Đức Lêô XIV: Chúng ta hãy xây dựng một thế giới dựa trên sự thật, công bình và hòa bình
Sáng nay, Đức Giáo hoàng Lêô XIV đã tiếp kiến ngoại giao đoàn được Toà Thánh công nhận và khuyến khích các vị đại sứ cùng nhau làm việc để xây dựng một thế giới nơi mọi người “có thể thực hiện trọn vẹn nhân tính của mình trong sự thật, công bình và hòa bình”.
Hòa bình, công bình và sự thật: Đây là ba “rường cột” cho sứ vụ truyền giáo của Giáo hội cũng như của hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh, như Đức Thánh Cha Lêô XIV đã nêu ra trong diễn văn trước Ngoại giao đoàn được công nhận tại Tòa Thánh vào sáng nay tại Vatican.
Trước tiên, Đức Thánh Cha bày tỏ lời cảm ơn trước những lời chào mừng nồng nhiệt của ông George Poulides, Đại sứ Cộng hòa Síp và là Trưởng đoàn ngoại giao. Phát biểu trước toàn thể Đoàn Ngoại giao, ngài cũng bày tỏ lòng tri ân đối với nhiều thông điệp chúc mừng nhân dịp ngài được bầu chọn, kể cả từ những quốc gia chưa có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh. Ngài nói, “Đây là một dấu hiệu đáng kể của sự tôn trọng cho thấy mối quan hệ hỗ tương đôi bên được củng cố.”
Đức Thánh Cha nhắc lại rằng hoạt động ngoại giao của tòa thánh “được thúc đẩy bởi sự cấp bách về mục vụ, không nhằm tìm kiếm đặc quyền nhưng để củng cố sứ mạng loan báo Tin mừng để phục vụ nhân loại.”
Hoạt động đó chống lại sự thờ ơ và không ngừng kêu gọi lương tâm nhân loại, như Vị Tiền nhiệm đáng kính của tôi đã kiên trì thực hiện, luôn lưu tâm đến tiếng kêu của người nghèo, của người túng thiếu và bị gạt ra bên lề, cũng như những thách đố đặc trưng của thời đại chúng ta, từ việc bảo vệ công trình sáng tạo đến trí tuệ nhân tạo.
Vượt qua biên giới và gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau
Sự hiện diện của quý vị ở đây hôm nay là một món quà cho tôi, nó cho phép tôi đổi mới khát vọng của Giáo hội – cũng như của chính tôi – là vươn tới và ôm lấy tất cả mọi người và mọi dân tộc trên địa cầu, những người đang cần và khao khát sự thật, công bình và hoà bình,” Đức Thánh Cha nói thêm, gợi lại kinh nghiệm sống của chính ngài ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Châu Âu, điều phản ánh khát vọng vượt qua các biên giới để gặp gỡ những con người và nền văn hóa khác nhau.”
Ngài nhắc đến kinh nghiệm của mình khi còn là Bề trên Tổng quyền Dòng Augustinô, một nhiệm vụ đã đưa ngài đến nhiều quốc gia trong suốt cuộc đời. Ngài bày tỏ ý định “củng cố sự hiểu biết và đối thoại với quý vị và các quốc gia của quý vị” qua công việc kiên trì và không ngừng của phủ Quốc Vụ khanh. Tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, ngài bày tỏ hy vọng “củng cố đức tin của các anh chị em trên khắp thế giới, đồng thời xây dựng những nhịp cầu mới với tất cả những người thiện chí.”
Hòa bình là một ân ban mang tính chủ động
Sau đó, Đức Lêô XIV dừng lại ở trụ cột “hòa bình” và nhận xét rằng hòa bình thường được hiểu theo nghĩa “tiêu cực”, nghĩa là “chỉ đơn thuần là sự vắng bóng chiến tranh hay xung đột, bởi vì sự đối lập là một phần thuộc bản chất con người và luôn đi theo chúng ta, quá thường xuyên khiến chúng ta liên tục sống trong “tình trạng xung đột”; trong gia đình, tại nơi làm việc, trong xã hội.
Vì thế, hòa bình dường như chỉ là một cuộc đình chiến tạm thời, một sự tạm ngưng giữa hai cuộc bất hòa, bởi dù có cố gắng đến đâu, căng thẳng vẫn luôn hiện hữu, như những than hồng âm ỉ dưới lớp tro, sẵn sàng bùng cháy trở lại bất cứ lúc nào.
“Theo quan điểm của Kitô giáo — cũng như từ kinh nghiệm của các tôn giáo khác — hòa bình trên hết là một món quà, là ân ban đầu tiên của Đức Kitô: ‘Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.’ Nhưng đó là một ân ban chủ động, một ân ban đầy nhiệt huyết,” ngài nhấn mạnh, “một ân ban chạm đến và mời gọi từng người trong chúng ta, bất kể nguồn gốc văn hóa hay tôn giáo, và trước hết đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực trên chính bản thân mình.”
Hòa bình được xây dựng trong tâm hồn và từ trái tim, bằng cách nhổ bỏ tính kiêu căng và sự đòi hỏi, cẩn trọng trong lời nói, bởi vì người ta cũng có thể làm tổn thương và giết người bằng lời nói, không chỉ bằng vũ khí.
Loại bỏ tận gốc mọi nguyên nhân dẫn đến xung đột
Dưới góc độ này, ngài chỉ ra sự đóng góp căn bản mà các tôn giáo và đối thoại liên tôn có thể thực hiện để thúc đẩy các bối cảnh hòa bình. “Đương nhiên, việc này đòi hỏi phải có sự tôn trọng đầy đủ tự do tôn giáo tại mọi quốc gia, bởi vì kinh nghiệm tôn giáo là một chiều kích căn bản của con người, nếu không có nó thì thật khó — nếu không muốn nói là không thể — đạt đến sự thanh luyện tâm hồn cần thiết để xây dựng các mối quan hệ hòa bình.” Thông qua công cuộc này, “mà tất cả chúng ta đều được kêu gọi thực hiện, chúng ta có thể loại bỏ tận gốc mọi nguyên nhân của xung đột và mọi ước muốn phá hủy vì tham vọng hủy diệt để chinh phục,” Đức Thánh Cha khẳng định.
Điều này cũng đòi hỏi một thiện chí chân thành để tham gia đối thoại, được thúc đẩy bởi mong muốn tham gia thay vì đối đầu lẫn nhau. Trên quan điểm này, cần phải hồi sinh nền ngoại giao đa phương và các tổ chức quốc tế vốn được thiết lập với mục tiêu giải quyết các xung đột có thể nảy sinh trong cộng đồng quốc tế.
Và về vấn đề này, ngài nhắc lại sứ điệp Urbi et Orbi gần đây nhất của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Hòa bình cũng không thể có nếu không có sự giải trừ quân bị thực sự; và nhu cầu phòng vệ của mỗi dân tộc không thể bị biến thành một cuộc chạy đua tái vũ trang toàn diện.”
Tìm kiếm hòa bình đòi hỏi phải thực hành công lý
Từ ngữ thứ hai mà Đức Thánh Cha suy tư là công bình, điều thiết yếu để đạt được hòa bình. “Tìm kiếm hòa bình đòi hỏi phải thực hành công bình,” Đức Thánh Cha khẳng định. Ngài giải thích lý do chọn danh hiệu Giáo hoàng của mình: “Trước hết là nghĩ đến Đức Lêô XIII, vị Giáo hoàng của thông điệp xã hội vĩ đại đầu tiên Rerum Novarum, vốn đã khơi dậy cam kết của Hội Thánh vì công lý giữa các dân tộc.”
Trong thời khắc chuyển mình mang tính thời đại này, Tòa Thánh không thể không lên tiếng trước quá nhiều sự mất cân bằng và bất công dẫn đến, trong đó có những điều kiện lao động không xứng đáng, và xã hội ngày càng chia rẽ và xung đột. Cũng cần phải nỗ lực khắc phục những bất bình đẳng toàn cầu, để lại những vết thương sâu sắc về sự xa hoa và nghèo khổ giữa các châu lục, các quốc gia và thậm chí trong chính các xã hội.
Bảo vệ phẩm giá của mỗi con người
“Trách nhiệm của các nhà lãnh đạo chính phủ là phải làm việc để xây dựng các xã hội dân sự hòa hợp và hòa bình,” Đức Thánh Cha tiếp tục, chỉ ra rằng điều này “có thể đạt được trên hết bằng cách đầu tư vào gia đình, được xây dựng trên sự kết hợp bền vững giữa một người nam và một người nữ.” Hơn nữa, “không ai được miễn trừ nghĩa vụ phải phấn đấu để bảo đảm sự tôn trọng phẩm giá của mọi người, đặc biệt là những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất: từ thai nhi đến người già, từ bệnh nhân đến người thất nghiệp, dù là công dân hay di dân,” ngài lưu ý.
Trở lại câu chuyện cá nhân của mình, “câu chuyện của một công dân, hậu duệ của những người nhập cư, người đã chọn di cư,” ngài nói thêm:
Trong suốt hành trình cuộc sống, mỗi người chúng ta đều có thể trải qua tình trạng khỏe mạnh hay đau yếu, có việc làm hay thất nghiệp, sống nơi quê hương hoặc ở một đất nước xa lạ. Tuy nhiên, phẩm giá của chúng ta luôn giống nhau: đó là phẩm giá của một thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương.
Giáo hội không bao giờ ngừng nói lên sự thật.
Khi lời nói mang những hàm ý mơ hồ và nước đôi, và thế giới ảo với cái nhìn méo mó về thực tại chiếm lĩnh cách không kiểm soát, thì thật khó để xây dựng những mối quan hệ đích thực, vì thiếu các tiền đề khách quan và thực tế của giao tiếp.
Cuối cùng, từ thứ ba: sự thật. Đức Thánh Cha Lêô chỉ ra rằng “Không thể xây dựng những mối quan hệ hòa bình thực sự, ngay cả trong cộng đồng quốc tế, nếu không dựa trên sự thật”. Ngài chỉ rõ rằng “khi lời nói mang những hàm ý mơ hồ và nước đôi, và thế giới ảo, với cái nhìn méo mó về thực tại, chiếm lĩnh cách không kiểm soát, thì rất khó để xây dựng các mối quan hệ đích thực, vì thiếu các tiền đề khách quan và thực tế của giao tiếp”.
Ngài nhấn mạnh, “Về phần mình, Giáo Hội không bao giờ được miễn trừ trách nhiệm phải nói lên sự thật về con người và thế giới, bằng mọi cách cần thiết, ngay cả bằng lời lẽ thẳng thắn có thể gây hiểu lầm ban đầu. Tuy nhiên, sự thật không bao giờ được tách rời khỏi đức ái, vốn luôn khởi nguồn từ mối quan tâm đến đời sống và hạnh phúc của mỗi người.”
Do đó, sự thật không tạo ra chia rẽ, mà đúng hơn, cho phép chúng ta đối mặt với những thách đố của thời đại cách kiên quyết hơn, như vấn đề di dân, việc sử dụng trí tuệ nhân tạo một cách có đạo đức, và bảo vệ hành tinh Trái Đất thân yêu của chúng ta. Đây là những thách đố đòi hỏi sự cam kết và hợp tác của tất cả mọi người, bởi vì không ai có thể nghĩ đến việc đối mặt với chúng một mình.
Năm Thánh của Hy Vọng, Thời gian hoán cải
Đức Thánh Cha khẳng định trước khi kết thúc bài diễn từ của ngài, “Sứ vụ của tôi bắt đầu giữa lòng Năm Thánh, được dành cách đặc biệt cho niềm hy vọng. Đây là thời điểm của hoán cải và canh tân”, ngài lưu ý, và trên hết “là một cơ hội để từ bỏ những xung đột và bắt đầu một hành trình mới, được động viên bởi niềm hy vọng làm việc cùng nhau, mỗi người theo cảm thức và trách nhiệm riêng, có thể xây dựng một thế giới trong đó mọi người có thể sống một cuộc sống thực sự xứng hợp với con người, trong sự thật, công bình và hòa bình.”
“Tôi hy vọng điều ấy sẽ trở thành hiện thực trong mọi bối cảnh, bắt đầu từ những vùng đất đang chịu đau khổ nhất, như Ukraine và Đất Thánh,” Đức Thánh Cha kết luận, đồng thời cảm ơn mọi người vì những nỗ lực họ đã làm để “xây dựng những nhịp cầu giữa quốc gia của quý vị và Tòa Thánh.”
_____________________________________
Toàn văn:
Thưa Đức Hồng y,
Thưa quý ngài đại sứ,
Thưa quý vị,
Bình an ở cùng anh chị em!
Tôi xin chân thành cảm ơn Ngài George Poulides, Đại sứ Cộng hòa Síp và là Trưởng Ngoại giao đoàn, về lời chào thân tình thay mặt quý vị, cũng như về công việc không mệt mỏi mà ngài đã đảm nhận với tinh thần nhiệt huyết, tận tụy và nhân hậu đặc trưng của ngài. Những phẩm chất này đã mang đến cho ngài sự kính trọng của tất cả các vị tiền nhiệm của tôi mà ngài từng gặp trong suốt những năm thực thi nhiệm vụ tại Tòa Thánh, đặc biệt là Đức Cố Giáo hoàng Phanxicô.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với những lời chúc mừng của quý vị sau khi tôi được bầu chọn, cũng như những lời chia buồn về sự ra đi của Đức Thánh Cha Phanxicô. Một số thông điệp trong đó đến từ những quốc gia chưa có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh, đây là một dấu hiệu đáng kể của sự tôn trọng cho thấy mối quan hệ hỗ tương đôi bên được củng cố.
Trong cuộc đối thoại giữa chúng ta, tôi mong rằng chúng ta luôn giữ được ý thức như một gia đình. Thật vậy, cộng đồng ngoại giao đại diện cho toàn thể gia đình các dân tộc, một gia đình cùng chia sẻ những niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống, và những giá trị nhân văn và tinh thần mang lại ý nghĩa và định hướng cho đời sống. Hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh là một biểu hiện cho tính công giáo của Giáo hội. Trong hoạt động ngoại giao, Toà Thánh được truyền cảm hứng từ một sứ mạng mục vụ, không nhằm tìm kiếm đặc quyền nhưng để củng cố sứ mạng loan báo Tin mừng để phục vụ nhân loại. Toà Thánh không ngừng kêu gọi lương tâm, chống lại mọi hình thức thờ ơ, như được chứng tỏ qua nỗ lực không ngừng của vị tiền nhiệm khả kính của tôi, luôn chú ý đến tiếng kêu của người nghèo, người túng thiếu, người bị gạt ra bên lề, cũng như các thách đố của thời đại, từ việc bảo vệ công trình tạo dựng cho đến trí tuệ nhân tạo.
Sự hiện diện của quý vị ở đây hôm nay không chỉ là một dấu chỉ hữu hình cho thấy sự tôn trọng của các quốc gia đối với Tòa Thánh, mà còn là một món quà cho tôi. Nó cho phép tôi đổi mới khát vọng của Giáo hội – cũng như của chính tôi – là vươn tới và ôm lấy tất cả mọi người và mọi dân tộc trên địa cầu, những người đang cần và khao khát sự thật, công bình và hoà bình! Theo một nghĩa nào đó, chính kinh nghiệm sống của tôi, trải dài từ Bắc Mỹ, Nam Mỹ cho đến châu Âu, đã được đánh dấu bởi ước vọng vượt qua các biên giới để gặp gỡ các dân tộc và nền văn hoá khác nhau.
Qua công việc bền bỉ và kiên nhẫn của Phủ Quốc vụ khanh, tôi muốn tăng cường sự hiểu biết và đối thoại với quý vị và các quốc gia của quý vị, nhiều quốc gia trong đó tôi đã có diễm phúc được viếng thăm, nhất là trong thời gian làm Bề trên Tổng quyền dòng Augustinô. Tôi vững tin rằng sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ còn cho tôi thêm nhiều cơ hội để tìm hiểu về các quốc gia của quý vị, và cho phép tôi có cơ hội để củng cố đức tin của các anh chị em trên khắp thế giới, đồng thời xây dựng những nhịp cầu mới với tất cả những người thiện chí.
Trong cuộc đối thoại của chúng ta, tôi mong rằng chúng ta luôn ghi nhớ ba từ khoá trọng yếu, tượng trưng cho những rường cột trong hoạt động truyền giáo của Giáo hội và cũng là mục đích ngoại giao của Tòa Thánh.
Từ thứ nhất là hoà bình. Chúng ta rất thường xuyên xem nó là một từ mang tính “tiêu cực”, chỉ đơn thuần là sự vắng bóng chiến tranh và xung đột, bởi vì tính đối lập là một phần vốn thuộc bản chất con người, khiến chúng ta liên tục sống trong trạng thái “xung đột” trong gia đình, tại nơi làm việc và ngoài xã hội. Hoà bình khi ấy chỉ là sự nghỉ ngơi, một khoảng dừng tạm thời giữa những cuộc tranh chấp, vì dù chúng ta có nỗ lực đến đâu, thì căng thẳng vẫn luôn hiện hữu, tựa như than hồng âm ỉ dưới lớp tro, sẵn sàng bùng cháy bất cứ lúc nào.
Theo quan điểm của Kitô giáo – nhưng cũng theo các truyền thống tôn giáo khác – hoà bình trước hết là một hồng ân. Đó là món quà đầu tiên mà Chúa Kitô trao ban: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14:27). Tuy nhiên, đó là một hồng ân đòi hỏi sự chủ động và đòi hỏi trách nhiệm. Nó mời gọi và thách đố mỗi người chúng ta, bất kể nền tảng văn hoá hay niềm tin tôn giáo, trước hết đòi hỏi chúng ta phải bắt đầu từ chính bản thân mình. Hoà bình được xây dựng trong tâm hồn và từ con tim, bằng cách nhổ bỏ tính kiêu ngạo và tâm lý báo thù, và cẩn trọng trong lời nói. Vì lời nói có thể gây thương tổn và thậm chí giết người, cũng như vũ khí.
Về vấn đề này, tôi tin rằng các tôn giáo và đối thoại liên tôn có thể đóng góp căn bản cho việc thúc đẩy một bầu khí hoà bình. Điều này tất nhiên đòi hỏi sự tôn trọng hoàn toàn đối với quyền tự do tôn giáo ở mọi quốc gia, vì kinh nghiệm tôn giáo là một chiều kích trọng yếu của nhân vị. Nếu không có điều này, sẽ rất khó, nếu không muốn nói là không thể, mang đến sự thanh luyện tâm hồn cần thiết nhằm xây dựng các mối tương quan hoà bình.
Nỗ lực này, trong đó tất cả chúng ta đều được kêu gọi tham gia, có thể giúp loại bỏ các nguyên nhân sâu xa của mọi xung đột và mọi khuynh hướng hủy diệt để chinh phục. Nó đòi hỏi thiện chí thực sự để tham gia vào đối thoại, được truyền cảm hứng từ ước muốn giao tiếp chứ không phải đối đầu. Do đó, cần phải thổi luồng sinh khí mới vào ngoại giao đa phương và các thể chế quốc tế được hình thành và thiết lập chủ yếu để giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra trong cộng đồng quốc tế. Dĩ nhiên, điều này cũng đòi phải có quyết tâm ngăn chặn việc sản xuất các công cụ huỷ diệt và chết chóc, vì như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh trong sứ điệp Urbi et Orbi cuối cùng của ngài: không thể có hoà bình “nếu không có việc giải trừ quân bị đích thực [và] yêu cầu rằng công cuộc quốc phòng của mỗi dân tộc không được biến thành một cuộc chạy đua vũ trang.” [1]
Từ thứ hai là công bình. Làm việc vì hòa bình đòi hỏi phải hành động một cách công bình. Như tôi đã nói, tôi chọn tước hiệu của mình trước hết là tưởng nhớ Đức Giáo hoàng Lêô XIII, vị giáo hoàng của Thông điệp xã hội vĩ đại đầu tiên Rerum Novarum. Trong thời khắc chuyển mình mang tính thời đại này, Tòa Thánh không thể không lên tiếng trước quá nhiều sự mất cân bằng và bất công dẫn đến, trong đó có cả những điều kiện lao động không xứng đáng, và xã hội ngày càng chia rẽ và xung đột. Mọi nỗ lực đều cần được thực hiện để vượt qua tình trạng bất bình đẳng toàn cầu — giữa sự xa hoa và cảnh khốn cùng — đang tạo ra những chia rẽ sâu sắc giữa các châu lục, các quốc gia, và thậm chí trong từng xã hội riêng lẻ.
Trách nhiệm của các nhà lãnh đạo chính phủ là phải làm việc để xây dựng các xã hội dân sự hòa hợp và hòa bình. Điều này có thể đạt được trước hết bằng cách đầu tư vào gia đình, được xây dựng trên sự kết hợp bền vững giữa một người nam và một người nữ, vốn là “một xã hội nhỏ nhưng đích thực, có trước mọi xã hội dân sự.” [2] Ngoài ra, không ai được miễn trừ nghĩa vụ phải phấn đấu để bảo đảm sự tôn trọng phẩm giá của mọi người, đặc biệt là những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất: từ thai nhi đến người già, từ bệnh nhân đến người thất nghiệp, dù là công dân hay di dân.
Câu chuyện của riêng tôi là câu chuyện của một công dân, hậu duệ của những người nhập cư, đã chọn di cư. Trong suốt hành trình cuộc sống, tất cả chúng ta đều có thể trải qua tình trạng khỏe mạnh hay đau yếu, có việc làm hay thất nghiệp, sống nơi quê hương hoặc ở một đất nước xa lạ, nhưng phẩm giá của chúng ta không bao giờ thay đổi: đó là phẩm giá của một thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương và mong muốn hiện hữu.
Từ thứ ba là sự thật. Không thể xây dựng những mối quan hệ hòa bình thực sự, ngay cả trong cộng đồng quốc tế, nếu không dựa trên sự thật. Khi lời nói mang những hàm ý mơ hồ và nước đôi, và thế giới ảo với cái nhìn méo mó về thực tại chiếm lĩnh cách không kiểm soát, thì thật khó để xây dựng những mối quan hệ đích thực, vì thiếu các tiền đề khách quan và thực tế của giao tiếp.
Về phần mình, Giáo Hội không bao giờ được miễn trừ trách nhiệm phải nói lên sự thật về con người và thế giới, bằng mọi cách cần thiết, ngay cả bằng lời lẽ thẳng thắn có thể gây hiểu lầm ban đầu. Tuy nhiên, sự thật không bao giờ được tách rời khỏi đức ái, vốn luôn khởi nguồn từ mối quan tâm đến đời sống và hạnh phúc của mỗi người. Hơn nữa, theo quan điểm Kitô giáo, sự thật không phải là sự khẳng định những nguyên tắc trừu tượng và tách biệt, nhưng là một cuộc gặp gỡ với chính con người của Đức Kitô, Đấng hằng sống giữa cộng đoàn các tín hữu. Do đó, sự thật không tạo ra chia rẽ, mà đúng hơn, cho phép chúng ta đối mặt với những thách đố của thời đại cách kiên quyết hơn, như vấn đề di dân, việc sử dụng trí tuệ nhân tạo một cách có đạo đức, và bảo vệ hành tinh Trái Đất thân yêu của chúng ta. Đây là những thách đố đòi hỏi sự cam kết và hợp tác của tất cả mọi người, bởi vì không ai có thể nghĩ đến việc đối mặt với chúng một mình.
Thưa quý vị Đại sứ,
Sứ vụ của tôi bắt đầu giữa lòng một Năm Thánh, được dành cách đặc biệt cho niềm hy vọng. Đây là thời điểm của hoán cải và canh tân, và trên hết là một cơ hội để từ bỏ những xung đột và bắt đầu một hành trình mới, với niềm vững tin rằng: bằng cách làm việc cùng nhau, mỗi người chúng ta, theo cảm thức và trách nhiệm riêng, có thể xây dựng một thế giới trong đó mọi người có thể sống một cuộc sống thực sự xứng hợp với con người, trong sự thật, công bình và hòa bình. Tôi hy vọng điều ấy sẽ trở thành hiện thực ở mọi nơi, bắt đầu từ những vùng đất đang chịu đau khổ nhất, như Ukraine và Đất Thánh.
Tôi xin cảm ơn quý vị về tất cả những công việc mà quý vị đang thực hiện để xây dựng những nhịp cầu giữa quốc gia của quý vị và Tòa Thánh, và tôi ban phép lành cho quý vị, cho gia đình và toàn dân tộc của quý vị. Chân thành cảm ơn quý vị! Cảm ơn vì tất cả những gì quý vị đang thực hiện!
____________________________________________
[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 17/5/2025]