Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2025

Nguồn gốc tôn giáo của lời chúc “Merry Christmas!”

Nguồn gốc tôn giáo của lời chúc “Merry Christmas!”

Nguồn gốc tôn giáo của lời chúc “Merry Christmas!”

Roman Samborskyi | Shutterstock


Cerith Gardiner

22/12/25



Câu chúc được hàng triệu người trên khắp thế giới sử dụng thực ra đã bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước, như một phát hiện gần đây cho thấy.

Có một điều gì đó mang tính hiệp nhất thật sự khi chúng ta cất lên lời chúc “Merry Christmas!” Dù chúng ta trao lời chúc ấy cho những người thân yêu hay cho những người không quen trên phố, thật khó để không cảm nhận một sự hân hoan trào dâng.

Khi xét đến nguồn gốc của cách diễn đạt này, một phát hiện mới đây trong kho lưu trữ tại Nhà thờ Chính tòa Hereford ở Anh có thể giúp soi sáng vấn đề.

Cho đến gần đây, theo tờ Northern Wilds, người ta vẫn tin rằng Đức Giám mục Công giáo John Fisher, bị tống ngục năm 1534, chính là người đứng sau việc sử dụng cụm từ này.

Vị Giám mục đã bị tống giam vì từ chối công nhận Vua Henry VIII là Thủ lãnh Tối cao của Giáo hội và hàng Giáo sĩ Anh quốc. Do điều kiện trong ngục tù khắc nghiệt, ngài đã viết thư cho Thomas Cromwell, người ủng hộ công cuộc Cải cách của vua Henry VIII, để xin một số nhu yếu phẩm, và kết thư bằng câu: “Và xin Thiên Chúa, là Chúa chúng ta, ban cho ngài một mùa Giáng Sinh an lành” (And this our Lord God send you a merry Christmas).

Thật không may cho vị giám mục, ngài đã bị xử trảm không lâu sau đó, nhưng đã được Giáo hội Công giáo tôn phong hiển thánh vài thế kỷ sau. Điều đáng chú ý là chính Cromwell sau đó cũng bị chém đầu vì dám bất đồng quan điểm với vị vua chuyên chế Henry VIII.

Theo tường thuật của BBC, dù nguồn gốc này đã được phổ biến trong nhiều năm, nhưng gần đây nó bị đặt lại vấn đề khi một bức thư khác của một vị Giám mục khác được phát hiện.

Vào năm 1520 — tức là 14 năm trước bức thư của Đức Giám mục Fisher — Đức cha Charles Booth của Nhà thờ Chính tòa Hereford đã viết cho người đồng nghiệp là Kinh sĩ William Burghill. Đức cha Booth bắt đầu bức thư với lời chúc: “Tôi cầu xin Thiên Chúa cho ngài được sống trong đức ái trọn hảo và mùa Giáng Sinh vui vẻ” (I praye God ye may be all in good charite and mery this Crystmas).

Mặc dù cách viết chính tả trông có vẻ cổ xưa theo tiêu chuẩn hiện đại, nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra cụm từ “merry Christmas”. Có lẽ chúng ta không bao giờ biết ai đã truyền cảm hứng cho Đức cha Booth nói lời ấy, hay chính ngài đã nghĩ ra cách diễn đạt đó, nhưng thật thú vị khi thấy một cụm từ có tuổi đời hàng thế kỷ vẫn được hàng triệu người trên khắp thế giới sử dụng cho đến ngày nay.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/12/2025]


Người Đức tín nhiệm Đức Lêô XIV hơn Hồi giáo: kết quả khảo sát mới được công bố

Người Đức tín nhiệm Đức Lêô XIV hơn Hồi giáo: kết quả khảo sát mới được công bố

Người Đức tín nhiệm Đức Lêô XIV hơn Hồi giáo: kết quả khảo sát mới được công bố.

Người Đức tín nhiệm Đức Lêô XIV hơn Hồi giáo: kết quả khảo sát mới được công bố

Dữ liệu từ cuộc thăm dò đại diện của Forsa cho thấy 28% người dân Đức hiện nay cho biết họ đặt niềm tin cao hoặc rất cao vào Đức Giáo Hoàng.

24 THÁNH 12, 2025 19:44

JOACHIN MEISNER HERTZ


(ZENIT News / Berlin, 24.12.2025). - Theo một cuộc khảo sát toàn quốc mới đây, niềm tin của công chúng đối với ngôi vị Giáo hoàng đã âm thầm lấy lại vị thế tại Đức, qua đó phác họa một bức tranh nhiều sắc thái về cách thẩm quyền tôn giáo đang được nhìn nhận ở một trong những xã hội thế tục hóa mạnh mẽ nhất Châu Âu. Các số liệu cho thấy đây không phải là một sự phục hưng tôn giáo ồ ạt, cũng không đơn thuần là nỗi hoài niệm, mà đúng hơn là một sự tái đánh giá cách thận trọng về vai trò lãnh đạo tối cao của Giáo hội Công giáo.

Dữ liệu từ cuộc thăm dò đại diện của Forsa cho thấy 28% người dân Đức hiện nay cho biết họ đặt niềm tin cao hoặc rất cao vào Đức Giáo Hoàng. Con số này đánh dấu một bước nhảy vọt đáng chú ý với 12 điểm phần trăm tăng so với năm trước, đưa ngôi vị Giáo hoàng lên mức ngang bằng với Giáo hội Tin lành về mức độ tín nhiệm của công chúng. Trong số các định chế tôn giáo và thế tục được khảo sát, không có cá nhân nào thu hút được niềm tin rộng rãi hơn chính Đức Giáo Hoàng.

Giáo hội Công giáo với tư cách là một định chế cũng được hưởng lợi từ xu hướng đi lên này, dù ở mức độ thấp hơn. 14% người được hỏi cho biết họ tin tưởng vào Giáo hội, tăng 3 điểm so với năm 2024 và là sự hồi phục khiêm tốn từ mức thấp kỷ lục 8% được ghi nhận vào năm 2022. Mặc dù con số này vẫn còn xa mức vững mạnh, nhưng sự cải thiện gợi mở rằng vị thế của Giáo hội có thể đã ổn định sau nhiều năm suy giảm liên quan đến các vụ bê bối lạm dụng, xung đột nội bộ và tình trạng tín hữu rời bỏ đạo.

Liệu niềm tin được phục hồi này có thể quy trực tiếp cho cá nhân Đức Thánh Cha Lêô XIV hay không vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Cuộc khảo sát không thiết lập một mối liên hệ nguyên nhân trực tiếp, và những so sánh với các triều đại giáo hoàng trước đây đòi hỏi sự thận trọng. Đức Thánh Cha Phanxicô, vào thời kỳ đỉnh cao nổi tiếng năm 2015, đã đạt mức điểm tín nhiệm tương đương 60 trên thang điểm 100, một mức độ cho đến nay vẫn chưa ai sánh kịp. Vị thế hiện tại của Đức Lêô XIV, dù đã được cải thiện, vẫn chưa tiếp cận được đỉnh cao đó. Tuy nhiên, sự đảo chiều của xu hướng đi xuống là một điều đáng chú ý trong bối cảnh niềm tin vào các định chế nhìn chung đang rất mong manh.

Bức tranh tôn giáo rộng lớn hơn được ghi nhận qua cuộc khảo sát cũng làm nổi bật những tương phản đáng kể. Hội đồng Trung ương Do Thái giáo tiếp tục giữ mức tín nhiệm cao nhất với 35%, củng cố vai trò là một trong những tiếng nói luân lý uy tín nhất trong đời sống công cộng tại Đức. Giáo hội Tin lành theo sau với 28%, gần tương đương với mức xếp hạng cá nhân của Đức Giáo Hoàng, mặc dù niềm tin vào định chế này vẫn ở gần mức thấp kỷ lục.

Hồi giáo ghi nhận mức độ tin tưởng thấp nhất nói chung, ở mức 7%. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các thế hệ làm cho bức tranh trở nên phức tạp hơn. Trong nhóm người Đức từ 18 đến 29 tuổi, niềm tin vào Hồi giáo tăng lên 17%, vượt qua mức tín nhiệm dành cho Giáo hội Công giáo trong cùng nhóm tuổi, vốn dừng ở mức 13%. Sự phân hóa này nhấn mạnh rằng nhận thức tôn giáo tại Đức đang ngày càng bị định hình bởi yếu tố tuổi tác, sự tiếp xúc văn hóa và những kỳ vọng khác nhau đối với thẩm quyền định chế.

Cuộc khảo sát, được thực hiện từ ngày 3 đến ngày 12 tháng 12 năm 2025, với sự tham gia của khoảng 4.000 người, được ủy nhiệm bởi Stern, RTL và ntv. Những phát hiện cho thấy niềm tin vào sự lãnh đạo tôn giáo không còn được thúc đẩy bởi lòng trung thành với định chế, mà bởi uy tín cảm nhận được, sự minh bạch về luân lý và khoảng cách với các tranh chấp nội bộ.

Đối với Giáo hội Công giáo, kết quả này mang lại sự khích lệ thận trọng hơn là một sự xác minh hoàn toàn. Niềm tin vào Đức Giáo Hoàng dường như đang đóng vai trò là một hình thức đại diện biểu tượng, báo hiệu tính cởi mở đối với sự lãnh đạo thiêng liêng ngay cả khi thái độ hoài nghi đối với các định chế vẫn tồn tại. Liệu thiện cảm mới này có thể chuyển hóa thành sự gắn kết sâu sắc hơn với chính Giáo hội hay không vẫn còn là một điều chưa chắc chắn.

Trong một xã hội mà sự gắn bó tôn giáo tiếp tục suy giảm, sự phục hồi niềm tin khiêm tốn này có thể ít quan trọng về mặt con số hơn là một chỉ dấu gợi mở về khả năng mới. Ngôi vị giáo hoàng, ít nhất là vào lúc này, dường như đã lấy lại được một phần sự chú ý về mặt luân lý tại Đức. Thách thức phía trước sẽ là xác định xem liệu sự chú ý đó có thể được duy trì lâu dài — hay một lần nữa sẽ chứng minh chỉ là thoáng qua.


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 27/12/2025]


Một túp lều mong manh: Bài giảng Đại lễ Giáng Sinh 2025 của Đức Thánh Cha

Một túp lều mong manh: Bài giảng Đại lễ Giáng Sinh của Đức Thánh Cha

Một túp lều mong manh: Bài giảng Đại lễ Giáng Sinh 2025 của Đức Thánh Cha

Antoine Mekary | ALETEIA


Kathleen N. Hattrup

25/12/25


Một ngày mới đã ló rạng! Chúng ta cũng là một phần của khởi đầu mới này, ngay cả cho đến nay vẫn còn ít người tin vào điều đó: Hòa bình là có thật, và hòa bình đã ở giữa chúng ta.

Đức Thánh Cha Lêô đã cử hành Thánh lễ Giáng Sinh tại Quảng trường Thánh Phêrô. Bài giảng của Ngài dựa trên Tin Mừng của Thánh lễ thứ tư trong ngày phụng vụ, đó là Lời Tựa của Tin Mừng theo Thánh Gioan.

Đức Thánh Cha chia sẻ: “Ngôi Lời đã dựng túp lều mong manh của Người giữa chúng ta”, và từ đó Ngài suy tư về sự mong manh của nhân loại.

Chẳng hạn: “Làm sao chúng ta có thể không nghĩ đến những túp lều ở Gaza, đã phơi mình suốt nhiều tuần trong mưa, gió và giá lạnh.”

Dưới đây là toàn văn bài giảng của Ngài:

*******

Anh chị em thân mến,

“Hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng” (Is 52:9), sứ giả hòa bình đã kêu lên với những người đang đứng giữa đống hoang tàn của một thành phố cần được cấp bách tái thiết. Dù đôi chân phủ đầy bụi đất và mang thương tích, vị sứ giả vẫn viết rằng đôi chân ấy thật đẹp (x. Is 52:7), bởi vì trên những nẻo đường gồ ghề và mệt mỏi, chúng đã mang theo một lời loan báo hoan hỷ khiến mọi sự được tái sinh. Một ngày mới đã ló rạng! Chúng ta cũng là một phần của khởi đầu mới này, ngay cả cho đến nay vẫn còn ít người tin vào điều đó: Hòa bình là có thật, và hòa bình đã ở giữa chúng ta.

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14:27). Chúa Giêsu đã nói như thế với các môn đệ, những người mà Ngài vừa rửa chân cho. Họ sẽ trở thành những sứ giả của hòa bình, được sai đi để không mệt mỏi bước trên hành trình đi khắp thế giới, để tỏ lộ cho mọi người “quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Vì thế, hôm nay, chúng ta không chỉ kinh ngạc trước nền hòa bình đã hiện diện nơi đây; chúng ta còn cử hành cách thức mà ân sủng ấy được ban cho chúng ta. Thật vậy, trong chính “cách thức” ấy, sự khác biệt thần linh đã tỏa sáng, khiến chúng ta bật lên những bài hoan ca. Chính vì lý do đó, trên khắp thế giới, Giáng Sinh là đại lễ của âm nhạc và thánh ca.

Lời Tựa của Tin Mừng thứ tư tự nó đã là một bài thánh ca, với Ngôi Lời của Thiên Chúa là nhân vật chính. “Ngôi Lời” là lời hành động. Đây là đặc tính của Lời Thiên Chúa: không bao giờ vô hiệu. Thật vậy, nhiều lời nói của chính chúng ta cũng có tác động, đôi khi ngoài ý muốn. Đúng vậy, lời nói “hành động”. Nhưng đây là điều bất ngờ mà phụng vụ Giáng Sinh trình bày cho chúng ta: Ngôi Lời của Thiên Chúa xuất hiện nhưng không thể nói. Người đến với chúng ta như một hài nhi mới sinh, chỉ biết khóc và bập bẹ. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga 1:14). Dù Người sẽ lớn lên và một ngày nào đó sẽ học ngôn ngữ của dân tộc mình, nhưng lúc này, Người chỉ nói qua sự hiện diện đơn sơ và mong manh của mình. “Xác phàm” là sự trần trụi tận cùng mà tại Bêlem cũng như trên Đồi Canvê, vẫn hiện hữu ngay cả khi không có lời nói – giống như biết bao anh chị em ngày nay không có tiếng nói, bị tước đoạt phẩm giá và bị buộc phải câm lặng. Thân xác con người kêu xin được chăm sóc; cầu xin sự đón nhận và nhìn nhận; tìm kiếm những bàn tay biết dịu dàng và những tâm trí sẵn lòng lắng nghe; nó khao khát những lời nói tử tế.

“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:11-12). Đây là cách thức nghịch lý mà qua đó hòa bình đã ở giữa chúng ta: món quà của Thiên Chúa mời gọi chúng ta bước vào; nó tìm kiếm sự đón nhận, và từ đó khơi nguồn cho sự tự hiến nơi chính chúng ta. Thiên Chúa làm chúng ta ngạc nhiên vì Người chấp nhận để mình bị từ chối. Người cũng lôi cuốn chúng ta vì Người kéo chúng ta ra khỏi sự thờ ơ. Trở nên con cái Thiên Chúa là một quyền năng đích thực – một quyền năng vẫn bị chôn vùi chừng nào chúng ta còn giữ khoảng cách với tiếng khóc của trẻ thơ và sự yếu đuối của người già, với sự im lặng bất lực của các nạn nhân và nỗi u uất cam chịu của những kẻ đang làm điều ác mà chính họ không muốn làm.

Để nhắc nhở chúng ta về niềm vui của Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô kính yêu của chúng ta đã viết: “Đôi khi chúng ta bị cám dỗ trở thành kiểu người Kitô hữu giữ khoảng cách với những vết thương của Chúa. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta chạm đến nỗi thống khổ của con người, chạm vào thân xác đau khổ của người khác. Người mong chúng ta ngừng tìm kiếm những ngóc ngách của cá nhân hay cộng đoàn để trú ẩn khỏi cơn lốc bất hạnh của nhân loại, và thay vào đó, bước vào thực tại cuộc sống của tha nhân và hiểu được sức mạnh của sự dịu dàng” (Tông huấn Evangelii Gaudium, 270).

Anh chị em thân mến, từ khi Ngôi Lời trở nên xác phàm, chính nhân loại cất tiếng nói, kêu lên bằng chính khát khao của Thiên Chúa muốn gặp gỡ chúng ta. Ngôi Lời đã dựng túp lều mong manh của Người giữa chúng ta. Làm sao chúng ta có thể không nghĩ đến những chiếc lều ở Gaza, đã phải phơi mình suốt nhiều tuần trong mưa, gió và giá lạnh; và những lều của biết bao người tị nạn và người di tản trên mọi châu lục; hay những mái che tạm bợ của hàng ngàn người vô gia cư trong chính các thành phố của chúng ta? Mong manh thay thân xác của những cộng đồng dân cư không được bảo vệ, bị thử thách bởi bao cuộc chiến tranh, đang diễn ra hoặc đã kết thúc, để lại những đống đổ nát và những vết thương chưa lành. Mong manh thay tâm trí và cuộc sống của những người trẻ bị buộc phải cầm vũ khí, những người ở tiền tuyến cảm nhận được sự vô nghĩa của những gì người ta đòi hỏi nơi họ, và sự giả dối phủ đầy các bài diễn văn hoa mỹ của những kẻ đẩy họ vào chỗ chết.

Khi sự mong manh của người khác thấm nhập vào lòng chúng ta, khi nỗi đau của họ phá vỡ những xác tín cứng nhắc của chúng ta, thì khi đó hòa bình đã bắt đầu. Hòa bình của Thiên Chúa được sinh ra từ tiếng khóc của một trẻ thơ được đón nhận, từ những giọt nước mắt được lắng nghe. Nó được sinh ra giữa những đổ nát đang kêu gọi những hình thức liên đới mới. Nó được sinh ra từ những giấc mơ và thị kiến, như những lời ngôn sứ, đảo ngược dòng chảy lịch sử. Đúng vậy, tất cả những điều này hiện hữu, bởi vì Chúa Giêsu là Logos, là Ý Nghĩa, từ đó mọi sự được hình thành. “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1:3). Mầu nhiệm này nói với chúng ta từ những hang đá Giáng Sinh mà chúng ta dựng nên; mở mắt chúng ta trước một thế giới mà ở đó Lời vẫn vang vọng, “nhiều lần và nhiều cách” (x. Dt 1:1), và vẫn kêu gọi chúng ta hoán cải.

Chắc chắn, Tin Mừng không che giấu sự kháng cự của bóng tối trước ánh sáng. Tin Mừng mô tả con đường của Lời Thiên Chúa như một lối đi gồ ghề, đầy những chướng ngại. Cho đến hôm nay, những sứ giả hòa bình đích thực vẫn theo Lời trên con đường này, con đường cuối cùng sẽ chạm đến những tâm hồn – những tâm hồn thao thức thường khao khát chính điều mà họ đang kháng cự. Theo cách này, Giáng Sinh mang lại sinh lực mới cho một Giáo hội truyền giáo, thúc đẩy Giáo hội dấn bước đi trên những con đường mà Ngôi Lời Thiên Chúa đã vạch ra. Chúng ta không phục vụ một Lời thống trị – vốn đã có quá nhiều thứ như thế vang lên khắp nơi – nhưng phục vụ một sự hiện diện khơi nguồn cho sự thiện hảo, biết sức mạnh của mình và không đòi chiếm giữ độc quyền.

Đây là con đường sứ vụ: con đường hướng về tha nhân. Nơi Thiên Chúa, mỗi lời nói đều là lời được hướng tới ai đó; đó là một lời mời gọi đối thoại, một lời không bao giờ khép kín nơi chính mình. Đây chính là sự canh tân mà Công đồng Vatican II đã cổ võ, là điều chỉ sinh hoa trái nếu chúng ta bước đi cùng với toàn thể nhân loại, không bao giờ tách mình ra khỏi nhân loại. Làm ngược lại chính là tính thế gian: tự đặt mình ở trung tâm. Chuyển động của mầu nhiệm Nhập Thể là một động lực của đối thoại. Sẽ có hòa bình khi những cuộc độc thoại của chúng ta bị gián đoạn, và khi được phong phú nhờ sự lắng nghe, chúng ta quỳ xuống trước nhân tính của tha nhân. Trong điều này, Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Giáo hội, là Ngôi Sao truyền giáo, là Nữ Vương Hòa Bình. Nơi Mẹ, chúng ta hiểu rằng không có gì được sinh ra từ việc phô trương sức mạnh, và mọi sự đều được tái sinh từ sức mạnh âm thầm của một sự sống được đón nhận.


[Nguồn: aleteia]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/12/2025]