Thứ Tư, 1 tháng 1, 2020

Đức Thánh Cha khẳng định với Giáo triều: ‘Chúng ta cần khởi động những tiến trình chứ không chiếm giữ những không gian’

Đức Thánh Cha khẳng định với Giáo triều: ‘Chúng ta cần khởi động những tiến trình chứ không chiếm giữ những không gian’
© Vatican Media

Đức Thánh Cha khẳng định với Giáo triều: ‘Chúng ta cần khởi động những tiến trình chứ không chiếm giữ những không gian’

‘Những gì chúng ta đang trải qua không đơn thuần là một kỷ nguyên của những thay đổi, nhưng là một sự thay đổi của kỷ nguyên’

21 tháng Mười Hai, 2019 18:46
Ngày 21 tháng Mười Hai năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxico đưa ra hai thông điệp rõ ràng cho Giáo triều Roma, khi ngài gặp gỡ các hồng y và bề trên tổng quyền trong Khán phòng Clementine của Điện Tông tòa Vatican nhân dịp chúc Giáng sinh.

Thông điệp thứ nhất là một lời chúc Giáng sinh của niềm vui và lòng tri ân.

Thông điệp thứ hai là việc cần phải thay đổi cách thức thực hiện các công cuộc trong Giáo hội, đặc biệt là Vatican.

“Chúng ta cần khởi động những tiến trình chứ không chỉ chiếm giữ những không gian,” Đức Thánh Cha nói với các nhà lãnh đạo Vatican. Và ngài trích dẫn lời của một trong các vị tân thánh, Thánh John Henry Newman, về tầm quan trọng của sự thay đổi trong đời sống Ki-tô giáo.

Đức Thánh Cha nói, “Theo Đức Newman thay đổi là hoán cải, nói cách khác là sự biến đổi bên trong. Đời sống Ki-tô giáo là một hành trình, là một cuộc lữ hành. Lịch sử của Kinh Thánh là một hành trình, luôn được đánh dấu bằng những khởi đầu mới.”

Đức Thánh Cha nhắc nhở các ngài về một số thay đổi trong giáo triều và những nỗ lực để xây dựng những mối quan hệ tốt hơn với các giáo hội và tôn giáo khác. Ngài nói điều quan trọng là không tập trung vào các bộ phận của tổ chức nhưng là tập trung vào việc rao giảng phúc âm. Ngài trích lời của Thánh Phaolo VI: “Rao giảng phúc âm quả thật là ân sủng và là ơn gọi thích đáng cho Giáo hội, là giá trị sâu thẳm nhất của Giáo hội. Giáo hội tồn tại để rao giảng.”

Đức Thánh Cha nói, “Những gì chúng ta đang trải qua không đơn thuần là một kỷ nguyên của những thay đổi, nhưng là một sự thay đổi của kỷ nguyên. Chúng ta thấy mình đang sống ở thời điểm khi sự thay đổi không còn mang tuyến tính nữa, nhưng mang tính thời đại. Thưa anh chị em, Christendom (tạm dịch: kỷ nguyên Ki-tô giáo) không còn tồn tại nữa! Ngày nay chúng ta không còn là những người tạo ra văn hóa, chúng ta cũng không còn đứng ở vị trí tiền tuyến hoặc là những người được lắng nghe nhiều nhất.

“Chúng ta cần một sự thay đổi trong nếp suy nghĩ về mục vụ, điều này không có nghĩa là tiến tới một sự chăm sóc mục vụ mang tính tương đối. Chúng ta không còn sống trong một thế giới thuộc Ki-tô giáo nữa, vì đức tin – đặc biệt là ở Châu Âu, nhưng cũng trên diện rộng lớn của Tây phương – không còn là một giả định rõ ràng của đời sống xã hội; thật vậy, đức tin thường bị chối bỏ, bị nhạo báng, bị gạt ra bên lề và bị chế giễu.”

Đức Thánh Cha đề nghị rằng những thay đổi lớn lao này về văn hóa đòi hỏi phải có sự thay đổi và trả lời mạnh mẽ từ Giáo hội. Ngài khen ngợi những cải tổ trong Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Rao giảng Phúc âm cho các Dân tộc, Bộ Truyền thông và Bộ Thúc đẩy sự Phát triển Con người Toàn diện.

Đức Phanxico nói, “Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đa phương tiện và điều này ảnh hưởng đến cách chúng ta tiếp nhận, thiết kế và cung cấp những phòng truyền thông. Tất cả điều này đòi hỏi không chỉ một sự thay đổi về văn hóa mà còn là sự chuyển đổi về thể chế và cá nhân, để chuyển từ cách hoạt động theo các đơn vị độc lập – trong trường hợp tốt nhất điều này cũng chỉ có một mức độ phối hợp nhất định – sang cách làm việc trong sự phối hợp, trong cách liên kết với nhau.”

***

Huấn từ của Đức Thánh Cha

“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14)

Anh chị em thân mến,

Tôi xin gửi đến tất cả anh chị em những tình cảm thân ái. Tôi chân thành cảm ơn Đức Hồng y Angelo Sodano vì những lời chia sẻ rất đẹp của ngài, và tôi xin cảm ơn ngài một cách đặc biệt, cùng nhân danh các thành viên của Hồng y đoàn, vì sự phục vụ vô cùng giá trị của ngài suốt thời gian dài trong cương vị Hồng y Niên trưởng, trong tinh thần giúp đỡ, cống hiến và hiệu quả, và với kỹ năng tuyệt vời trong việc tổ chức và phối hợp. Theo phong cách “la rassa nostrana”, theo cách nói của họa sĩ Nino Costa người Piedmont. Bây giờ các Giám mục Hồng y phải bầu chọn một vị tân hồng y niên trưởng. Tôi hy vọng các ngài sẽ chọn được một vị có thể thực thi trách vụ quan trọng này toàn thời gian. Cảm ơn anh chị em.

Tôi xin gửi những lời chúc tốt đẹp nhất cho một mùa Giáng sinh thánh và tràn đầy niềm vui đến từng anh chị em ở đây, đến các đồng nghiệp của anh chị em và tất cả các vị phục vụ trong Giáo triều, cả các vị Đại diện Giáo hoàng và ban nhân viên của họ. Và tôi vô cùng trân trọng sự cống hiến mà anh chị em mang đến mỗi ngày cho sự phục vụ Giáo hội. Xin cảm ơn anh chị em rất nhiều.

Năm nay một lần nữa Chúa lại tặng ban cho chúng ta cơ hội họp mặt trong khoảnh khắc của tình thân hữu này để củng cố tình huynh đệ giữa chúng ta đặt nền tảng trong sự chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ trong ngày Giáng sinh. Một nhà thần nghiệm đương thời đã viết rằng “sự hạ sinh của Đức Ki-tô là bằng chứng vĩ đại nhất và hùng hồn nhất cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người biết dường nào. Người yêu thương con người bằng một tình yêu riêng tư. Đó là lý do tại sao Người lại mặc lấy xác phàm, hiệp nhất nó với chính Người và chọn nó làm của riêng. Chính sự giáng sinh của Đức Ki-tô là một ‘giao ước của tình yêu,’ được đóng ấn muôn đời giữa Thiên Chúa và con người.”[1] Như Thánh Clemente thành Alexandria viết, “Đức Ki-tô xuống thế và mặc lấy nhân tính của chúng ta, và từ đó sẵn sàng chia sẻ những đau khổ của con người: để sau khi đã trải nghiệm sự mỏng giòn của những con người Ngài yêu thương, Ngài làm cho chúng ta có thể trải nghiệm được quyền năng lớn lao của Người.”.[2]

Trong ánh sáng của lòng từ bi và tình yêu vô biên này, việc chúng ta trao cho nhau những lời chúc Giáng sinh lại là một cơ hội khác để đáp lại điều răn mới của Đức Ki-tô: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13:34-35). Chúa Giê-su không yêu cầu chúng ta yêu mến Ngài để đáp lại tình yêu của Ngài cho chúng ta; nhưng Ngài yêu cầu chúng ta yêu thương nhau như Ngài đã làm. Nói cách khác là Ngài đòi hỏi chúng ta trở nên như Ngài, vì chính Ngài đã trở nên như chúng ta. Thánh John Henry Newman đã cầu nguyện rằng: “Ước mong rằng mỗi Giáng sinh, như đúng ý nghĩa của nó, làm cho chúng ta mỗi ngày mỗi trở nên giống Ngài hơn, Ngài là Đấng giờ đây trở thành một trẻ thơ bé nhỏ vì ích lợi của chúng ta, trở nên đơn sơ hơn, khiêm nhường hơn, thánh thiện hơn, yêu thương hơn, nhẫn chịu hơn, hạnh phúc hơn, và tràn đầy Thiên Chúa hơn”.[3] Và rồi ngài tiếp tục nói: “[Giáng sinh] là một thời gian của sự thơ ngây, sự tinh tuyền, và sự hiền lành, dịu dàng, và sự sung mãn, và bình an”[4].

Những sự đề cập này của Đức Newman gợi lại những lời nói nổi tiếng của ngài trong quyển Tiểu luận về sự Phát triển của Giáo lý Ki-tô giáo, một cuốn sách trùng hợp về mặt thời gian và tính thiêng liêng khi ngài trở lại Giáo hội Công giáo: “Trên trần gian này sống là để thay đổi, và để nên hoàn thiện là phải thường xuyên thay đổi”.[5] Dĩ nhiên, ngài không nói đến việc thay đổi vì phải thay đổi, hoặc chạy theo mọi trào lưu mới, nhưng là nói đến sự vững tin rằng sự phát triển là một phần tất yếu của đời sống con người, ngay cả với người tín hữu chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn duy trì là trung tâm bất biến của mọi sự.[6]

Với Đức Newman thay đổi là hoán cải, nói cách khác là sự biến đổi bên trong.[7] Đời sống Ki-tô giáo là một hành trình, là một cuộc lữ hành. Lịch sử của Kinh Thánh là một hành trình, luôn được đánh dấu bằng những khởi đầu mới. Với A-bra-ham cũng như vậy. Với những người Ga-li-lê hai ngàn năm trước lên đường theo bước chân của Chúa Giê-su cũng vậy: “Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (Lc 5:11). Từ thời điểm đó trở đi, lịch sử của Dân Chúa – lịch sử của Giáo hội – luôn được đánh dấu bằng những khởi đầu mới, những cuộc di chuyển, và những thay đổi. Hiển nhiên, hành trình này không mang ý nghĩa về địa lý, nhưng trên hết là mang tính biểu trưng: đó là một lời hiệu triệu để khám phá sự biến chuyển của tâm hồn, thật là nghịch lý khi phải lên đường để được ở lại, phải thay đổi để trở nên trung thành.[8]

Tất cả điều này có tầm quan trọng đặc biệt trong thời đại chúng ta, vì những gì chúng ta đang trải qua không đơn thuần là một kỷ nguyên của những thay đổi, nhưng là một sự thay đổi của kỷ nguyên. Chúng ta thấy mình đang sống ở thời điểm khi sự thay đổi không còn mang tuyến tính nữa, nhưng mang tính thời đại. Nó đòi hỏi những quyết định để nhanh chóng biến đổi lối sống của chúng ta, những mối quan hệ với nhau, những cách giao tiếp và suy nghĩ, thay đổi những cách thức mà các thế hệ gắn kết với nhau và cách thức chúng ta hiểu và trải nghiệm đức tin và khoa học. Thông thường chúng ta chỉ đạt được sự thay đổi đơn giản giống như việc việc khoác lên mình những bộ quần áo mới, nhưng vẫn giữ nguyên vẹn như chúng ta trước đây. Tôi nghĩ đến một cách diễn đạt rất khó hiểu trong một quyển tiểu thuyết nổi tiếng của Ý: “Nếu chúng ta muốn mọi sự vẫn giữ nguyên, thì mọi sự phải thay đổi” (The Leopard by Giuseppe Tomasi di Lampedusa).

Cách tiếp cận tốt lành hơn là hãy cho phép bản thân bị thách thức bởi những câu hỏi của thời đại và tiếp cận chúng bằng sự phân định, parrhesía, và hypomoné. Nhìn dưới ánh sáng này, sự thay đổi diễn ra trên một khía cạnh rất khác: từ một điều gì đó thuộc ngoài lề, là thứ yếu hay thuần túy thuộc bên ngoài, nó sẽ trở thành một điều thuộc con người hơn và Ki-tô giáo hơn. Sự thay đổi vẫn sẽ diễn ra, nhưng khởi đầu đi từ con người là trung tâm điểm của nó: một sự hoán cải thuộc nhân loại.[9]

Chúng ta cần khởi động những tiến trình chứ không chỉ chiếm giữ những không gian: “Thiên Chúa đã tỏ lộ Người trong sự mạc khải của lịch sử, trong lịch sử. Thời gian bắt đầu những tiến trình và không gian kết tinh chúng. Thiên Chúa trong lịch sử, trong những tiến trình. Chúng ta không được chú trọng vào việc chiếm giữ những không gian nơi quyền lực được thi hành, nhưng là khởi động những tiến trình lịch sử lâu dài. Chúng ta phải bắt đầu những tiến trình hơn là chiếm giữ những vị trí. Thiên Chúa tỏ lộ Ngài trong thời gian và hiện diện trong các tiến trình của lịch sử. Điều này trao sự ưu tiên cho những hoạt động tạo sinh ra những tiến trình lịch sử mới. Và nó đòi hỏi sự kiên nhẫn, chờ đợi”.[10] Theo ý nghĩa này, chúng ta được thúc giục phải đọc được những dấu chỉ của thời đại bằng con mắt đức tin, để hướng đi của sự thay đổi này sẽ “đặt ra những câu hỏi mới và cũ mà chúng ta phải đối mặt”.[11]

Khi thảo luận về sự thay đổi được đặt nền móng trên sự trung thành với depositum fidei và truyền thống, hôm nay tôi muốn nói thêm một lần nữa về việc thi hành những cải tổ trong Giáo triều Roma và tái khẳng định rằng sự cải tổ này chưa bao giờ được coi là hành động như thể chưa có gì xảy ra trước đó. Trái lại, nỗ lực thực hiện là để làm nổi bật những yếu tố tốt đẹp bắt nguồn từ lịch sử phức tạp của Giáo triều. Cần phải tôn trọng lịch sử để xây dựng một tương lai có nguồn gốc vững chắc và từ đó có thể chứng minh tính hiệu quả. Gắn kết với ký ức không giống như bấu víu vào sự tự bảo toàn, nhưng thay vào đó là khơi gợi cho cuộc sống và sức sống về một tiến trình đang diễn ra. Ký ức không phải là tĩnh, nhưng năng động. Bởi bản chất của nó, nó hàm ý chuyển động. Truyền thống cũng không phải là tĩnh; nó cũng rất năng động, như con người vĩ đại đó [Gustav Mahler] đã từng nói: truyền thống là sự bảo đảm cho tương lai chứ không phải là thùng chứa tro cốt.

Anh chị em thân mến,

Trong những lần gặp gỡ nhân dịp Giáng sinh trước đây, tôi đã đề cập đến các tiêu chuẩn truyền cảm hứng cho công cuộc cải tổ này. Tôi cũng đã giải thích rằng một số thay đổi đã được áp dụng, cho dù là triệt để hoặc ad experimentum (tạm dịch: thử nghiệm).[12] Năm 2017, tôi đã làm nổi bật một số yếu tố mới trong tổ chức của Giáo triều. Tôi đưa ra đây làm ví dụ: Phân bộ Thứ Ba của Phủ Quốc vụ khanh hiện đang hoạt động rất tốt; mối quan hệ giữa Giáo triều Roma và những Giáo hội địa phương, liên quan đến việc thực hiện theo truyền thống xa xưa những chuyến Viếng thăm ad limina Apostolorum; và cấu trúc của một số Bộ, đặc biệt là Bộ các Giáo hội Đông phương và các Bộ Đối thoại Liên tôn và Đại kết, đặc biệt với người Do thái.

Trong buổi họp hôm nay, tôi muốn phản ánh về một số Bộ khác, bắt đầu từ trung tâm của công cuộc cải tổ, tức là với trách vụ hàng đầu và quan trọng nhất của Giáo hội, đó là rao giảng Tin mừng. Như Thánh Phaolo VI nói: “Quả thật, rao giảng Tin mừng là ân sủng và ơn gọi riêng biệt của Giáo hội, là giá trị sâu thẳm nhất của Giáo hội. Giáo hội tồn tại để rao giảng”.[13] Ngày nay cũng vậy, Evangelii Nuntiandi vẫn là tài liệu mục vụ quan trọng nhất của thời kỳ hậu công đồng. Thật vậy, mục đích của sự cải tổ hiện tại là để “những phong tục của Giáo hội, những cách thực hiện mọi việc, thời gian và những lịch trình, ngôn ngữ và các cơ cấu có thể được tập trung thích đáng cho việc rao giảng Tin mừng cho thế giới hôm nay hơn là để tự bảo toàn cho mình. Sự đổi mới những cấu trúc do đòi hỏi của việc thay đổi mục vụ chỉ có thể được hiểu dưới ánh sáng này: như là một phần của nỗ lực làm cho chúng hướng đến sứ vụ nhiều hơn” (Tông huấn Evangelii Gaudium, 27). Do đó, được truyền cảm hứng bởi huấn quyền của các Đấng Kế vị Thánh Phê-rô từ thời điểm Công đồng Vatican II đến hiện tại, tôi quyết định chọn tên Praedicate Evangelium cho Tông hiến mới được soạn cho việc cải tổ Giáo triều Roma. Một cái nhìn truyền giáo.

Vì lý do này, hôm nay tôi muốn trình bày về một số Bộ thuộc Giáo triều Roma với tên gọi liên quan trực tiếp đến điều này: Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Rao giảng Phúc âm cho các Dân tộc. Tôi cũng nghĩ đến Bộ Truyền thông và Bộ Thúc đẩy sự Phát triển Con người Toàn diện.

Hai Bộ đầu tiên được đề cập được thành lập trong một thời kỳ khi việc phân biệt giữa hai thực tại riêng biệt còn dễ dàng: một thế giới Ki-tô giáo và một thế giới chưa được rao giảng phúc âm. Tình hình đó ngày nay không còn tồn tại. Những người chưa đón nhận thông điệp của Tin mừng không sống riêng trong các châu lục ngoài Tây phương; họ sống ở khắp nơi, đặc biệt trong những vùng tập trung thuộc đô thị rộng lớn. Trong những thành phố lớn, chúng ta cần “những bản đồ” khác, những mô hình khác, những mô hình có thể giúp chúng ta thay đổi lại những lối suy nghĩ và thái độ của chúng ta. Thưa anh chị em. Christendom (tạm dịch: kỷ nguyên Ki-tô giáo) không còn tồn tại nữa! Ngày nay chúng ta không còn là những người tạo ra văn hóa, chúng ta cũng không còn đứng ở vị trí tiền tuyến hoặc là những người được lắng nghe nhiều nhất.[14] Chúng ta cần một sự thay đổi trong nếp suy nghĩ về mục vụ, điều này không có nghĩa là tiến tới việc chăm sóc mục vụ mang tính tương đối. Chúng ta không còn sống trong một thế giới thuộc Ki-tô giáo nữa, vì đức tin – đặc biệt là ở Châu Âu, nhưng cũng trên diện rộng lớn của Tây phương – không còn là một giả định rõ ràng của đời sống xã hội; thật vậy, đức tin thường bị chối bỏ, bị nhạo báng, bị gạt ra bên lề và bị chế giễu.

Điểm này đã được Đức Benedict XVI làm sáng tỏ khi ngài công bố năm 2012 là Năm Đức Tin: “Trong khi trước đây người ta có thể nhận ra một hệ thống văn hóa riêng biệt, được chấp nhận rộng rãi vì sự hấp dẫn đối với nội dung của đức tin và những giá trị được truyền cảm hứng bởi nó, ngày nay điều đó dường như không còn như vậy trong nhiều khu vực rộng lớn của xã hội, vì một sự khủng hoảng đức tin sâu sắc đã ảnh hưởng tới nhiều người”.[15] Điều này cũng dẫn đến việc thành lập Hội đồng Tòa thánh về Tân Phúc âm hóa năm 2010 để thúc đẩy “một công cuộc tân phúc âm hóa đổi mới trong những quốc gia nơi sự công bố đầu tiên về đức tin đã từng vang dội, và là nơi các Giáo hội với một nền tảng cổ kính tồn tại nhưng đang trải qua tình trạng tục hóa ngày càng tăng trong xã hội, và một kiểu ‘thiên thực ý thức về Thiên Chúa,’ điều đó dẫn đến một thách đố phải tìm ra những phương cách thích hợp để một lần nữa giới thiệu sự thật muôn thuở của Tin mừng của Đức Ki-tô”.[16] Có những lúc tôi đã nói về điều này với một số người trong anh chị em … Tôi nghĩ đến năm quốc gia cung cấp cho thế giới rất nhiều nhà truyền giáo – tôi đã nói với anh chị em đó là những quốc gia nào – và ngày nay đang thiếu nguồn ơn gọi để tiến bước. Đó là thế giới hôm nay.

Việc thực hiện công cuộc thay đổi thuộc kỷ nguyên đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về giá trị đức tin của chúng ta không đột ngột xuất hiện.[17] Nó tạo ra thuật ngữ “tân phúc âm hóa,” sau đó được Thánh Gioan Phaolo II tiếp nối, ngài viết trong Tông thư Redemptoris Missio: “Ngày nay Giáo hội phải đối mặt với những thách thức khác và tiến đến những biên giới mới, cả trong sứ mạng ban đầu ad gentes (đến với muôn dân) và trong công cuộc tân phúc âm hóa của các dân tộc đã được nghe công bố về Đức Ki-tô” (s. 30). Điều rất cần thiết là một công cuộc tân phúc âm hóa hoặc một sự tái rao giảng phúc âm (x. s. 33). Tất cả điều này đòi hỏi phải tập trung vào những thay đổi và chuyển đổi, cả bên trong những Bộ vừa được nói đến và trong Giáo triều nói chung.[18]

Tôi cũng muốn nói thêm về Bộ Truyền thông vừa được thiết lập gần đây. Cả ở đây chúng ta cũng đang nói về sự thay đổi mang tính kỷ nguyên, đến mức “đại bộ phận nhân loại bị chìm ngập trong [thế giới số] với mức độ thời gian thường xuyên và liên tục. Nó không còn đơn thuần là việc ‘sử dụng’ những công cụ giao tiếp, nhưng sống trong một văn hóa được kỹ thuật số hóa đã tạo ra một ảnh hưởng sâu rộng đến ý nghĩ về thời gian và không gian, đến cách hiểu về bản thân, cách hiểu của chúng ta về người khác và thế giới, và khả năng chúng ta giao tiếp, học hỏi, tiếp nhận thông tin và đi vào những mối quan hệ với người khác. Sự tiếp cận với thực tế ưu tiên cho hình ảnh hơn là lắng nghe và đọc đã ảnh hưởng đến cách con người học tập và ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng phê phán của họ” (Tông huấn Christus Vivit, 86).

Bộ Truyền thông được trao trách nhiệm hợp nhất thành một cơ quan mới từ chín ban khác nhau và với những trách vụ khác nhau, mà trước đó hoạt động trong lĩnh vực truyền thông. Các ban đó là Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Văn phòng Báo chí Tòa Thánh, Nhà in Vatican, Nhà Xuất bản Vatican, L’Osservatore Romano, Đài phát thanh Vatican, Trung tâm Truyền hình Vatican, Phòng Internet Vatican, và Phòng Nhiếp ảnh. Như tôi đã nói, việc hợp nhất này không chỉ ngụ ý để tạo sự phối hợp tốt hơn, nhưng còn để tái cấu trúc những thành phần khác nhau để đưa ra một sản phẩm tốt hơn và đi theo một hướng chung.

Văn hóa truyền thông mới, trong sự đa dạng và phức tạp, đòi hỏi một sự hiện diện thích hợp của Tòa thánh trong lĩnh vực truyền thông. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đa phương tiện và điều này ảnh hưởng đến cách chúng ta tiếp nhận, thiết kế và cung cấp những phòng truyền thông. Tất cả điều này đòi hỏi không chỉ một sự thay đổi về văn hóa mà còn là sự chuyển đổi về thể chế và cá nhân, để chuyển từ cách hoạt động theo các đơn vị độc lập – trong trường hợp tốt nhất điều này cũng chỉ có một mức độ phối hợp nhất định – sang cách làm việc trong sự phối hợp, trong cách liên kết với nhau.

Anh chị em thân mến,

Hầu hết những gì tôi nói cũng rất phù hợp với Bộ Thúc đẩy sự Phát triển Con người Toàn diện. Bộ này cũng được thành lập gần đây để đáp ứng cho những thay đổi đã và đang diễn ra trên mức độ toàn cầu và là sự hợp nhất của bốn Hội đồng Giáo hoàng trước đây: đó là Công lý và Hòa bình, Cor Unum (Đồng tâm), và chăm sóc mục vụ cho Di dân và các Nhân viên chăm sóc sức khỏe. Sự thống nhất toàn bộ các trách vụ được trao phó cho Bộ này được tóm tắt trong những lời nói đầu của Tự sắc Humanam Progressionem: “Trong toàn bộ hữu thể và hoạt động của mình, Giáo hội được kêu gọi để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nhân vị theo ánh sáng của Tin mừng. Sự phát triển này diễn ra qua việc dự phần vào những tài sản vô giá của công bằng, hòa bình và chăm sóc tạo vật.” Nó diễn ra bằng cách phục vụ những người dễ bị tổn thương nhất và người bị gạt ra bên lề, đặc biệt là những người bị buộc phải di cư, họ là những người trong hiện tại đại diện cho một tiếng kêu giữa nơi hoang vu của nhân loại. Do đó, Giáo hội được kêu gọi phải nhắc nhở mọi người rằng đó không chỉ đơn giản là vấn đề thuộc xã hội hay di cư, nhưng là vấn đề của nhân vị, của những người anh chị em ngày nay trở thành một biểu tượng cho tất cả những người bị gạt bỏ bởi xã hội toàn cầu hóa. Giáo hội được kêu gọi phải làm chứng rằng với Thiên Chúa không một ai là “người lạ” hay một “người bị loại bỏ.” Giáo hội được kêu gọi phải đánh thức những lương tâm đang ngủ say trong sự thờ ơ trước thực tại của Địa Trung hải, là nơi đã và đang trở thành nghĩa trang cho nhiều, quá nhiều người.

Tôi muốn nhắc lại rằng điều vô cùng quan trọng là sự phát triển đó phải toàn diện. Thánh Phaolo VI nhận xét rằng “để trở nên đích thực, sự phát triển phải là toàn diện; phải thúc đẩy sự phát triển của mọi người và tất cả con người” (Thông điệp Populorum Progressio, 14). Tóm lại, trên nền tảng truyền thống của đức tin và lời kêu gọi của giáo huấn Công đồng Vatican II trong những thập niên gần đây, Giáo hội nhất quán khẳng định sự cao cả của ơn gọi của tất cả mọi con người, được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh của Người để tạo thành một gia đình duy nhất. Đồng thời, Giáo hội phấn đấu để ôm lấy nhân loại trong mọi chiều kích của nó.

Chính khía cạnh toàn diện này mà ngày nay khiến chúng ta nhận ra rằng nhân tính chung hiệp nhất chúng ta thành con cái của một Chúa Cha. “Trong toàn bộ hữu thể và hoạt động của mình, Giáo hội được kêu gọi để thúc đẩy sự phát triển toàn diện của nhân vị theo ánh sáng của Tin mừng (Tự sắc Humanam Progressionem). Tin mừng luôn luôn đưa Giáo hội trở lại với luận lý mầu nhiệm của sự nhập thể, trở lại với Đức Ki-tô là Đấng đã mang lấy lịch sử của chúng ta, lịch sử của mỗi người chúng ta. Đó là thông điệp của Giáng sinh. Do đó, nhân loại là chìa khóa để làm sáng tỏ cho sự cải tổ. Nhân loại kêu gọi và thách đố chúng ta; nói tóm lại, nó thúc bách chúng ta phải tiến bước và không sợ thay đổi.

Chúng ta đừng quên rằng Trẻ thơ nằm trong máng cỏ mang khuôn mặt của những anh chị em thiếu thốn nhất của chúng ta, khuôn mặt của người nghèo là những người “được đặc ân trong mầu nhiệm này; họ thường là những người đầu tiên nhận biết sự hiện diện của Chúa ở giữa chúng ta” (Tông thư Admirabile Signum, 6).

Anh chị em thân mến,

Như vậy chúng ta đang nói về những thách đố lớn và những sự cân bằng cần thiết thường khó mà đạt được, vì lý do đơn giản rằng, nằm giữa một quá khứ vinh quang và một sự thay đổi, tương lai sáng tạo, chúng ta đang sống trong hiện tại. Ở đây có những con người rất cần có thời gian để phát triển; có những hoàn cảnh lịch sử phải đối mặt từng ngày vì trong tiến trình cải tổ thế giới và lịch sử không dừng lại; có những câu hỏi thuộc pháp lý và thuộc thể chế cần phải được giải quyết từ từ, không có những công thức ảo thuật hay những lối đi tắt.

Cuối cùng là chiều kích thời gian và sự sai lầm của con người, là những điều phải được đưa vào cân nhắc. Đây là một phần trong lịch sử của mỗi người chúng ta. Không cẩn thận cân nhắc đến chúng tức là tiến bước thực hiện những công việc mà không nhìn lại lịch sử con người. Liên quan đến tiến trình lịch sử khó khăn này luôn luôn có cám dỗ quay trở lại với quá khứ (cũng bằng cách áp dụng những công thức mới), vì nó bảo đảm hơn, quen thuộc hơn, và chắc chắn là ít có mâu thuẫn hơn. Đây cũng là một phần của tiến trình và là nguy cơ cho việc thi hành những thay đổi quan trọng.[19]

Ở đây, cần phải có sự thận trọng cảnh giác với cám dỗ trở nên cứng nhắc. Một sự cứng nhắc xuất phát từ sự sợ thay đổi, và cuối cùng nó dựng lên những hàng rào và chướng ngại trên mặt bằng ích chung, biến nó thành một vùng cài những trái mìn là sự khó hiểu và căm hờn. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng đằng sau mọi hình thức cứng nhắc đều có sự mất cân bằng. Sự cứng nhắc và mất cân bằng nuôi dưỡng nhau trong một vòng xoáy xấu xa. Và ngày nay cám dỗ của tính cứng nhắc trở nên rất thật.

Anh chị em thân mến,

Giáo triều Roma không phải là một cơ quan tách rời khỏi thực tế, mặc dù nguy cơ này luôn luôn hiện hữu. Hơn thế, nó phải suy tư và trải nghiệm trong bối cảnh hành trình của con người hôm nay, [...] Giáo triều Roma không phải là một cung điện hay là một tủ quần áo treo đầy trang phục để thay đổi. Giáo triều Roma là một cơ quan sống động, và còn hơn thế nó phải sống Tin mừng với tính nguyên tuyền của nó.

Đức Hồng y Martini, trong lần phỏng vấn cuối cùng của ngài, chỉ ít ngày trước khi ngài qua đời, đã nói một câu khiến chúng ta phải suy nghĩ: “Giáo hội đi sau thời đại hai trăm năm. Tại sao Giáo hội lại không thấy giật mình vậy? Sợ hãi, thay vì can đảm? Nhưng đức tin là nền tảng của Giáo hội. Đức tin, sự vững tin, lòng can đảm … Chỉ có tình yêu mới chế ngự được sự mệt mỏi”.[20]

Giáng sinh là Lễ tình yêu của Thiên Chúa cho chúng ta. Tình yêu của Chúa truyền cảm hứng, hướng dẫn và sửa chữa sự thay đổi, và vượt qua nỗi sợ hãi của con người dám bỏ “sự an toàn” lại đằng sau để một lần nữa ôm lấy “mầu nhiệm.”

Chúc Giáng sinh hạnh phúc đến tất cả mọi người!

Trong việc chuẩn bị cho Giáng sinh, chúng ta đã lắng nghe bài giảng của Thánh Mẫu Thiên Chúa. Chúng ta hãy hướng về Mẹ trước khi ban phép lành.

[Kinh Kính mừng và phép lành].



Bây giờ tôi muốn tặng cho anh chị em món quà nhỏ là hai quyển sách. Quyển thứ nhất là “tài liệu” mà tôi đã muốn công bố vào Tháng Truyền giáo Ngoại thường [Tháng Mười năm 2019], và đã thực hiện dưới hình thức một cuộc phỏng vấn; Senza di Lui non possiamo fare nulla – Không có Người chúng ta không thể làm được gì. Tôi được truyền cảm hứng bởi một câu nói, tôi không biết là của ai, rằng khi các nhà truyền giáo đến một địa điểm thì Chúa Thánh Thần đã ở đó chờ đợi họ. Đó là nguồn cảm hứng cho tài liệu này. Món quà thứ hai là bài giảng tĩnh tâm với các linh mục gần đây của Cha Luigi Maria Epicoco, Qualcuno a cui guardare – Người chúng ta mong chờ. Tôi chân thành gửi tặng anh chị em để chúng có thể được sử dụng cho toàn thể cộng đoàn. Cảm ơn anh chị em!

__________________

[1] MATTA EL MESKEEN, L’Umanità di Dio, Qiqajon-Bose, Magnano 2015, 170-171.

[2] Quis dives salvetur 37, 1-6.

[3] Sermon 7, “The Mystery of Godliness”, Parochial and Plain Sermons, V.

[4] Ibid.

[5] Chapter 1, Section 1, Part 7.

[6] In one of his prayers, Newman writes: “There is nothing stable but Thou, O my God! And Thou art the centre and life of all who change, who trust Thee as their Father, who look to Thee, and who are content to put themselves into Thy hands. I know, O my God, I must change, if I am to see Thy face!” (Meditations and Devotions, XI, “God Alone Unchangeable”).

[7] Newman describes it like this: “I was not conscious to myself, on my conversion, of any change, intellectual or moral, wrought in my mind… it was like coming into port after a rough sea; and my happiness on that score remains to this day without interruption” (Apologia Pro Vita Sua, 1865, Chapter 5, 238. Cf. J. HONORÉ, Gli aforismi di Newman, LEV, 2010, 167).

[8] Cf. J. M. BERGOGLIO, “Lenten Message to Priests and Religious”, 21 February 2007, in In Your Eyes I See my Words: Homilies and Speeches from Buenos Aires, Volume 2: 2005-2008, Fordham University Press, 2020.

[9] Cf. Apostolic Constitution Veritatis Gaudium (27 December 2017), 3: “In a word, this calls for changing the models of global development and redefining our notion of progress. Yet the problem is that we still lack the culture necessary to confront this crisis. We lack leadership capable of striking out on new paths”.

[10] Interview given to Father Antonio Spadaro, Civiltà Cattolica, 19 September 2013, p.468.

[11] Schreiben an das Pilgernde Volk Gottes in Deutschland, 29 June 2019.

[12] Cf. Address to the Curia, 22 December 2016.

[13] Apostolic Exhortation Evangelii Nuntiandi (8 December 1975), 14. Saint John Paul II wrote that missionary evangelization “is the primary service which the Church can render to every individual and to all humanity in the modern world, a world which has experienced marvellous achievements but which seems to have lost its sense of ultimate realities and of existence itself” (Encyclical Letter Redemptoris Missio, 7 December 1990, 2).

[14] Cf. Address to Participants at the International Pastoral Congress on the World’s Big Cities, Consistory Hall, 27 November 2014.

[15] Motu Proprio Porta Fidei, 2.

[16] Benedict XVI, Homily, 28 June 2010; cf. Motu Proprio Ubicumque et Semper, 17 October 2010.

[17] An epochal change was noted in France by Cardinal Suhard (we can think of his pastoral letter Essor ou déclin de l’Église, 1947) and by the then-Archbishop of Milan, Giovanni Battista Montini. The latter also questioned whether Italy was still a Catholic country (cf. Opening Address at the VIII National Week of Pastoral Updating, 22 September 1958, in Discorsi e Scritti milanesi 1954-1963, vol. II, Brescia-Roma 1997, 2328).

[18] Saint Paul VI, some fifty years ago, when presenting the new Roman Missal to the faithful, recalled the correspondence between the law of prayer (lex orandi) and the law of faith (lex credendi), and described the Missal as “a demonstration of fidelity and vitality”. He concluded by saying: “So let us not speak of a ‘new Mass’, but rather of ‘a new age in the life of the Church’” (General Audience, 19 November 1969). Analogously, we might also say in this case: not a new Roman Curia, but rather a new age.

[19] Evangelii Gaudium states the rule: “to give priority to actions which generate new processes in society and engage other persons and groups who can develop them to the point where they bear fruit in significant historical events. Without anxiety, but with clear convictions and tenacity” (No. 223).

[20] Interview with Georg Sporschill, S.J. and Federica Radice Fossati Confalonieri: Corriere della Sera, 1 September 2012.

© Libreria Editrice Vatican



[Nguồn: zenit]

[Chuyển Việt ngữ: TRI KHOAN 25/12/2019]


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét