tân con tim và trí óc. Trong Thông điệp Pacem in Terris, ngài viết: “Tất cả mọi người phải nhìn nhận rằng, nếu tiến trình giải giới này không được thực hiện triệt để và trọn vẹn, và chạm đến tận sâu thẳm tâm hồn con người, thì không thể chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang, hoặc cắt giảm vũ khí, hoặc — và đây là điều chính yếu — cuối cùng hoàn toàn loại bỏ chúng. Tất cả mọi người phải chân thành cộng tác để xua tan nỗi sợ hãi và sự lo âu chiến tranh sẽ đến ra khỏi tâm trí chúng ta. Nhưng điều này đòi hỏi những nguyên tắc nền tảng làm cơ sở cho hòa bình trong thế giới ngày nay phải được thay thế bằng một nguyên tắc hoàn toàn khác, đó là nhận thức rằng hòa bình thực sự và dài lâu giữa các quốc gia không bao giờ hệ tại ở việc sở hữu một lượng vũ khí ngang bằng nhau, mà chỉ có được nhờ sự tin tưởng lẫn nhau. Và chúng ta tin rằng điều này có thể đạt được, vì đó là điều không chỉ hợp với lẽ thường, mà tự thân nó là điều đáng mong ước nhất và mang lại nhiều hoa trái tốt lành.” [10]
Một sự phục vụ thiết yếu mà các tôn giáo phải cống hiến cho nhân loại đang đau khổ là cảnh giác trước cám dỗ ngày càng tăng muốn biến cả tư tưởng và lời nói thành vũ khí. Các truyền thống tâm linh lớn, cũng như lý trí đúng đắn, dạy chúng ta biết nhìn xa hơn những mối quan hệ huyết thống hay sắc tộc, vượt xa hơn những hiệp hội chỉ chấp nhận những người giống mình và loại trừ những người khác biệt. Ngày nay, chúng ta thấy rằng không thể coi điều này là đương nhiên. Đáng tiếc, việc lôi kéo ngôn ngữ đức tin vào các cuộc chiến chính trị, chúc lành cho chủ nghĩa dân tộc, và biện minh cho bạo lực và đấu tranh vũ trang nhân danh tôn giáo đã trở nên ngày càng phổ biến. Các tín hữu phải tích cực bác bỏ, trước hết bằng chứng tá đời sống, những hình thức báng bổ này xúc phạm đến Danh Thánh của Thiên Chúa. Do đó, song song với hành động, việc vun trồng đời sống cầu nguyện, đời sống thiêng liêng, và đối thoại đại kết cũng như liên tôn là điều cần thiết hơn bao giờ hết, như những con đường hòa bình và như những ngôn ngữ của sự gặp gỡ giữa các truyền thống và nền văn hóa. Ước mong rằng, trên khắp thế giới, “mọi cộng đoàn đều trở thành một ‘ngôi nhà hòa bình’, nơi người ta học cách tháo gỡ sự thù địch bằng đối thoại, nơi công lý được thực thi và sự tha thứ được trân trọng.” [11] Hơn bao giờ hết, chúng ta phải chứng minh rằng hòa bình không phải là một điều không tưởng, bằng cách cổ võ sự sáng tạo mục vụ ân cần và sống động.
Đồng thời, điều này không lấy đi tầm quan trọng của chiều kích chính trị. Những người được trao phó trách nhiệm công quyền cao nhất phải “nghiêm túc suy nghĩ về vấn đề đạt được những mối quan hệ nhân văn hơn giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Sự điều chỉnh đó phải dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau, sự chân thành trong đàm phán và việc trung thành thực hiện các nghĩa vụ. Mọi khía cạnh của vấn đề phải được xem xét, để cuối cùng có thể xuất hiện một điểm đồng thuận, từ đó có thể khởi sự các hiệp ước chân thành, bền vững và sinh ích lợi.” [12] Đây là con đường giải giới của ngoại giao, hòa giải và luật pháp quốc tế, đáng buồn là con đường này thường xuyên bị xói mòn bởi những vi phạm ngày càng nhiều đối với các hiệp ước đã phải vất vả mới đạt được, trong khi điều cần thiết lúc này là củng cố các định chế siêu quốc gia, chứ không tước bỏ tính hợp pháp của chúng.
Trong thế giới ngày nay, công lý và phẩm giá con người đang đứng trước nguy cơ đáng báo động giữa sự mất cân bằng quyền lực toàn cầu. Làm sao chúng ta có thể sống trong thời điểm mất ổn định và xung đột này, và tự giải thoát mình khỏi sự dữ? Chúng ta cần khuyến khích và hỗ trợ mọi sáng kiến tinh thần, văn hóa và chính trị nhằm giữ cho niềm hy vọng luôn sống động, chống lại sự lan rộng của “những thuật ngữ mang tính định mệnh, như thể các động lực liên quan là sản phẩm của các lực lượng vô danh không phải con người, hoặc những cấu trúc không phụ thuộc vào ý chí con người.” [13] Bởi vì, như đã được gợi ý, “cách tốt nhất để thống trị và kiểm soát con người là gieo rắc sự tuyệt vọng và nản chí, ngay cả dưới chiêu bài bảo vệ một số giá trị nào đó.” [14] Đối lại với chiến lược này, chúng ta phải cổ võ sự tự nhận thức trong các xã hội dân sự, các hình thức liên kết có trách nhiệm, những kinh nghiệm tham gia bất bạo động, và các thực hành công lý phục hồi trên cả quy mô nhỏ và lớn. Đức Lêô XIII đã làm sáng tỏ điều này trong Thông điệp Rerum Novarum: “Ý thức về sự yếu đuối của chính mình thúc giục con người kêu cầu sự trợ giúp từ bên ngoài. Chúng ta đọc thấy trong Kinh Thánh: ‘Hai người thì hơn một, vì hai người làm việc cực khổ sẽ thu nhập khá hơn. Người này ngã đã có người kia nâng dậy. Nhưng khi chỉ có một mình mà bị ngã thì thật là khốn, vì chẳng có ai nâng dậy cả’ (Gv 4:9-10). Và còn nữa: ‘Một người anh em được anh em mình giúp đỡ thì như một thành trì vững chắc’ (Cn 18:19).” [15]
Xin cho điều này trở thành một trong những hoa trái của Năm Thánh Hy vọng, vốn đã thôi thúc hàng triệu người tái khám phá bản thân mình như những khách hành hương, và bắt đầu nơi chính bản thân họ cuộc giải giới tâm hồn, trí óc và đời sống. Thiên Chúa chắc chắn sẽ đáp lại điều đó bằng cách thực hiện những lời hứa của Người: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Giacóp hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường” (Is 2:4-5).
Vatican, ngày 8 tháng 12 năm 2025
LEO PP. XIV
____________________________________
[1] Cf. Apostolic Blessing “Urbi et Orbi,” Central Loggia of the Vatican Basilica (8 May 2025).
[2] Saint Augustine of Hippo, Serm. 357, 3.
[3] Ibid., 1.
[4] John XXIII, Encyclical Letter Pacem in terris (11 April 1963), 111.
[5] Cf. SIPRI Yearbook: Armaments, Disarmament and International Security (2025).
[6] Saint Augustine of Hippo, Serm. 357, 1.
[7] Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 80.
[8] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), 4.
[9] Francis, Letter to the Directors of “Corriere della Sera” (14 March 2025).
[10] John XXIII, Encyclical Letter Pacem in Terris (11 April 1963), 113.
[11] Leo XIV Address to the Bishops of the Italian Episcopal Conference (17 June 2025).
[12] John XXIII, Encyclical Letter Pacem in Terris (11 April 1963), 118.
[13] Benedict XVI, Encyclical Letter Caritas in Veritate (29 June 2009), 42.
[14] Francis, Encyclical Letter Fratelli Tutti (3 October 2020), 15.
[15] Leo XIII, Encyclical Letter Rerum Novarum (15 May 1891), 50.
[Nguồn: vatican.va]
[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 19/12/2025]