Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2025

Lễ Giáng Sinh 2025 – Phép lành Urbi et Orbi

Lễ Chúa Giáng Sinh – Phép lành Urbi et Orbi

Ngày 25 tháng 12 năm 2025

Lễ Giáng Sinh 2025 – Phép lành Urbi et Orbi


Vào ngày 25 tháng 12 năm 2025, Đại lễ Chúa Giáng Sinh, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã ban phép lành Urbi et Orbi đầu tiên trong triều đại giáo hoàng của ngài từ ban công chính của Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô. Trong sứ điệp Giáng sinh, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng biến cố Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem chính là khởi nguồn của nền hòa bình đích thực — một nền hòa bình xuất phát từ tình yêu thương xót của Thiên Chúa và được xây dựng qua trách nhiệm cá nhân, sự tha thứ và tình liên đới.

Đức Thánh Cha mời gọi mọi người mở lòng trước những ai đang đau khổ — đặc biệt là các nạn nhân của chiến tranh, bất công và thiên tai — và phó thác cho Hài Nhi Giêsu những hoàn cảnh xung đột và đau thương tại nhiều khu vực trên thế giới: Trung Đông (Libăng, Palestine, Israel, Syria), Ukraine, Haiti, Myanmar, Sudan, Cộng hòa Dân chủ Congo, Mỹ Latinh và những nơi khác đang chịu ảnh hưởng bởi bạo lực, đói kém, di cư và thảm họa. Ngài nhấn mạnh rằng, khi Năm Thánh Hy vọng dần khép lại, thì Cửa ơn Cứu Độ vẫn luôn rộng mở nơi Chúa Giêsu, Đấng mang lại sự nghỉ ngơi và hòa giải cho mọi tâm hồn.

Với tâm tình phụ tử và tràn đầy hy vọng, Đức Lêô XIV cầu chúc mọi người một mùa Giáng sinh an lành, nhắc nhớ rằng: “Ngày sinh của Chúa chính là ngày sinh của hòa bình.”

*******

Phép lành Urbi et Orbi:
SỨ ĐIỆP "URBI ET ORBI" CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV
GIÁNG SINH 2025

Ban công chính Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô
Thứ Năm, ngày 25 tháng 12 năm 2025

____________________________________


Anh chị em thân mến,

“Chúng ta hãy cùng vui lên trong Chúa, vì Đấng Cứu Độ đã sinh xuống trần gian. Hôm nay, hòa bình đích thực từ trời đã xuống với chúng ta” (Ca nhập lễ, Thánh lễ Đêm Giáng Sinh). Đó là lời ca của phụng vụ trong đêm Giáng Sinh, và lời loan báo từ Bêlem vang vọng trong Giáo hội: Hài Nhi do Đức Trinh Nữ Maria sinh hạ chính là Đức Kitô Chúa chúng ta, được Chúa Cha sai đến để cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Quả thật, Người chính là bình an của chúng ta; Người đã chiến thắng hận thù và oán ghét bằng tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Vì lẽ đó, “Ngày sinh của Chúa chính là ngày sinh của hòa bình” (Thánh Lêô Cả, Bài giảng 26).

Chúa Giêsu sinh ra trong máng cỏ vì không có chỗ cho Người trong quán trọ. Ngay khi vừa sinh hạ, Mẹ Maria “lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ” (x. Lc 2:7). Con Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, đã không được đón tiếp, và một máng cỏ nghèo nàn dành cho súc vật trở thành chiếc nôi của Người.

Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng vĩ đại hơn cả trời cao, đã chọn đến thế gian theo cách ấy. Vì yêu thương, Người muốn được sinh ra bởi một người nữ để chia sẻ thân phận nhân loại của chúng ta; vì yêu thương, Người chấp nhận sự nghèo khó và bị khước từ, đồng hóa mình với những người bị gạt ra bên lề và bị loại trừ.

Ngay trong biến cố giáng sinh của Chúa Giêsu, chúng ta đã thoáng thấy quyết định căn bản định hướng toàn bộ cuộc đời Con Thiên Chúa, cho đến cái chết trên thập giá: đó là quyết định không để chúng ta mang gánh nặng của tội, nhưng chính Người sẽ gánh lấy thay cho chúng ta. Chỉ mình Người mới có thể làm được điều đó. Nhưng đồng thời, Người cũng chỉ cho chúng ta thấy những gì chúng ta có thể làm, đó là nhận phần trách nhiệm của mình. Thật vậy, Thiên Chúa, Đấng tạo dựng chúng ta không cần đến chúng ta, nhưng Người sẽ không cứu chuộc chúng ta nếu không có chúng ta (x. Thánh Augustinô, Bài giảng 169, 11, 13), nghĩa là nếu không có ý chí tự do yêu thương của chúng ta. Những ai không yêu thương thì không được cứu độ; họ bị hư mất. Và những ai không yêu thương anh chị em mình mà họ trông thấy được, thì không thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy (x. 1 Ga 4:20).

Anh chị em thân mến, trách nhiệm là con đường chắc chắn dẫn đến hòa bình. Nếu tất cả chúng ta, ở mọi cấp độ, ngừng đổ lỗi cho người khác và thay vào đó biết nhận ra lỗi lầm của chính mình, xin Thiên Chúa thứ tha, và nếu chúng ta thực sự bước vào nỗi đau của tha nhân, liên đới với những người yếu thế và bị áp bức, thì thế giới này sẽ thay đổi.

Chúa Giêsu Kitô là bình an của chúng ta, trước hết vì Người giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và đồng thời Người chỉ cho chúng ta con đường để vượt thắng mọi xung đột — dù là giữa cá nhân hay giữa các quốc gia. Nếu không có một tâm hồn được giải phóng khỏi tội, một tâm hồn được tha thứ, chúng ta không thể trở thành những con người của hòa bình hay những người xây dựng hòa bình. Đây là lý do Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem và chịu chết trên thập giá: để giải thoát chúng ta khỏi tội. Người là Đấng Cứu Chuộc. Nhờ ân sủng của Người, mỗi người chúng ta có thể thực hiện và phải thực hiện phần việc của mình là từ bỏ hận thù, bạo lực và sự đối đầu, đồng thời thực hành đối thoại, hòa bình và hòa giải.

Trong ngày đại lễ này, tôi xin gửi lời chào nồng ấm và đầy tình phụ tử đến toàn thể các Kitô hữu, đặc biệt là những anh chị em đang sống tại Trung Đông, nơi tôi vừa đến thăm trong chuyến Tông du đầu tiên của tôi. Tôi đã lắng nghe họ bày tỏ những nỗi sợ hãi và thấu hiểu sâu sắc cảm giác bất lực của họ trước những vòng xoáy quyền lực đang áp đảo họ. Hài Nhi sinh ra hôm nay tại Bêlem cũng chính là Chúa Giêsu, Đấng đã phán: “Trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16:33).

Chúng ta hãy khẩn xin Thiên Chúa ban công lý, hòa bình và sự ổn định cho Libăng, Palestine, Israel và Syria, tin tưởng vào lời Kinh Thánh: “Sự nghiệp của đức công minh sẽ là hòa bình, và thành quả của đức công minh sẽ là sự yên hàn và an ninh vĩnh cửu” (Is 32:17).

Chúng ta hãy phó thác toàn thể Châu Âu cho Hoàng Tử Hòa Bình, xin Người tiếp tục khơi dậy tinh thần cộng đồng và hợp tác, trung thành với nguồn cội và lịch sử Kitô giáo của mình, đồng thời liên đới và đón nhận những người túng thiếu. Cách riêng, chúng ta cầu nguyện cho dân tộc Ukraine đang đau khổ: xin cho tiếng súng được dừng lại, và ước mong các bên liên quan, với sự hỗ trợ và cam kết của cộng đồng quốc tế, tìm thầy can đảm để bước vào cuộc đối thoại chân thành, trực tiếp và tôn trọng lẫn nhau.

Từ Hài Nhi Bêlem, chúng ta khẩn cầu sự bình an và an ủi cho các nạn nhân của tất cả các cuộc chiến tranh đang diễn ra trên thế giới, đặc biệt là những cuộc chiến bị lãng quên, và cho những ai đang đau khổ vì bất công, bất ổn chính trị, bách hại tôn giáo và khủng bố. Tôi đặc biệt nhớ đến anh chị em chúng ta tại Sudan, Nam Sudan, Mali, Burkina Faso và Cộng hòa Dân chủ Congo.

Trong những ngày cuối cùng của Năm Thánh Hy Vọng này, chúng ta hãy cầu nguyện cùng Thiên Chúa làm người cho người dân Haiti thân yêu, xin cho mọi hình thức bạo lực tại quốc gia này chấm dứt và tiến trình hòa bình, hòa giải được mở ra.

Xin Hài Nhi Giêsu soi sáng cho những người đang nắm giữ trách nhiệm chính trị tại Châu Mỹ Latinh, để khi đối diện với muôn vàn thách đố, biết dành chỗ cho đối thoại vì ích chung, thay vì những định kiến ý thức hệ và đảng phái.

Chúng ta hãy xin Hoàng Tử Hòa Bình chiếu tỏa ánh sáng của một tương lai hòa giải trên Myanmar, khơi lại niềm hy vọng cho các thế hệ trẻ, hướng dẫn toàn thể dân tộc bước đi trên những con đường hòa bình, và đồng hành với những người đang sống trong cảnh không nhà cửa, thiếu an ninh và mất niềm tin vào ngày mai.

Chúng ta cầu xin Chúa cho tình hữu nghị lâu đời giữa Thái Lan và Campuchia được phục hồi, và xin cho các bên liên quan tiếp tục nỗ lực hướng tới sự hòa giải và hòa bình.

Chúng ta cũng phó thác cho Thiên Chúa các dân tộc tại Nam Á và Châu Đại Dương, những nơi vừa trải qua thử thách nghiệt ngã bởi các thảm họa thiên nhiên nghiêm trọng, ảnh hưởng đến toàn thể cộng đồng. Trước những thử thách ấy, tôi mời gọi mọi người, với lòng xác tín sâu sắc, làm mới lại cam kết chung trong việc trợ giúp những người đau khổ.

Anh chị em thân mến, trong bóng tối của đêm đen, “Ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1:9), nhưng “người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:11). Chúng ta đừng để bản thân mình bị khuất phục bởi sự dửng dưng trước những người đau khổ, vì Thiên Chúa không bao giờ thờ ơ trước cảnh khốn cùng của chúng ta.

Khi trở thành người phàm, Chúa Giêsu đã mang lấy sự mong manh của chúng ta, đồng hóa mình với mỗi người chúng ta: với những ai không còn gì và đã mất tất cả, như người dân ở Gaza; với những người là nạn nhân của đói khát và nghèo khổ, như người dân Yemen; với những người đang phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm tương lai nơi đất khách, như bao người tị nạn và di dân vượt Địa Trung Hải hoặc băng qua lục địa Châu Mỹ; với những người mất việc làm và những người đang tìm kiếm việc làm, như rất nhiều bạn trẻ đang chật vật tìm kiếm công việc; với những người bị bóc lột, như những công nhân bị trả lương thấp; với những người trong lao tù, thường phải sống trong điều kiện phi nhân.

Lời kêu cầu hòa bình vang lên từ khắp mọi miền đất đã chạm đến trái tim Thiên Chúa, như một thi sĩ đã viết:

“Không phải là hòa bình của một cuộc ngừng bắn,

cũng chẳng phải là hình ảnh sói nằm chung với chiên,

nhưng đúng hơn

như trong lòng khi cơn xúc động đã lắng xuống,

và bạn chỉ có thể nói về một nỗi mệt mỏi rã rời…

Xin hãy để nó đến

như những bông hoa dại,

bất ngờ, bởi vì cánh đồng

phải có nó: một nền hòa bình hoang dại.” [1]

Trong ngày thánh này, chúng ta hãy mở lòng đón nhận những anh chị em đang túng thiếu hoặc đau khổ. Khi làm như thế, là chúng ta đang mở lòng đón nhận Hài Nhi Giêsu, Đấng đang giang tay đón nhận chúng ta và mạc khải thiên tính của Người cho chúng ta: “Còn những ai đón nhận, … thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12).

Chỉ ít ngày nữa, Năm Thánh sẽ khép lại. Các Cửa Thánh sẽ đóng lại, nhưng Đức Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, vẫn luôn ở lại với chúng ta! Người là Cửa luôn rộng mở, dẫn đưa chúng ta vào sự sống thần linh. Đây chính là lời loan báo vui mừng của ngày hôm nay: Hài Nhi được sinh ra chính là Thiên Chúa làm người; Người đến không phải để kết án nhưng để cứu độ; sự xuất hiện của Người không phải là thoáng qua, vì Người đến để ở lại và hiến ban chính mình. Nơi Người, mọi vết thương đều được chữa lành, mọi tâm hồn đều tìm thấy sự nghỉ ngơi và bình an. “Ngày sinh của Chúa chính là ngày sinh của hòa bình.”

Gửi đến tất cả anh chị em lời chúc chân thành cho một mùa Giáng Sinh thánh thiện và bình an!

______________________________________

[1] Y. Amichai, “Wildpeace”, in The Poetry of Yehuda Amichai, Farrar, Straus and Giroux, 2015.


[Nguồn: exaudi]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 26/12/2025]


Lễ vọng mừng Chúa Giáng Sinh - Bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV

Lễ vọng mừng Chúa Giáng Sinh - Bài giảng của Đức Thánh Cha Lêô XIV

THÁNH LỄ ĐÊM
Lễ trọng mừng Chúa Giáng Sinh

THÁNH LỄ DO ĐỨC THÁNH CHA CHỦ SỰ
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC THÁNH CHA LÊÔ XIV

Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô
Thứ Tư, ngày 24 tháng 12 năm 2025

_________________________________________


Anh chị em thân mến,

Từ ngàn đời nay, trên khắp mặt đất, các dân tộc đã ngước nhìn lên bầu trời, đặt tên cho những vì sao thầm lặng và hình dung ra những hình ảnh từ đó. Trong nỗi khát khao đầy mộng tưởng, họ cố gắng đọc tương lai qua các tầng trời cao, tìm kiếm trên thượng giới một chân lý đang thiếu vắng trong những mái nhà trần thế của họ. Thế nhưng, như những kẻ lần mò trong đêm tối, họ vẫn lạc lối và bối rối trước những lời sấm truyền của chính mình. Tuy nhiên, trong đêm nay, “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1).

Kìa xem ngôi sao làm thế gian kinh ngạc, một tia sáng mới được thắp lên và rực cháy sức sống: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:11). Đi vào trong thời gian và không gian – giữa chúng ta – là Đấng mà nếu không có Người, chúng ta đã không hiện hữu. Đấng hiến dâng mạng sống cho chúng ta nay đang sống giữa chúng ta, soi sáng đêm đen bằng ánh sáng cứu độ của Người. Không có bóng tối nào mà ngôi sao này không thể chiếu soi, vì nhờ ánh sáng ấy, toàn thể nhân loại được chiêm ngắm bình minh của một sự sống mới và vĩnh cửu.

Đó chính là mầu nhiệm Giáng Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Emmanuel. Nơi Ngôi Con làm người, Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta không gì khác hơn là chính bản thân Người, để “cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người” (Tt 2:14). Đấng cứu chuộc chúng ta khỏi đêm đen đã được sinh ra trong đêm tối. Không còn phải tìm kiếm dấu chỉ của ngày mới đang lên nơi cõi vùng xa xăm của vũ trụ, nhưng bằng cách cúi mình xuống, nơi máng cỏ gần bên.

Dấu chỉ rõ ràng được ban cho một thế giới đang chìm trong u tối chính là “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Để tìm thấy Đấng Cứu Độ, con người không phải ngước nhìn lên cao, mà phải cúi nhìn xuống thấp: quyền năng vô biên của Thiên Chúa tỏa sáng nơi sự mong manh của một trẻ thơ; lời hùng hồn của Ngôi Lời vĩnh cửu vang vọng trong tiếng khóc chào đời của một hài nhi; sự thánh thiện của Thánh Thần rực sáng trong thân thể bé nhỏ ấy, vừa được tắm rửa và bọc trong khăn tã. Nhu cầu được chăm sóc và hơi ấm trở thành điều mang tính thần linh kể từ khi Con của Chúa Cha chia sẻ lịch sử với tất cả anh chị em của Người. Ánh sáng thần linh tỏa ra từ Hài Nhi này giúp chúng ta nhận ra phẩm giá con người nơi mỗi sự sống mới.

Để chữa lành sự mù lòa của chúng ta, Chúa chọn mạc khải chính mình nơi mỗi con người, những người phản chiếu hình ảnh chân thực của Người theo kế hoạch tình yêu đã khởi sự từ thuở tạo dựng trời đất. Chừng nào đêm đen của sai lầm còn che khuất chân lý quan phòng này, thì chừng đó “cũng sẽ không có chỗ cho người khác, cho trẻ em, cho người nghèo, cho người ngoại kiều” (Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng, Lễ đêm Giáng sinh, 24/12/2012). Những lời này của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vẫn là một lời nhắc nhở mang tính thời sự rằng trên thế giới này, nếu không có chỗ cho con người, thì cũng không có chỗ cho Thiên Chúa. Từ chối bên này là từ chối cả bên kia. Tuy nhiên, nơi nào có chỗ cho con người, thì nơi đó có chỗ cho Thiên Chúa; ngay cả một chuồng bò cũng có thể trở nên thánh thiêng hơn một đền thờ, và cung lòng Đức Trinh Nữ Maria trở thành Hòm Bia Giao Ước Mới.

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy kinh ngạc trước sự khôn ngoan của mầu nhiệm Giáng Sinh. Nơi Hài Nhi Giêsu, Thiên Chúa ban cho thế gian một sự sống mới: sự sống của chính Người, được hiến trao cho tất cả mọi người. Người không trao cho chúng ta một giải pháp khéo léo cho mọi vấn đề, nhưng là một câu chuyện tình yêu lôi cuốn chúng ta vào cuộc. Để đáp lại niềm mong đợi của các dân tộc, Người sai đến một trẻ thơ như lời hy vọng. Trước nỗi đau khổ của người nghèo, Người sai đến một Đấng không có gì tự vệ để trở thành sức mạnh cho sự trỗi dậy. Trước bạo lực và áp bức, Người thắp lên một ánh sáng dịu dàng, soi sáng ơn cứu độ cho tất cả con cái trên thế giới này. Như Thánh Augustinô đã nhận xét: “Lòng kiêu ngạo của con người đã đè nặng trên anh em đến mức chỉ có sự khiêm hạ của Thiên Chúa mới có thể nâng anh em trỗi dậy” (Thánh Augustinô, Bài giảng 188, III, 3). Trong khi một nền kinh tế méo mó khiến chúng ta đối xử với con người như hàng hóa, thì Thiên Chúa lại trở nên như chúng ta, mạc khải phẩm giá vô hạn của mỗi nhân vị. Trong khi nhân loại tìm cách trở thành “chúa” để thống trị kẻ khác, thì Thiên Chúa lại chọn trở thành con người để giải phóng chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ. Liệu tình yêu ấy có đủ để thay đổi lịch sử của chúng ta chăng?

Câu trả lời sẽ đến ngay khi chúng ta tỉnh giấc khỏi đêm đen của sự chết để bước vào ánh sáng của sự sống mới, và như các mục đồng, chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu. Phía trên chuồng chiên bò Bêlem, nơi Mẹ Maria và Thánh Giuse đang chiêm ngắm Hài Nhi mới sinh với lòng đầy kinh ngạc, bầu trời đầy sao bỗng biến thành “muôn vàn thiên binh” (Lc 2:13). Đó là những đạo binh không vũ trang và mang tính giải giới, vì họ hát mừng vinh quang Thiên Chúa, mà hòa bình dưới thế chính là biểu hiện chân thực nhất (x. c. 14). Thật vậy, trong trái tim của Đức Kitô đang đập nhịp mối dây tình yêu liên kết trời và đất, Đấng Tạo Hóa và các thụ tạo.

Chính vì thế, đúng một năm trước, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định rằng Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu khơi dậy trong chúng ta “hồng ân và sứ mạng mang hy vọng đến bất cứ nơi nào đã mất hy vọng,” bởi vì “với Người, niềm vui nở rộ; với Người, sự sống đổi thay; với Người, hy vọng không làm thất vọng” (Bài giảng, Lễ Đêm Giáng sinh, 24/12/2024). Với những lời ấy, Năm Thánh đã được khai mạc. Giờ đây, khi Năm Thánh sắp khép lại, Giáng Sinh trở thành thời khắc của lòng biết ơn và sứ vụ đối với chúng ta; biết ơn vì hồng ân đã lãnh nhận, và sứ vụ làm chứng cho hồng ân đó trước thế giới. Như tác giả Thánh vịnh đã ca vang: “Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96: 2-3).

Anh chị em thân mến, việc chiêm ngưỡng Ngôi Lời nhập thể khơi dậy trong toàn thể Hội Thánh một lời loan báo mới mẻ và chân thực. Vậy chúng ta hãy công bố niềm vui Giáng Sinh, là ngày lễ của đức tin, đức ái và đức cậy. Đó là ngày lễ của đức tin, vì Thiên Chúa làm người, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ. Đó là ngày lễ của đức ái, vì hồng ân của Ngôi Con cứu chuộc được hiện thực trong sự tự hiến huynh đệ. Đó là ngày lễ của đức cậy, bởi vì Hài Nhi Giêsu thắp lên niềm hy vọng trong lòng chúng ta, làm cho chúng ta trở thành những sứ giả của hòa bình. Với những nhân đức ấy trong tâm hồn, không sợ hãi đêm đen, chúng ta có thể tiến bước đón chào bình minh của một ngày mới.


[Nguồn: vatican.va]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/12/2025]


Ngôi thánh đường cổ nhất thế giới đã được tìm thấy: ở đâu, hình dạng ra sao, và tham quan như thế nào?

Ngôi thánh đường cổ nhất thế giới đã được tìm thấy: ở đâu, hình dạng ra sao, và tham quan như thế nào?

Một địa điểm khảo cổ được giới học giả nghiên cứu từ lâu nay đã chính thức mở cửa đón công chúng Ảnh: Visit Jordan

Ngôi thánh đường cổ nhất thế giới đã được tìm thấy: ở đâu, hình dạng ra sao, và tham quan như thế nào?

Được phát hiện vào năm 1998 bởi một nhóm do nhà khảo cổ học người Mỹ Thomas Parker dẫn đầu, nhà thờ này được xây dựng trong khoảng từ năm 293 đến 303, dưới triều đại của Hoàng đế Diocletian. Khác với những nơi hội họp của Kitô hữu thời kỳ sơ khai — thường là các tư gia được cải biến, gọi là domus ecclesiae — công trình tại Aqaba ngay từ đầu được xây dựng với mục đích làm một nhà thờ.

23 THÁNG 12, 2025 15:32

ZENIT STAFF


(ZENIT News / Áqaba, 23.12.2025). - Dọc theo bờ Biển Đỏ, tại một thành phố mà ngày nay được biết đến nhiều hơn qua các tuyến đường thương mại và du lịch, một chương bất ngờ trong lịch sử Kitô giáo đã tái hiện. Tại Aqaba, miền nam Jordan, một địa điểm khảo cổ được giới học giả nghiên cứu trong thời gian dài nay đã chính thức mở cửa cho công chúng: đó là di tích của một ngôi nhà thờ có niên đại từ cuối thế kỷ thứ III, được công nhận rộng rãi là nơi thờ tự Kitô giáo cổ nhất được xây dựng với mục đích chuyên biệt từng được biết đến cho đến nay.

Lễ mở cửa, được tổ chức vào ngày 15 tháng 12, mang âm hưởng vang xa hơn cả lĩnh vực khảo cổ học. Lần đầu tiên kể từ sau trận động đất tàn khốc xảy ra trong vùng vào năm 363, những lời kinh nguyện và thánh ca phụng vụ một lần nữa lại vang lên trong những bức tường có trước cả thời kỳ Kitô giáo được hợp pháp hóa trong Đế quốc La Mã. Đại diện hoàng gia Jordan, các tòa Thượng phụ Kitô giáo và các vị lãnh đạo Giáo hội đã quy tụ trên mảnh đất nơi các tín hữu từng quy tụ vào thời điểm mà việc thờ phượng Kitô giáo công khai vẫn còn bấp bênh về mặt pháp lý.

Bộ trưởng Bộ Du lịch Jordan, ông Emad Hijazin, đã chủ trì buổi lễ khai mạc thay mặt Quốc vương Abdullah II, nhấn mạnh hai ý nghĩa của sự kiện này. Ông cho biết địa điểm này không chỉ phản ánh di sản văn hóa của Jordan mà còn thể hiện cam kết lâu dài của quốc gia trong việc bảo tồn di sản tôn giáo đa dạng của đất nước. Aqaba, được biết đến với tên gọi Aila trong thời cổ đại, ngày càng được giới thiệu không chỉ như một điểm đến ven biển, mà còn là nơi lịch sử thiêng liêng vẫn còn hiện hữu một cách hữu hình.

Ngôi thánh đường cổ nhất thế giới đã được tìm thấy: ở đâu, hình dạng ra sao, và tham quan như thế nào?

Phụng vụ được cử hành trong buổi lễ do Đức Tổng Giám mục Christoforos của vùng Kyriakoupolis chủ sự, đại diện cho Tòa Thượng phụ Chính thống giáo Hy Lạp tại Giêrusalem, đánh dấu khoảnh khắc của sự tiếp nối mang tính biểu tượng. Các vị lãnh đạo Giáo hội hiện diện nhấn mạnh ý nghĩa của việc đưa việc thờ phượng trở lại một không gian đã từng phục vụ cộng đoàn Kitô hữu sinh sống hàng chục năm trước khi Sắc lệnh Milano ban hành quyền tự do tôn giáo vào năm 313.

Được phát hiện vào năm 1998 bởi một nhóm do nhà khảo cổ học người Mỹ Thomas Parker dẫn đầu, ngôi thánh đường được xây dựng trong khoảng từ năm 293 đến 303, dưới triều đại của Hoàng đế Diocletian. Khác với những nơi hội họp Kitô giáo thời kỳ sơ khai — thường là các tư gia được cải biến lại, gọi là domus ecclesiae — cấu trúc tại Aqaba ngay từ đầu được xây dựng với mục đích làm một nhà thờ. Bố cục theo kiểu vương cung thánh đường, với gian giữa, các gian phụ hai bên và một cung thánh quay về hướng đông, cho thấy một cộng đoàn đã trưởng thành về mặt phụng vụ và tổ chức.

Những phát hiện khảo cổ tại địa điểm này, bao gồm đèn thủy tinh, đồ gốm, tiền đồng La Mã và các khu nghĩa trang lân cận liên kết với cùng một cộng đoàn, đã giúp xác nhận niên đại của nó. Những mảnh kim loại nhỏ, được giải thích là các phần của một thánh giá bằng đồng, càng củng cố thêm căn tính Kitô giáo của địa điểm này. Đáng chú ý, tòa nhà đã tồn tại qua các thời kỳ bách hại và tiếp tục được sử dụng vào kỷ nguyên của Đế quốc đã được Kitô giáo hóa, cho đến khi một thảm họa thiên nhiên đột ngột chấm dứt chức năng của nó.

Thánh đường Aqaba có trước cả những địa danh Kitô giáo biểu tượng như Nhà thờ Mộ Thánh ở Giêrusalem và Vương cung thánh đường Giáng sinh ở Bêlem. Tầm quan trọng của di tích này đã giúp nó được Tổ chức Kỷ lục Thế giới Guinness công nhận là ngôi nhà thờ cổ nhất thế giới được xây dựng đặc biệt cho việc thờ phượng của Kitô giáo, mang lại cái nhìn hiếm hoi về những thập kỷ hình thành nên đời sống giáo hội ở thế giới La Mã phương Đông.

Ngôi thánh đường cổ nhất thế giới đã được tìm thấy: ở đâu, hình dạng ra sao, và tham quan như thế nào?

Trong những năm gần đây, chính quyền Jordan cùng với các đối tác quốc tế đã thực hiện những nỗ lực bảo tồn cẩn trọng. Những bức tường gạch bùn đã được gia cố, và một mái che bảo vệ đã được lắp đặt để che chắn cho di tích khỏi hư hại do thời tiết. Khu di tích được phục hồi hiện đã được đưa vào các tuyến du lịch văn hóa và hành hương rộng lớn hơn của Jordan, kết nối địa lý Kinh Thánh với các bằng chứng khảo cổ học.

Đối với Đức cha Iyad Twal, Đại diện Tòa Thượng phụ Latinh Giêrusalem tại Jordan, việc mở cửa trở lại ngôi thánh đường là một lời nhắc nhở về vai trò lâu đời của đất nước này như một điểm giao thoa của các tôn giáo. Ngài nói rằng Jordan tiếp tục là hiện thân cho một mô hình chung sống hòa hợp, nơi các cộng đồng Kitô giáo và Hồi giáo cùng chia sẻ một di sản chung đặt nền tảng trên sự tôn trọng và tiếp nối.

Vượt trên giá trị lịch sử, ngôi thánh đường Aqaba lặng lẽ cất lên tiếng nói với hiện tại. Nó gợi nhớ về một thời kỳ khi căn tính Kitô giáo được rèn giũa mà chưa có sự bảo trợ của pháp luật, được duy trì bởi những cộng đoàn nhỏ bé với đức tin tồn tại lâu bền hơn cả các đế chế lẫn các trận động đất. Địa điểm không chỉ mang đến cái nhìn thoáng qua về quá khứ: nó đứng đó như một minh chứng cho một đức tin đã mang hình thức kiến trúc từ trước khi nhận được sự ưu ái của hoàng gia, và vẫn tiếp tục tìm thấy một ngôi nhà trên những vùng đất này nhiều thế kỷ sau đó.


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/12/2025]


Phát hiện khảo cổ quan trọng tại Giêrusalem: thêm một đoạn tường thành cổ

Phát hiện khảo cổ quan trọng tại Giêrusalem: thêm một đoạn tường thành cổ
Đất Thánh đã được phát hiện dưới Bảo tàng Pháo đài Tháp Đa-vít trong Thành C

Phát hiện khảo cổ quan trọng tại Giêrusalem: thêm một đoạn tường thành cổ

Các bức tường thành thời Hasmonaean bao quanh một khu vực rộng lớn hơn nhiều so với khu Thành cổ Giêrusalem ngày nay. Theo các văn bản cổ, hệ thống này gồm 60 tháp canh, mỗi tháp cao khoảng 33 feet (10 mét). Đoạn tường vừa được phát hiện là một trong những đoạn dài nhất của tường thành Hasmonaean từng được tìm thấy còn nguyên vẹn.

20 THÁNG HAI, 2025 17:06

RAFAEL LLANES


(ZENIT News / Jerusalem, 20.12.2025). – Đoạn dài nhất của bức tường thành cổ bao quanh Giêrusalem đã được tìm thấy dưới chân Bảo tàng Pháo đài Tháp Đa-vít trong khu Thành cổ, cùng với những bằng chứng về một thỏa ước hòa bình được ký kết vào cuối thế kỷ II trước Công nguyên giữa hai vương quốc đối địch.

Cuộc khai quật do Cơ quan Cổ vật Israel (IAA) thực hiện nhằm chuẩn bị cho việc khánh thành Schulich Wing mới về Khảo cổ, Nghệ thuật và Đổi mới tại Bảo tàng, đã làm lộ ra phần móng của hệ thống tường thành bao quanh Giêrusalem dưới triều đại Hasmonaean. Đây là giai đoạn gắn liền với lễ Hanukkah, trong tiếng Do Thái có nghĩa là “cung hiến”, kỷ niệm sự kiện tái thiết Đền Thờ Giêrusalem vào thế kỷ II trước Công nguyên, sau khi một nhóm nhỏ các chiến binh Do Thái đã trục xuất các lực lượng ngoại bang chiếm đóng ra khỏi Đền Thờ.

Việc xây dựng tường thành Hasmonean bắt đầu vài thập kỷ sau các biến cố của lễ Hanukkah. Đoạn tường vừa được khai quật dài 50 mét, từng là nền móng nâng đỡ những bức tường cao hơn cả các bức tường bao quanh Thành cổ Giêrusalem hiện nay, vốn được xây dựng từ hàng trăm năm sau đó, dưới thời kỳ Đế quốc Ottoman.

Các bức tường thành thời Hasmonaean bao quanh một khu vực rộng lớn hơn nhiều so với khu Thành cổ Giêrusalem ngày nay. Theo các văn bản cổ, hệ thống này gồm 60 tháp canh, mỗi tháp cao khoảng 33 feet (10 mét). Đoạn tường vừa được phát hiện là một trong những đoạn dài nhất của tường thành Hasmonaean từng được tìm thấy còn nguyên vẹn.

Một khía cạnh thú vị của phần nền móng này là bức tường dường như đã bị tháo dỡ một cách có chủ ý đến cùng một độ cao đồng nhất, chứ không phải bị phá hủy cách hỗn loạn bởi sự tàn phá của thời gian hoặc chiến tranh – Tiến sĩ Amit Re’em, nhà khảo cổ học thuộc dự án của Cơ quan Cổ vật Israel, nhận định về quá trình dỡ bỏ bức tường.

Các đoạn khác của tường thành Hasmonaean được phát hiện tại Giêrusalem trước đây đều không bị tháo dỡ như vậy. Nhà nghiên cứu Peleg-Barkat giải thích rằng, có lẽ chỉ riêng đoạn được khai quật này bị hạ xuống để làm nền móng cho cung điện của vua Hêrôđê trong thời gian ông trị vì vào thế kỷ I trước Công nguyên, như một thông điệp rõ ràng về quyền tối thượng của ông đối với Giêrusalem của người Do Thái; bởi lẽ, khó có khả năng Giêrusalem lại ở trong tình trạng không được bảo vệ và không có tường thành trong suốt hơn một thế kỷ.

Một giả thuyết khác cho rằng, theo sử gia Do Thái cổ đại Flavius Josephus, vua Antiochus VII của Hy Lạp, người kế vị Antiochus VI, đã vây hãm Giêrusalem và Vương quốc Giu-đê vào năm 132 hoặc 133 trước Công nguyên. Trong khi quân đội Do Thái giao chiến, vua Do Thái John Hyrcanus I đã quyết định thực hiện một thỏa ước với Antiochus bằng cách lấy từ mộ Vua Đa-vít 3.000 talent bạc và nộp thêm 500 con tin, gồm cả em trai của ông, theo các bản viết của Josephus.

Tiến sĩ Re’em kết luận: “Chúng tôi tin rằng mình vừa tìm thấy bằng chứng khảo cổ cho biến cố này, và điều đó thật sự đáng kinh ngạc. Sự kết hợp giữa khảo cổ học và lịch sử cổ đại đã tạo nên sức cuốn hút kỳ diệu cho Giêrusalem.”


[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 23/12/2025]