Chủ Nhật, 9 tháng 4, 2017

DIỄN ĐÀN: Chứng nhân của sự bách hại Ki-tô hữu ở Bắc Hàn

DIỄN ĐÀN: Chứng nhân của sự bách hại Ki-tô hữu ở Bắc Hàn

Cha Philippe Blot, thuộc dòng các linh mục Paris cam kết phục vụ trong những sứ vụ nước ngoài, nói về những chuyến thăm của cha đến Bắc Hàn, mang lấy nhiều sự nguy hiểm đáng sợ.
7 tháng Tư, 2017
DIỄN ĐÀN: Chứng nhân của sự bách hại Ki-tô hữu ở Bắc Hàn
ACN Photo
Cha Philippe Blot, thuộc dòng các linh mục Paris cam kết phục vụ những sứ vụ nước ngoài, đã đến thăm Bắc Hàn nhiều lần, mang lấy nhiều nguy hiểm đáng sợ. Tháng trước cha nói tại Vương cung Thánh Đường Đức Bà Paris (Notre Dame), trong “Đêm của những chứng nhân,” một sáng kiến thường niên của Văn phòng Cứu trợ Giáo hội Thiếu thốn Pháp, một tổ chức Bác ái Công giáo.
Bài viết Cha Philippe Blot
***
Mới đây, tôi có đến Bắc Hàn và, mặc dù bị sự theo dõi liên tục rất chặt của công an, tôi vẫn có thể kiểm tra sự thật của những báo cáo khác nhau và nghe nhiều câu chuyện chứng nhân từ những người tị nạn Bắc Hàn.
Trước hết trong các bệnh viện: tình hình đáng nguy hiểm — không có kháng sinh, không trang phục, thậm chí không có xà phòng. Cho các bạn một ví dụ điển hình, thay vì những chai huyết thanh để truyền máu, họ dùng những chai bia đổ đầy nước đường đun sôi!
Tôi có thể thăm một vài trường học. Chúng minh họa sự suy dinh dưỡng kinh niên của toàn thể dân tộc — đương nhiên ngoại trừ giới công chức của chính phủ! Chúng ta cần phải biết rằng một đứa trẻ người Bắc Hàn, 7 tuổi, chiều cao trung bình thấp hơn 8 inch (khoảng 20cm) và trọng lượng khoảng 22 pound (khoảng 10kg) nhẹ hơn một đứa trẻ ở Nam Hàn. Những người tị nạn [tôi đã gặp họ ở Nam Hàn] đều đồng loạt kể cho tôi rằng ở Bắc Hàn, “ông phải hối lộ một vài thành viên của đảng hay quân đội để có thể kiếm được những thứ nhu yếu căn bản.” Vì vậy tham nhũng là một mệnh lệnh.
Tôi không ngạc nhiên khi nhìn thấy bất kỳ người tàn tật nào. Sự thật là chính thể Bắc Hàn, phân biệt chủng tộc và theo thuyết ưu sinh, bị ám ảnh với khái niệm về sự trong sạch chủng tộc trong đó “sự ngoại thường” được chỉ rõ đó không có chỗ đứng. Do vậy họ bị trục xuất khỏi những thành phố chính.
Bắc Hàn là một quốc gia đóng cửa quá kín đến mức không ai có thể vào hoặc đi đây đó mà không có visa — kể cả Chúa” những người tị nạn nói thêm và pha chút hài hước. Hai nguyên tắc chính của sự đàn áp là, về một mặt, sự kiểm soát toàn diện trên mọi hoạt động của dân chúng, về mặt khác, bắt buộc phải thờ ơ tuyệt đối với thế giới bên ngoài, những người tị nạn Bắc Hàn đã trốn thoát thành công khám phá ra trong sự kinh ngạc trước thực tại hoàn toàn khác với những gì họ đã được nghe từ khi sinh ra.
Họ miêu tả việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác-xít tràn lan giáng những cú đòn xuống người dân để biến họ những thây ma, ngoan ngoãn trước Đảng Cộng sản. Nhà độc tài được trình bày đúng như một “vị thần,” một ý tưởng không bao giờ được thiếu trong mọi bài diễn văn, trong mọi bài học, và trong tất cả thông tin. Triều đại Kim là mục tiêu của những nỗ lực tuyên truyền điên cuồng, với 30.000 bức tượng và ảnh chân dung khổng lồ trong mọi thành thị và làng mạc và những khẩu hiệu của nó được viết trên những bảng quảng cáo khổng lồ trên mọi con đường.
Người Bắc Hàn được dạy phải bí mật theo dõi những người hàng xóm và đồng nghiệp và tố cáo lẫn nhau với bất kỳ hành vi thiếu trách nhiệm đối với “Vị Lãnh Tụ Vĩ Đại.” Sau khi bắt giữ người vi phạm, toàn khu dân cư đó và gia đình bị bố ráp để răn đe những sự vi phạm của người bị cho là có tội. Rồi người đó hoặc là bị trục xuất, hoặc mọi người phải chứng kiến việc xử tử người đó.
Nhiều ngàn người Ki-tô hữu đang chết dần mòn trong những trại trục xuất này. Những báo cáo của người chứng kiến tận mắt và những quan sát của các vệ tinh Tây phương cho phép ước lượng con số người bị giam giữ trong những trại tập trung này — bất kỳ chỗ nào là khoảng từ 100.000 đến 200.000 người. Sự tàn bạo của những lính canh trại là lương thực hàng ngày của những tù nhân này, họ phải làm việc 16 tiếng một ngày, chịu tra tấn tàn ác, không nói về những vụ hành quyết nơi công cộng của những người bị cho là đã phạm tội.
Trong số những “tù nhân chính trị” này, những người chịu đựng những hành vi đối xử tồi tệ nhất là người Ki-tô hữu, vì họ bị xem như những gián điệp, như là “những kẻ chống lại cách mạng của tầng lớp thứ nhất.” Theo thể chế này có khoảng 13.000 người, nhưng theo các tổ chức nhân đạo có từ 20.000 đến 40.000 người. Họ bị chọn ra để chịu những hình thức trừng phạt dã man nhất — họ bị đóng đinh, bị treo trên cầu hoặc trên cây, bị dìm nước chết, hoặc bị thiêu sống. Một số hình thức tra tấn quá kinh khủng không thể dùng từ ngữ miêu tả.
Các người lãnh đạo của Bắc Hàn đã trục xuất mọi hình thức tôn giáo, đặc biệt Ki-tô giáo và Phật giáo — vì, theo chủ nghĩa Mác-xít, tôn giáo là “thuốc phiện của con người.” Người Bắc Hàn không biết quyển Kinh Thánh là gì, và cũng chẳng biết Thượng đế là ai. Vài năm trước, với sự tuyên truyền phô trương ầm ĩ, nhà nước đã mở cửa một nhà thờ Công giáo, một nhà thờ Tin lành, và một nhà thờ Chính thống giáo ở thủ đô — nhưng dĩ nhiên chúng chẳng là gì ngoài sự phô trương thuần túy!
Tuy nhiên bất kể những việc như vậy, có một Giáo hội dưới lòng đất ở Bắc Hàn, là mục tiêu của sự bách hại liên tục. Những người tị nạn Bắc Hàn khẳng định rằng họ đã nhìn thấy những người hàng xóm bị bắt vì đọc kinh, ngay tại nhà hay nơi bí mật. Một số thông tin đã được sàng lọc; ví dụ hai năm trước, một phụ nữ mang thai 33 tuổi bị bắt vì sở hữu 20 quyển Kinh thánh. Chị bị đánh dã man, rồi bị treo ngược đầu nơi công cộng. Tháng Năm 2010, khoảng 20 người Ki-tô hữu bị bắt, họ là một phần của Giáo hội bí mật. Ba người ngay lập tức bị giết chết và những người còn lại bị đưa vào trại.
Người ta cho rằng từ năm 1995 ít nhất 5000 người Ki-tô hữu đã bị xử tử, đơn giản chỉ vì họ bí mật đọc kinh hay phân phát Kinh Thánh. Nhiều người Bắc Hàn trở thành Ki-tô hữu nhờ sự có mặt của các nhà thừa sai nước ngoài ở vùng biên giới. Người ta cũng biết rằng một số linh mục người Mỹ và Canada gốc Nam Hàn hiện tại đang bị giam trong các trại tù chính trị vì đã giúp người tị nạn.
Người tị nạn, khi bị bắt, có nguy cơ bị cưỡng bức trở về nước — nghĩa là nhà tù, tra tấn, trại giam và cái chết. Nếu họ không bị hồi hương, họ có nguy cơ rơi vào tay của những tổ chức tội phạm buôn bán nội tạng người. Phụ nữ và các em gái có nguy cơ bị bắt cóc bởi các băng nhóm và bán cho các nông dân, hay thậm chí tệ hơn, cho các chủ nhà chứa. Một em gái Bắc Hàn có thể bán với giá $800-$1200.
Và vì thế, là một thừa sai và một linh mục Công giáo, tôi nói lên ở đây thay mặt cho tất cả những người Bắc Hàn kia đã phải sống những Chặng đàng Thập giá dài nhất trong suốt 60 năm qua trong lịch sử con người. Tôi lên tiếng thay mặt cho những người bị móc mất một con mắt, hay một bộ phận khác — không hề có thuốc mê — để rồi các bộ phận đó được cấy ghép cho những người Trung quốc, Nhật bản và những người giàu có khác! Tôi lên tiếng nói thay mặt cho tất cả những người Bắc Hàn là nạn nhân của những kẻ buôn bán nô lệ!
Tóm lại, đánh giá mọi việc trên căn bản địa chính trị nghiêm túc — cân nhắc đến sự chậm chạp của Trung quốc và các quyền lực Tây phương — 21 triệu người Bắc Hàn có nguy cơ phải chờ đợi một thời gian dài nữa trước khi nhìn thấy được sự cải thiện tận gốc rễ cho số phận của họ. Nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa, nghĩa là — một điều chúng ta phải toàn tâm toàn ý cầu nguyện mỗi ngày cho dân tộc bị đóng đinh này.
[Nguồn: zenit]



[Chuyển ngữ: TRI KHOAN 08/04/2017]



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét